Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.05 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ MẠNH DŨNG

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Đạo đức học
Mã số :9 22 90 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HOC:
GS.TS. Hồ Sĩ Quý

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Tài
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Thọ
Phản biện 3: GS.TS. Trần Phúc Thăng
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.


Vào hồi ….giờ … ngày … tháng … năm 201....

CÓ THỂ TÌM THẤY LUẬN ÁN TẠI THƯ VIỆN:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu sinh chọn: “Sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình, vì các lý do:
Thứ nhất, trong các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam thì giá trị đạo
đức truyền thống như tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý thức cộng đồng, nhân ái, cần
cù, tiết kiệm, hiếu học và tôn sư trọng đạo… luôn giữ vị trí nền tảng. Mặc dù, các
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và tương đối ổn
định từ lâu, nhưng nội dung, kết cấu, phương thức thể hiện không phải bất biến mà
luôn có sự biến đổi cùng với sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, của thể chế
chính trị và sự xâm nhập, giao lưu, tiếp biến với các trào lưu tư tưởng, văn hóa từ
bên ngoài, nên cần phải làm rõ quá trình biến đổi đó.
Thứ hai, ở nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế làm cho các giá trị đạo
đức truyền thống được kế thừa và bổ xung những yếu tố mới mang tính thời đại,
hướng tới những giá trị toàn nhân loại nhưng bên cạnh đó, cũng xuất hiện xu hướng
làm suy giảm các giá trị đạo đức truyền thống trong một số cộng đồng, tầng lớp,
nhất là lớp trẻ...
Thứ ba, nghiên cứu sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam,
nhằm tìm các giải pháp để hạn chế những biến đổi tiêu cực và hướng các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc biến đổi theo xu hướng tích cực…
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: làm rõ sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam

trong điều kiện hiện nay, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm sự biến
đổi các giá trị đạo đức truyền thống theo hướng tích cực.
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
Thứ nhất, tổng quan những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và
xác định những nội dung mà luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, làm rõ các khái niệm cơ bản tạo thành khung lý luận để nghiên cứu
về sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống và phân tích sự biến đổi đó trong sự vận
động lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, nghiên cứu thực trạng biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam, cả những biến đổi theo hướng tích cực lẫn biến đổi tiêu cực và nguyên nhân
của sự biến đổi đó ở nước ta hiện nay.

1


Thứ tư, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tác động tích cực và
hạn chế tác động tiêu cực đến sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống, đáp
ứng các yêu cầu xây dựng đất nước, con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng: luận án nghiên cứu về sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền
thống Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: luận án chỉ nghiên cứu sự biến đổi một số giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam tiêu biểu: yêu nước, đoàn kết và ý thức cộng đồng, nhân ái
và thương người, cần cù và tiết kiệm, hiếu học và tôn sư trọng đạo.
Thời gian khảo sát sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
chủ yếu là từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới (1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: luận án dựa trên lý luận triết học, đạo đức học Mác –Lênin;
trên tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giá trị
đạo đức truyền thống Việt Nam. Đồng thời, chú trọng kế thừa quan điểm và các

thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học về các vấn đề liên quan đến đề tài luận
án trong quá trình đổi mới ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, của đạo đức học Mác – Lênin, đặc
biệt chú trọng các phương pháp như lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, so
sánh, đối chiếu, trừu tượng hoá, khái quát hoá và tiếp cận giá trị.
5. Những điểm mới của luận án
Một là, phân tích quá trình biến đổi và những yếu tố tác động tới sự biến đổi
các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam.
Hai là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tác động đến sự biến
đổi của các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam theo hướng tích cực và hạn chế
xu hướng tiêu cực.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: luận án góp phần nghiên cứu sâu thêm một số vấn đề lý luận
của sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
trong khuôn khổ chuyên ngành đạo đức học và triết học tại các cơ sở giáo dục đại
học và sau đại học.
Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bảo vệ, giữ gìn và
phát triển các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế; đồng thời, chủ động tạo ra các yếu tố tác động
2


tích cực và hạn chế việc biến đổi tiêu cực của các giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả,
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương 9 tiết.
Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị đạo đức truyền thống và sự biến đổi
của giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về giá trị
đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
Trần Văn Giàu (1993) trong cuốn “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, đã phân tích một cách sâu sắc về các giá
trị tinh thần truyền thống quý báu của người Việt Nam; đó là lòng yêu nước, cần
cù, anh dũng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa...
Trong công trình: “Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” của Nguyễn Ngọc
Vân đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 11/ 1995; cũng như công
trình: “Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề xuất” của Phan Huy Lê, đăng
trên Tạp chí Cộng sản, số 8/1996, các tác giả đều nêu và phân tích những giá trị
truyền thống cơ bản của dân tộc (trong đó có giá trị đạo đức truyền thống) và vai
trò của chúng đối với việc hình thành các giá trị hiện đại.
Công trình: “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển”,
Tạp chí Triết học, số 2/ 1998; tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn nêu lên tương đối rõ nét
về nội dung và những cách thức nhằm khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu
phát triển
Công trình: “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa”
do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) (2002), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, các tác giả không chỉ đề cập đến các giá trị truyền
thống và thực trạng của các giá trị truyền thống Việt Nam mà còn nêu lên những
vấn đề về sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước
những thách thức của xu thế toàn cầu hóa.
Và một số công trình tiêu biểu của tác giả Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2014)
trong cuốn sách: “Giá trị văn hoá Việt Nam - truyền thống và biến đổi”, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội; tác giả Trần Đức Dương, trong bài: “Phát huy
3



những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2/2010; tác giả Trần Nguyên Việt trong bài: “Giá
trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức
trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, số 5/2002; …
Một là, về cơ bản các tác giả đều thống nhất với những giá trị tinh thần truyền
thống tiêu biểu do Trần Văn Giàu đã nêu như lòng yêu nước, nhân ái, tính cộng
đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu học, trong đó yêu nước là giá trị hàng đầu.
Đồng thời, đó cũng là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Hai là, các tác giả đều khẳng định, giá trị đạo đức truyền thống hình thành
cùng với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc, do điều kiện kinh tế
- xã hội, sinh hoạt văn hoá - tín ngưỡng, thể chế chính trị quy định, được trao
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Ba là, các tác giả khẳng định, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ít
nhiều đều mang giá trị toàn nhân loại, chính vì thế chúng có sức sống trường tồn.
Bốn là, các tác giả đều cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng cũng
như giá trị truyền thống nói chung là sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai
của dân tộc. Đồng thời chúng còn là tiền đề và động lực thúc đẩy lịch sử dân tộc
phát triển.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề sự biến đổi của
các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
Trở lại tác phẩm của Trần Văn Giàu (1993): “Giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, đã được nhắc đến trên đây.
Từ việc khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống và giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, tác giả nêu lên việc cần phải kế thừa những giá trị tinh thần, đạo
đức truyền thống trong xây dựng các giá trị văn hóa mới ở nước ta hiện nay. Trong
đó, các giá trị đạo đức truyền thống cũng phải có những biến đổi nhất định để
tương thích với những biến đổi của điều kiện xã hôi đã và đang biến đổi.
Sự tác động của công cuộc đổi mới tới các giá trị đạo đức, trước hết phải kể

đến công trình: “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trườngvới việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” do
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã
đề cập đến một số vấn đề về đạo đức đang được xã hội quan tâm, đồng thời cũng đã
có những luận giải khá sâu sắc về sự biến đổi của bậc thang giá trị đạo đức trong cơ
chế thị trường. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã nghiên cứu, đề xuất một số
phương hướng, giải pháp có tính chất định hướng cho việc hình thành các giá trị

4


đạo đức mới dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường nhằm xây dựng những giá
trị đạo đức cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay.
Theo tác giả Nguyễn Đình Tường trong bài “Một số biểu hiện của sự biến đổi
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục”, (Tạp chí Triết học, số 6/2002), thì việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc chính là làm phong phú nội dung của các giá trị đạo đức
truyền thống ấy trong thời đại mới, đem lại sức mạnh của chúng phục vụ cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên) (2002)
trong công trình:“Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội), trình bày về sự biến
đổi các giá trị truyền thống sang hiện đại. Đó là do việc chuyển sang thực hiện nền
kinh tế thị trường, do những tiến bộ công nghệ trong sản xuất và trong các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội. Sự tác động của kinh tế thị trường, của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong quá trình toàn cầu hoá tới các giá trị văn hoá truyền thống
luôn có tính hai mặt là tích cực và tiêu cực, nên việc khai thác, giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống là một trong những đảm bảo cho xã hội và con người phát
triển bền vững.
Cao Thu Hằng trong bài viết: “Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu

đạo đức gắn với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số
7/2004, cho rằng nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống vừa mang tính giai
cấp vừa mang tính thời đại của từng giai đoạn lịch sử nhất định; khi thay đổi giai
cấp thống trị, thời đại thay đổi thì nội dung các giá trị đạo đức cũng thay đổi.
Trong công trình: “Toàn cầu hoá trong bối cảnh Châu Á – Thái Bình Dương:
Một số vấn đề triết học” do Phạm Văn Đức (Chủ biên) (2007), Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, đã phân tích, đánh giá sự biến động của một số giá trị truyền thống
Việt Nam trước sự tác động tích cực cũng như tiêu cực của làn sóng toàn cầu hoá.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài: “Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý
nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Triết học, số 9/2008, đã cụ thể hoá tư tưởng của C.Mác về tính quy định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, đồng thời trình bày
luận chứng của Ph.Ăngghen về bản chất xã hội của đạo đức bằng việc chỉ ra tính
thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.
Và các công trình của các tác giả như “Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Duy Bắc
(chủ biên) (2008); Lê Thị Tuyết Ba (2010), trong công trình “Ý thức đạo đức trong
5


điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2010); Công trình “Mấy vấn đề về đạo đức học mác - xít và xây dựng đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt
(2012), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội...
Các công trình nghiên cứu về sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc Việt Nam, đều khẳng định:
Một là, sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống không phải là điều bất bình
thường mà là quy luật phát triển có tính tất yếu khách quan. Điều đó phụ thuộc vào điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội. Các chuẩn mực đạo đức thống trị xưa nay bao giờ cũng do
giai cấp thống trị, giai cấp đại diện cho lực lượng quyết định phát triển xã hội trong từng

giai đoạn lịch sử nhất định tạo nên.
Hai là, sự biến đổi của các giá trị đạo đức là sự biến đổi cả về mặt nội dung và
cả về hình thức thể hiện.
Ba là, sự biến đổi diễn ra cả theo chiều hướng tích cực và chiều hướng tiêu
cực trong quá trình vận động. Do vậy, cần phải có sự định hướng cho sự phát triển
của các giá trị đạo đức.
Bốn là, sự biến đổi của các giá trị đạo đức truyền thống không chỉ là sự kế
thừa các giá trị dân tộc mà còn là sự tiếp thu, cải biến những tinh hoa văn hoá tinh
thần và giá trị đạo đức của các dân tộc khác trong quá trình giao lưu tiếp biến.
Năm là, các giá trị đạo đức truyền thống dù biến đổi nhưng vẫn chậm hơn, thể
hiện sự bền vững hơn so với các biến đổi giá trị tinh thần khác. Đồng thời, chúng
vẫn chiếm vị trí và vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển của các cộng đồng người,
trước hết về mặt văn hóa tinh thần.
1.2. Những công trình liên quan đến thực trạng, nguyên nhân biến đổi các giá
trị đạo đức truyền thống Việt Nam và phương hướng, giải pháp đảm bảo sự biến
đổi theo hướng tích cực
1.2.1. Những công trình liên quan đến thực trạng biến đổi các giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam và nguyên nhân của thực trạng đó
Trần Ngọc Thêm trong báo cáo, “Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá
truyền thống Việt Nam” trình bày tại Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập” ngày
18/09/2009 tại Biên Hoà - Đồng Nai, cho rằng, khác với các nước khác, Việt Nam
phát triển theo lối trọng tĩnh là từ từ, ít đột biến.
Nguyễn Đình Tường trong bài viết “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền
thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hoá” (Tạp chí Triết học, số 5/2006), đã nêu
và phân tích thực trạng biểu hiện giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trước tác động
6


của toàn cầu hoá. Đó là, những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và đang làm chao

đảo nhiều giá trị tinh thần truyền thống, cũng như nhân cách con người Việt Nam. Đặc
biệt, một số giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan trọng
trong hệ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam cũng đang có nguy cơ bị mai
một và tha hoá.
Nguyễn Văn Phúc trong bài “Về việc tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong
xây dựng về đạo đức mới ở nước ta hiện nay” (Tạp chí triết học, số 11/2006), cho
rằng, khi xem xét thực trạng đạo đức hiện nay, cần chấp nhận một thực tế là, ở mức
độ nhất định, sự rối loạn của chuẩn mực đạo đức là tất yếu, không tránh khỏi.
Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền trong bài “Toàn cầu hoá và nguy cơ suy thoái
đạo đức lối sống con người Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Triết học, số 6/2007) thì
toàn cầu hoá đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta, một mặt, tác động tích
cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại sang một lối
sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại.
Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng đã dẫn
đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc.
Đánh giá sự biến đổi của giá trị đạo đức truyền thống trong tác phẩm “Văn
hoá đạo đức ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” do Lê Quý Đức – Hoàng
Chí Bảo (Đồng chủ biên) (2007, Nxb. Văn hoá thông tin & Viện văn hoá, Hà Nội).
Tương đồng với nhận xét, đánh giá về thực trạng biến đổi giá trị đạo đức truyền
thống của các tác giả trên đây, trong cuốn sách: “Giá trị văn hoá Việt Nam - truyền
thống và biến đổi” do Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 2014, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội), các tác giả nhận xét, sự đổi mới văn hoá truyền thống diễn ra một
cách không bình thường, đó là không có kế thừa và phát triển, không có tiếp thu và
loại bỏ, mà thường là sự đan xen hỗn loạn giữa cái cũ và cái mới, không tạo nên sự
liên kết hữu cơ với nhau, cái cũ mất đi, cái mới chưa hình thành, tạo nên sự hụt
hẫng trong đời sống văn hoá và hệ quả thường là đời sống văn hoá của nhân dân bị
suy kiệt và trở nên nghèo nàn…
Các công trình nghiên cứu có liên quan đến thực trạng biến đổi của giá trị đạo
đức truyền thống Việt Nam hiện nay, đã giải quyết được một số vấn đề:
Một là, cũng như phần lớn các giá trị văn hoá khác, giá trị đạo đức truyền
thống biến đổi một cách từ từ, ít có sự đột biến.

Hai là, trong quá trình biến đổigiá trị đạo đức truyền thống hiện nay xuất hiện
biểu hiện rối loạn chuẩn mực đạo đức.
Ba là, có hai xu hướng biến đổi:

7


- Xu hướng thứ nhất, hình thành một số giá trị mới, khắc phục những hạn
chế của giá trị truyền thống.
- Xu hướng thứ hai, “trượt dốc”, xuống cấp ngày càng xa rời hoặc làm mai
một các giá trị truyền thống.
Bốn là, do thực trạng đang loạn chuẩn và có sự xuống cấp nên cần quan tâm đến
đạo đức cả về mặt giá trị và phi giá trị (các phẩm chất xấu của người Việt Nam).
Các tác giả đã phân tích và xác định được những nguyên nhân khách quan và
những nguyên nhân chủ quan của thực trạng trên.
Về nguyên nhân khách quan: Do điều kiện kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá
độ; do sự tác động của các yếu tố thị trường trong điều kiện hội nhập và toàn cầu
hóa; sự thay đổi ít nhiều về cơ chế vận hành các thể chế chính trị.
Về nguyên nhân chủ quan: do sự quản lý và định hướngchưa thỏa đáng của
các cấp quản lý xã hội, cả ở cấp độ lý luận, pháp luật và thực tiễn quản lý.
1.2.2. Những công trình liên quan đến các giải pháp đảm bảo sự biến đổi
các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam theo hướng tích cực
Tác giả Nguyễn Đình Tường trong bài: “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá
trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục”, Tạp chí Triết học, số 6/2002, đặc biệt coi trọng và quan tâm đến công tác
tuyên truyền và giáo dục đạo đức cho toàn xã hội, nhất là thế hệ trẻ, đó là nhiệm vụ
của từng gia đình, của các nhà trường và cả xã hội.
Cũng theo Nguyễn Văn Phúc trong bài “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ
trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay”, (Tạp chí Triết học, số
11/2006), thì thực chất của sự chuyển đổi đạo đức là sự chuyển đổi về giá trị và

chuẩn mực.
Nguyễn Đình Tường trong bài “Gữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền
thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hoá”, (Tạp chí Triết học, số 5/2006),
đã phân tích, làm rõ thực trạng và nguyên nhân của việc giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa Việt Nam truyền thống trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
Các tác giả công trình“Toàn cầu hoá trong bối cảnh Châu Á – Thái Bình
Dương: Một số vấn đề triết học” do Phạm Văn Đức (Chủ biên) (Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2007), có nêu một số giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ, phát huy các giá trị văn
hoá truyền thống và khắc phục sự suy thoái đạo đức lối sống: một là, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự bảo đảm tầng sâu cho việc giữ gìn
và phát huy giá trị văn hoá truyền thống; hai là, tăng cường vai trò của pháp luật trong
việc bảo vệ các giá trị truyền thống và kiên quyết đấu tranh bài trừ những tư tưởng,

8


đạođức, lối sống không phù hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam; ba là, tăng cường
công tác giáo dục truyền thống.
Theo Nguyễn Văn Phúc trong bài “Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý
nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay”,
(Tạp chí Triết học, số 9/2008), xét đến cùng, đạo đức bị quy định bởi cơ sở kinh tế
- xã hội, thì sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới hiện nay phải gắn liền và là một
bộ phận của sự nghiệp đổi mới.
Tác giả Trần Đức Dương trong bài “Phát huy những giá trị tích cực của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giai đoạn hiện nay” (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo,
2/2010), cho rằng, để phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (trong đó có giá
trị đạo đức truyền thống) cần phải có sự định hướng từ chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước; đồng thời, phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các ngành,
các cấp, các tổ chức chính trị -xã hội, các làng, xã, họ tộc, từng gia đình và từng
con người trong nhận thức và hành động để ngày càng phát huy được những giá trị

tích cực, khắc phục những hạn chế trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên và qua đó xây
dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Công trình “Giá trị văn hoá Việt Nam - truyền thống và biến đổi” (Nxb.
Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2014) do Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), chỉ ra
rằng, để bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, chủ động
hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, cần thực hiện các quan điểm giải
pháp chính yếu.
Từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu trong mỗi công trình mà các tác giả có đưa ra
các giải pháp nhằm bảo đảm sự biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống nói chung, hay
các giá trị đạo đức truyền thống nói riêng theo hướng tích cực.
Một là, tăng cường giáo dục giá trị văn hoá truyền thống (gồm cả các giá trị
đạo đức truyền thống).
Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề và điều kiện cơ sở vật chất lành
mạnh bảo đảm cho sự biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống nói chung cũng như
giá trị đạo đức truyền thống theo hướng tích cực.
Thứ ba, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật, đồng thời
thực thi nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo định hướng biến đổi giá
trị đạo đức truyền thống theo hướng tích cực.
Thứ tư, phát huy vai trò tích cực của các chủ thể đạo đức (cá nhân, tập thể,
cộng đồng, dân tộc…) trong việc giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống.

9


1.3. Những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Tuy đã có nhiều công trình liên quan đến các vấn đề thuộc đề tài luận án,
nhưng chúng tôi nhận thấy phần lớn các công trình đều chỉ mới tiếp cận vấn đề từ
giá trị văn hoá truyền thống hoặc giá trị tinh thần truyền thống. Trong các công
trình bàn có đến sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam thì cũng chưa

phải mang tính trực tiếp mà chủ yếu là làm rõ một số khía cạnh giữa biến đổi giá trị
đạo đức truyền thống và kinh tế thị trường. Tiếp thu kết quả và sự gợi mở của các
công trình đã nêu trên đây, chúng tôi tiếp tục:
Một là, nghiên cứu một cách trực tiếp hệ thống các lý thuyết, các quan niệm về
giá trị đạo đức, sự biến đổi của giá trị đạo đức truyền thống trong xã hội hiện đại.
Hai là, xác định rõ giá trị đạo đức truyền thống và các giá trị đạo đức truyền
thống Việt Nam, phân loại, sắp xếp, phân tích trong một hệ thống các giá trị đạo
đức truyền thống Việt Nam tiêu biểu và cụ thể.
Ba là, khảo sát thực trạng sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam hiện nay, cả về hình thức, nội dung và kết cấu của chúng theo một số tiêu chí
có thể khảo sát được như khu vực, thành phần dân tộc, thành phần xã hội, tầng lớp
dân cư… Nghiên cứu chi tiết hơn và phân tích các nguyên nhân của sự biến đổi đó.
Bốn là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm định hướng sự biến đổi
các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam theo hướng tích cực bảo đảm tính dân
tộc và hiện đại.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Giá trị đạo đức truyền thống và sự biến đổi của nó không phải là điều bất bình
thường mà là quy luật phát triển có tính tất yếu khách quan do điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội và nhu cầu bình ổn xã hội của giai cấp thống trị trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định tạo nên. Các nhà khoa học đều thống nhất về các giá trị đạo
đức truyền thống Việt Nam tiêu biểu như: tinh thần yêu nước, đoàn kết, nhân ái,
cần cù, hiếu học…
Khi nói về sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống, các tác giả cho rằng,
chúng có sự biến đổi cả về nội dung lẫn hình thức, theo cả chiều hướng tích cực lẫn
tiêu cực, biến đổi nhưng có sự kế thừa giá trị tinh hoa dân tộc và nhân loại. Đồng
thời với việc chỉ ra nguyên nhân của thực trạng biến đổi các giá trị đạo đức truyền
thống, có tác giả đã đề cập đến các giải pháp nhằm hạn chế sự biến đổi của chúng
theo chiều hướng tiêu cực và định hướng chúng phát triển tích cực.

10



Chương 2
SỰ BIẾN ĐỔI CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
2.1. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam: các khái niệm cơ bản và một
số giá trị tiêu biểu
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội được hình thành từ khi hình thành xã hội
con người, đó là những yêu cầu, những quy tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người
phải tuân theo một cách tự nguyện, tự giác. Đạo đức bao gồm: ý thức, hành vi và
quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức là hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, lý tưởng,
tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí điều chỉnh quan hệ và hành vi đạo đức.
Hành vi đạo đức là hành động của con người dưới sự tác động của lý tưởng
đạo đức, biểu thị qua tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí.
Đạo đức còn là một dạng quan hệ xã hội, đó là quan hệ của mỗi con người với
chính bản thân mình và quan hệ của mỗi người với cộng đồng, cho nên đạo đức bao
giờ cũng mang tính xã hội và là sự thống nhất biện chứng giữa đạo đức xã hội và
đạo đức cá nhân.
Đạo đức hiện diện như là cái có ích, có ý nghĩa tích cực đối với đời sống con
người và do đó có giá trị đối với xã hội. Khi hệ thống các giá trị đạo đức đáp ứng
nhu cầu, lợi ích và có ý nghĩa đối với chủ thể, được chủ thể đạo đức lựa chọn nhằm
điều chỉnh và đánh giá hành vi, quan hệ ứng xử, đó cũng chính là sự định hướng
giá trị đạo đức.
2.1.1.2. Khái niệm về giá trị
Trên thực tế, nhiều ngành khoa học có sử dụng khái niệm giá trị, chẳng hạn,
toán học, lôgic học, văn hóa, nghệ thuật, xã hội học, triết học, mỹ học, đạo đức học…
Quan niệm chung, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác phần lớn các ngành khoa học

đều cho rằng, giá trị thể hiện những gì có ích, có ý nghĩa, đó là các sự vật, hiện tượng
của tự nhiên, của xã hội và của tư duy ý thức, chúng có khả năng thỏa mãn nhu cầu
nào đó về vật chất hoặc tinh thần và phục vụ cho lợi ích của con người.
Theo quan điểm của tác giả thì: Giá trị là khái niệm dùng để chỉ ý nghĩa văn
hóa - xã hội của các hiện tượng, bao gồm tất cả những cái đáp ứng nhu cầu, lợi ích
và có ý nghĩa nhất định đối với chủ thể (cá nhân, tập thể, xã hội), đó là sự thống
nhất giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan của chủ thể trong việc xem xét,

11


đánh giá, chúng thúc đẩy hoạt động tích cực, sự nỗ lực chủ quan khi được nhận
thức, được lựa chọn và chi phối sự suy nghĩ, tình cảm, niềm tin của chủ thể.
2.1.1.3. Khái niệm về giá trị đạo đức
Giá trị đạo đức là yếu tố cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của mỗi chủ
thể, cũng như của toàn xã hội trong các lĩnh vực của hoạt động và có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Giá trị đạo đức phản ánh đời sống kinh tế và
xã hội, vì thế, các giá trị đạo đức cũng mang tính giai cấp (trong điều kiện xã hội
phân chia giai cấp), tính dân tộc, tính thời đại.
Đạo đức hiện diện như là cái có ích, có ý nghĩa tích cực đối với đời sống con
người và do đó có giá trị đối với con người, xã hội loài người. Nói cách khác, giá
trị đạo đức là ý nghĩa văn hóa - xã hội của những quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực,
qui tắc ứng xử được hình thành từ thực tiễn lịch sử xã hội, đáp ứng nhu cầu, lợi ích
và có ý nghĩa tích cực với cuộc sống, được các chủ thể đạo đức lựa chọn nhằm
điều chỉnh và đánh giá hành vi, quan hệ ứng xử của con người theo các tiêu chí
hướng thiện, danh dự, nghĩa vụ, công bằng… được lương tâm đồng tình và dư luận
biểu dương.
Mỗi giai đoạn lịch sử đều có những nguyên tắc, chuẩn mực và hệ thống các
thang bậc giá trị đạo đức của giai đoạn lịch sử đó. Ngoài sự chi phối của điều kiện
kinh tế - xã hội, đạo đức còn bị chi phối bởi sự tự ý thức và niềm tin về bản thân, về

giai cấp, dân tộc mà mình sinh sống và hoạt động theo lý tưởng, theo sự định
hướng giá trị đạo đức nhất định
2.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống: khái niệm và một số giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam tiêu biểu
2.1.2.1. Khái niệm về truyền thống
Truyền thống là sự bảo tồn qua thời gian của những hiện tượng văn hoá - xã
hội, bao gồm những tư tưởng và tình cảm, những thái độ và hành vi, những phương
thức và khuôn mẫu trong tư duy, trong lối sống và cách ứng xử… của một cộng
đồng người nhất định được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2.1.2.2. Khái niệm về giá trị đạo đức truyền thống
Giá trị đạo đức truyền thống là hệ những giá trị tốt đẹp, thể hiện trong những
chuẩn mực đạo đức phổ biến, có tác động tích cực tới cộng đồng, điều chỉnh hành
vi cá nhân cũng như mọi mối quan hệ trong xã hội, được số đông thừa nhận, mang
tính ổn định tương đối và ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội từ thế hệ này nối tiếp
thế hệ khác của dân tộc.

12


Giá trị đạo đức truyền thống là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử dân tộc, đó chính là những giá trị đạo đức tốt đẹp được thể hiện trong những
chuẩn mực đạo đức phổ biến, có tác động tích cực tới cộng đồng, điều chỉnh quan
hệ giữa cá nhân và xã hội để tạo nên sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội.
2.1.3. Một số giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam tiêu biểu
Khái quát về các giá trị đạo đức truyền thống tiêu biểu của cộng đồng dân tộc
Việt Nam có sự khác nhau nhưng trong luận án chúng tôi chỉ nêu 5 giá trị đạo đức
truyền thống tiêu biểu đều được các nhà khoa học thừa nhận, đó là: yêu nước; đoàn
kết và ý thức cộng đồng; nhân ái và thương người; cần cù và tiết kiệm; hiếu học và

tôn sư trọng đạo.
2.2. Sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống: khái niệm, cơ chế và biểu
hiện của nó qua các thời kỳ trong lịch sử dân tộc Việt Nam
2.2.1. Khái niệm về sự biến đổi giá trị đạo đức
Sự biến đổi xã hội là quá trình làm cho những khuôn mẫu của các hành vi xã
hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống kết cấu xã hội được
thay đổi theo thời gian. Sự ổn định xã hội chỉ là tương đối về mặt hình thức, bề
ngoài, còn thực tế bên trong bản thân nó, về mặt nội dung luôn có sự vận động,
biến đổi; sự biến đổi xã hội trong xã hội hiện đại ngày càng rộng về quy mô, nhanh
hơn về tốc độ và tính chất ngày càng sâu sắc hơn. Đó là,sự biến đổi xã hội so với
tình trạng xã hội hoặc đời sống văn hóa – xã hội có trước và sự biến đổi đó ảnh
hưởng sâu sắc đến phần lớn các thành viên xã hội. Chính sự tương tác phức tạp của
nhiều yếu tố xã hội (cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài) đã tạo nên sự biến
đổi. Trong sự biến đổi xã hội có sự biến đổi của các giá trị đạo đức và biến đổi các
giá trị đạo đức truyền thống.
2.2.2. Cơ chế biến đổi giá trị đạo đức truyền thống
Cơ chế biến đổi giá trị đạo đức truyền thống là cách thức qua đó quá trình
tương tác giữa các thiết chế, các tổ chức xã hội và các cá nhân mà chuẩn mực giá
trị đạo đức truyền thống được kế thừa, biến đổi và phát triển. Trong cơ chế vận
động của sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống thường bắt đầu từ yếu tố giai
cấp, dân tộc, gia đình đến ý thức, hành vi, quan hệ đạo đức của các cá nhân.
Bởi vì, cơ chế biến đổi giá trị đạo đức truyền thống phụ thuộc vào phương
thức tiến hành của giai cấp thống trị qua thể chế chính trị, sự tuyên truyền, giáo dục
của nhà trường, xã hội và gia đình. Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo
dục, cá nhân hướng theo yêu cầu của gia đình, nhà trường, xã hội và lợi ích của
mình để lựa chọn các giá trị, hoàn thiện phẩm chất đạo đức cá nhân. Xã hội biến
13


đổi, nội dung, hình thức biểu hiện các giá trị đạo đức truyền thống biến đổi thì sự

lựa chọn, rèn luyện đạo đức cá nhân cũng theo đó mà biến đổi.
2.2.3. Sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống qua các thời kỳ trong lịch sử
dân tộc Việt Nam
Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam cũng có sự biến đổi trong suốt quá
trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
Sự biến đổi của tinh thần yêu nước trong lịch sử: yêu nước là hệ quan điểm,
quy tắc xem xét đánh giá hành vi, quan hệ đạo đức của mỗi con người với cộng
đồng, đồng thời là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người cũng như của cả cộng
đồng đối với Tổ quốc Việt Nam được biến đổi phù hợp với từng thời kỳ lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và dựng xây đất nước.
Sự biến đổi của tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng: đoàn kết, ý thức cộng
đồng là nguyên tắc, chuẩn mực điều chỉnh hành vi và quan hệ đạo đức của mỗi con
người Việt Nam nhưng do yêu cầu của giai cấp thống trị trong từng thời kỳ lịch sử
mà ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết được thể hiện với những hình thức và nội
dung khác nhau.
Sự biến đổi đức tính cần cù, tiết kiệm:cần cù, tiết kiệm là giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc Việt Nam nhưng ở từng thời kỳ lịch sử, giá trị đó bị chi phối
bởi điều kiện lịch sử, quan điểm giai cấp mà ít nhiều có sự biến đổi theo sự biến đổi
của phương thức sản xuất tạo ra của cải vật chất.
Sự biến đổi tình nhân ái, thương người: tình nhân ái, thương người được
truyền từ đời này qua đời khác và trở thành truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam. Cùng với ảnh hưởng của văn hoá phương Đông, trong quá trình giáo lưu, tiếp
biến các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại, các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Việt Nam còn được làm giàu có, phong phú hơn bởi những tư tưởng giàu chất nhân
văn như tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái của nền văn minh phương Tây mà
đỉnh cao là chủ nghĩa Mác – Lênin do Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá vào Việt
Nam đầu thế kỷ XX.
Sự biến đổi truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo: hiếu học, tôn sư trọng
đạo hình thành là do sự kết hợp giữa lòng hiếu học, trí thông minh, sáng tạo của
người dân với những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo và khát vọng đổi đời. Thời

phong kiến người dân nghèo cũng vẫn cố gắng dùi mài kinh sử, khăn gói, lều
chõng đi thi mong được đỗ đạt làm quan nhưng mỗi thời mỗi khác, đức tính hiếu
học, tôn sư trọng đạo có sự biến đổi theo hệ giá trị của từng thời đaih. Ngày nay,
tinh thần hiếu học vẫn được tiếp tục phát huy mạnh mẽ, nạn mù chữ cơ bản đã

14


được thanh toán; giáo dục phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển con người, phát
triển của lực lượng sản xuất hiện đại.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Đạo đức là những yêu cầu, những quy tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người
phải tuân theo một cách tự nguyện, tự giác. Mỗi dân tộc, trong tiến trình phát triển
của mình đều sáng tạo nên những giá trị đạo đức vừa phản ánh vừa thể hiện bản sắc
dân tộc và mang tính bền vững cao. Vì thế, giá trị đạo đức trở thành chất keo cố kết
cộng đồng dân tộc và là động lực thúc đẩy các hoạt động lao động sản xuất, xây
dựng và bảo vệ đất nước. Theo chiều thời gian, có thể phân chia thành giá trị đạo
đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại.
Giá trị đạo đức truyền thống là một hệ giá trị tốt đẹp, tương đối ổn định và ăn
sâu vào tâm lý, tập quán xã hội từ thế hệ này nối tiếp thế hệ khác của dân tộc. Đối
với con người Việt Nam, yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái và thương người, đức tính cần cù và tiết kiệm, đức tính hiếu học, đã trở
thành những giá trị đạo đức truyền thống tiêu biểu.
Trong suốt tiến trình lịch sử, hệ giá trị đạo đức truyền thống không phải là
những giá trị vĩnh viễn, không biến đổi mà cùng với sự vận động biến đổi của lịch
sử về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nó cũng ít nhiều có sự biến đổi cho phù
hợp. Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy, sự biến đối của các giá trị đạo đức truyền thống
diễn ra không thuần túy giản đơn, không phải mọi sự biến đổi đều diễn ra theo xu
hướng tích cực mà còn có xu hướng biến đổi tiêu cực dễ làm mai một đi các giá trị
truyền thống đó.

Chương 3
THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CÁC GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
3.1. Những biểu hiện tích cực trong sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền
thống hiện nay ở Việt Nam và nguyên nhân của nó
3.1.1. Sự biến đổi một số giá trị đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay
Một là, từ tinh thần yêu nước truyền thống đến tinh thần yêu nước trong giai
đoạn hiện nay – yêu nước thời đại Hồ Chí Minh
Ngày nay yêu nước là trung thành với lợi ích dân tộc, với Tổ quốc Việt Nam
toàn vẹn, thống nhất. Định hướng giá trị đạo đức đó gắn trách nhiệm của mỗi người
dân nước Việt với đất nước của mình, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi cá nhân với
cộng đồng dân tộc Việt Nam; yêu nước là phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích của dân tộc,

15


bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN;
lòng yêu nước gắn liền với lòng tự hào về truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Hai là, từ ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết truyền thống của dân tộc đến
ý thức cộng đồng và tinh thần đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay
Biểu hiện của tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng hiện nay là sự yêu
thương đùm bọc, chia sẻ của đồng bào cả nước mỗi khi nhân dân ở một địa phương
nào đó gặp hoạn nạn, khó khăn; hay thể hiện qua quan hệ gia đình, dòng họ, làng
xã, các tổ chức xã hội; và, dựa trên sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
cộng đồng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, từ tinh thần cần cù, tiết kiệm truyền thống đến đức tính cần cù, tiết
kiệm trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, cần cù gắn liền với tinh thần lao động tích cực, năng động, sáng tạo
và tiết kiệm là chi tiêu hợp lý theo khả năng thu nhập; cần cù kết hợp chặt chẽ với

tinh thần lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao và làm giàu chính đáng;
cần cù gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ, lương tâm trong sản xuất kinh doanh.
Bốn là, từ truyền thống nhân ái, thương người đến lòng nhân ái, tình thương
yêu con người trong giai đoạn hiện nay
Tình nhân ái, thương yêu con người là quan tâm chia sẻ, bù đắp phần nào
những thiệt thòi, mất mát đối với những người có công với nước, những nạn nhân
chiến tranh hoặc gặp rủi ro, thiên tai; lòng nhân ái, thương yêu được thể hiện với cả
những người trước đây ở bên kia chiến tuyến, những người nhầm đường, lạc lối đã
từng phản bội lại lợi ích dân tộc; lòng nhân ái, yêu thương con người thể hiện cả
trong việc giải quyết những vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu hiện nay như
chống ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu…
Năm là, từ giá trị đạo đức hiếu học, tôn sư trọng đạo truyền thống đến những
biến đổi của chúng trong giai đoạn hiện nay
Hiếu học là nhu cầu hoàn thiện, phát triển nhân cách, để lập thân, lập nghiệp
trong nền kinh tế tri thức, đồng thời, học tập là nhiệm vụ suốt đời và của tất cả mọi
người; học luôn gắn với tôn trọng và yêu kính người thày.
3.1.2. Nguyên nhân biểu hiện sự biến đổi tích cực của các giá trị đạo đức
truyền thống hiện nay ở Việt Nam
Nguyên nhân chủ yếu của xu hướng biến đổi tích cực các giá trị đao đức
truyền thống, đó là: Nhờ có sự định hướng đúng đắn của Đảng đối với sự phát triển
xã hội và xây dựng con người mới, xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay; bên
cạnh đó, sự tác động tích cực, năng động giàu chất nhân văn của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác, có sự tác động của quá trình đô thị
16


hóa hình thành cư dân của nền kinh tế hàng hóa, lối sống công nghiệp ở nước ta
hiện nay; thêm vào đó, có sự tác động từ xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta hiện nay.
3.2. Biểu hiện tiêu cực trong sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống

hiện nay ở Việt Nam và nguyên nhân của nó
3.2.1. Biểu hiện tiêu cực trong sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống
hiện nay ở Việt Nam
Một là, những biểu hiện biến đổi tiêu cực trong tinh thần yêu nước của một số
người Việt Nam hiện nay
Thực tế, vẫn có những người “nhân danh yêu nước” muốn phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, xuyên tạc lịch sử hiện đại Việt Nam, phủ nhận thành quả của công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay; lợi dụng cơ chế để tham ô, trục lợi, vơ vét tài sản của
nhân dân, làm nghèo tài nguyên của đất nước, đi nước ngoài thì trộm cắp, phạm tội
làm nhục quốc thể, làm xấu đi hình ảnh dân tộc Việt Nam.
Hai là, biểu hiện biến đổi tiêu cực trong tinh thần đại đoàn kết, ý thức cộng
đồng của một bộ phận người Việt Nam hiện nay
Sự chênh lệch về thu nhập quá lớn giữa các tầng lớp xã hội đã tạo tâm lý tự ti,
đố kị, ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lối sống
thực dụng đã hình thành nên những cá nhân vị kỷ làm cho sự cố kết giữa các thành
viên trong cộng đồng gia đình, làng xóm, dân tộc trở nên lỏng lẻo hơn; tình trạng
tham nhũng đang làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, làm nguy hại đến
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kẻ thù lợi dụng, kích động phá vỡ khối đại đoàn kết
toàn dân.
Ba là, biểu hiện biến đổi tiêu cực về đức tính cần, kiệm trong một số người
Việt Nam hiện nay
Do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ, một bộ phận lớp trẻ ngày
nay quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, thích ăn chơi hưởng thụ, lười
lao động, học tập và hay đòi hỏi; thường quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm của bản
thân mình với gia đình, với xã hội, muốn “làm chơi” nhưng “ăn thật” sa vào tệ nạn
xã hội.
Bốn là, biểu hiện biến đổi tiêu cực về lòng nhân ái, thương người trong một
bộ phận người Việt Nam
Hiện nay, lối sống bạo lực, phi nhân tính có chiều hướng gia tăng, bạo lực học

đường đang ở tình trạng đáng lo ngại. Tội phạm hình sự ở Việt Nam trong những
năm gần đây tăng nhanh và có mức độ phi nhân tính cao, một loạt các tội danh mới
17


đã xuất hiện như: cướp ngân hàng, khủng bố cá nhân, tống tiền, bắt cóc trẻ em...
Tình yêu thương đùm bọc bị lấn át bởi những quan hệ vật chất, tiền bạc. Có những
kẻ sẵn sàng dẫm đạp lên cuộc sống, lên tính mạng người khác miễn là có tiền như
dùng chất độc hại bảo quản hoa quả, thực phẩm, dùng thực phẩm nhiễm bệnh bán
cho người khác ăn, thậm chí cho các bếp ăn trong trường học.
Năm là, biểu hiện biến đổi tiêu cực về sự hiếu học, tinh thần tôn sư trọng đạo
của một bộ phận người Việt Nam hiện nay
Lối sống chạy theo đồng tiền đã làm giảm sút, biến dạng của đức tính hiếu
học và suy giảm tinh thần tôn sư trọng đạo. Chuyện thày và trò đánh nhau là những
chuyện đau lòng, làm mất đi tình cảm tôn sư trọng đạo trong truyền thống dân tộc.
3.2.2. Một số nguyên nhân của những biểu hiện tiêu cực trong sự biến đổi
các giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở Việt Nam
Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của hội nhập, giao lưu quốc tế và quá trình
đô thị hóa tác động xấu tới giá trị đạo đức truyền thống; mặt khác, cũng phải thừa
nhận, sự chống phá của các thế lực thù địch chống cộng, chống lại sự lãnh đạo của
Đảng, chống Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng tinh vi. Bên
cạnh đó, một số sai lầm trong công tác chỉ đạo thực tiễn, buông lỏng quản lý của cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống.
Đặc biệt, một số cán bộ trong hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước không gương
mẫu mà quan liêu, tham nhũng, đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm của
một bộ phận quần chúng nhân dân.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam hiện nay vẫn còn nguyên giá trị và thể hiện rõ vai trò của
chúng trong điều kiện mới. Tuy vậy, các giá trị đạo đức đó cũng có những biến đổi

nhất định về nội dung, hình thức và phạm vi thể hiện do tác động của các nhân tố
xuất hiện khi đất nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đó là tác động có tính hai mặt của kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hóa,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên sự biến đổi các giá trị đạo đức truyền thống
cũng diễn ra theo hai hướng cả tích cực lẫn tiêu cực.
Phát huy những tác động tích cực, khắc phục những tác động tiêu cực của
các nhân tố đó, Đảng cộng sản Việt Nam với tư cách người lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng đất nước và con người Việt Nam đã chủ động và tích cực tác động vào các
giá trị đạo đức truyền thống. Sự tác động đó đã làm cho sự biến đổi của các giá trị
đạo đức truyền thống diễn ra theo chiều hướng tích cực, nghĩa là theo chiều hướng

18


đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện hiện nay.
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO SỰ BIẾN ĐỔI GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM THEO HƯỚNG TÍCH CỰC
4.1. Một số phương hướng đảm bảo sự biến đổi giá trị đạo đức truyền
thống Việt Nam theo hướng tích cực
4.1.1. Kế thừa, gìn giữ, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống vì sự phát
triển lành mạnh và bền vững của đất nước
Quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc với tính cách là những giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, đó là chỗ dựa cho
công tác giáo dục đạo đức, nhân cách, nhất là đối với việc giáo dục đạo đức cho thế
hệ trẻ. Bởi vì, chính thế hệ trẻ mới là người đóng vai trò tiếp nối truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc do các thế hệ trước đã vun đắp và để lại. Cho nên, tạo môi
trường cho sự tồn tại và phát triển của các giá trị đạo đức truyền thống là nhân tố cơ
bản tạo thành sức mạnh nội sinh của yếu tố văn hóa trong công cuộc xây dựng xã

hội mới.
Để từng bước xây dựng một xã hội phát triển hài hòa cần phải đảm bảo sự
thống nhất giữa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân; cần phải có sự đánh
giá, điều chỉnh các mối quan hệ đó một cách đầy đủ, biện chứng hơn. Trong quan
hệ đạo đức cá nhân với đạo đức xã hội cần chú ý đến nguyên tắc hoạt động vừa
mang lợi ích cho xã hội vừa mang lợi ích cho cá nhân
Phát huy giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở Việt Nam, chủ yếu là khơi
dậy trong con người những giá trị đạo đức truyền thống, nêu cao lòng tự hào, niềm
tin, ý chí, góp phần tự khẳng định vị trí cá nhân trong cuộc sống xã hội. Trong đó,
các phẩm chất đạo đức cá nhân như lòng tự trọng, tính trung thực, tính khiêm tốn,
lòng dũng cảm, tính nguyên tắc, yêu tự do, ham học hỏi... sẽ được từng bước kế
thừa, đổi mới và được nâng lên ngang tầm thời đại.
4.1.2. Chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại, làm giàu
các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, cần thiết phải chủ
động học tập, tiếp thu những giá trị tích cực, những tinh hoa văn hoá nhân loại để
làm giàu, làm mới cho mình, tránh tư tưởng khép kín hoặc bài ngoại.
Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta xây dựng là
nền văn hoá yêu nước, nhân văn, tiến bộ; trong đó nội dung cốt lõi là độc lập dân
19


tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Việc bảo vệ bản sắc dân tộc trong các giá trị đạo đức truyền thống phải gắn
liền với mở rộng giao lưu quốc tế, chủ động tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái
tiến bộ trong văn hóa của các dân tộc khác, đồng thời chống những nội dung đã lạc
hậu, lỗi thời, luôn nâng tầm dân tộc tương quan cùng thời đại
4.1.3. Phát huy các giá trị đạo đức truyền thống nhằm đề kháng với xu
hướng biến đổi tiêu cực làm xuống cấp môi trường xã hội

Theo kinh nghiệm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của nhiều
quốc gia trên thế giới, họ không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, khoa học và công
nghệ, mà còn rất đề cao các giá trị đạo đức. Bởi lẽ, chính các giá trị đó trong nhiều
trường hợp, đã đóng vai trò là động lực đối với sự phát triển cho đất nước của họ.
Cho nên, nếu chúng ta biết hướng về cội nguồn, biết bảo vệ những giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc, đó cũng chính là nội lực cho sự phát triển bền vững của xã
hội Việt Nam hiện tại và cả trong tương lai. Đất nước phát triển mà tách khỏi cội
nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tự tha hóa. Đi vào kinh tế thị
trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời, phủ nhận những giá trị truyền thống (trong
đó có các giá trị đạo đức truyền thống) sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, sẽ đánh mất
bản thân mình và trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
4.2. Một số giải pháp đảm bảo sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam theo hướng tích cực
4.2.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống
nhằm nâng cao trách nhiệm đạo đức cho mỗi cá nhân
Trong thời gian vừa qua, do ảnh hưởng của bối cảnh hội nhập, do công tác
tuyên truyền, giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống trong toàn xã hội chưa được
đề cao, chưa sâu, chưa sát nên đã xuất hiện nhiều hiện tượng trái với truyền thống
của dân tộc. Chẳng hạn, tình trạng lợi dụng quyền tự do, dân chủ phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân; nhân danh “yêu nước”, lợi dụng những sai phạm của một số
doanh nghiệp để chống lại công cuộc kiến thiết đất nước trong hợp tác đầu tư; bạo
lực học đường, bạo lực trong gia đình, xâm hại tình dục trẻ em, buôn bán trẻ em,
phụ nữ và nhiều tệ nạn xã hội gia tăng... Những điều này gây nhức nhối xã hội, đòi
hỏi chúng ta phải quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị đạo đức
truyền thống, nhằm tác động đến mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi tập thể, qua đó
giúp cho mỗi chủ thể tự nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi đạo đức của
mình theo xu hướng tích cực.

20



Việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống sẽ tác động đến ý thức đạo đức,
góp phần trực tiếp thức tỉnh lương tâm, tạo ra một hành lang trách nhiệm đạo đức
của mỗi con người, biến tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí tuân theo giá trị đạo đức
truyền thống, thành sự khôn ngoan của họ, thành sức mạnh sáng tạo xã hội mới
nhân đạo và nhân văn. Đạo đức là nét cơ bản của bản tính con người, giữ được giá
trị đạo đức truyền thống là giữ được bản sắc cội nguồn. Giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống không chỉ góp phần làm cho con người mang “bản tính cộng đồng”
mà còn giúp cho mỗi người gắn chặt chẽ với cộng đồng của mình. Giải pháp tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho toàn xã
hội, nhằm tác động mạnh mẽ đến ý thức, hành vi và quan hệ đạo đức của mỗi chủ
thể. Đây là giải pháp rất quan trọng nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam và hình thành nên những con người có phẩm chất đạo đức
tốt, biết yêu quê hương đất nước, ý thức được đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
4.2.2. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ, kế thừa và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, dư luận xã hội lên án mạnh mẽ những hành vi vi
phạm pháp luật và giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như: tham nhũng, buôn
lậu, các tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, bạo lực học đường... Đây chính là lúc pháp
luật thể hiện rõ sức mạnh của mình trong việc lập lại kỷ cương, xử lý thật nghiêm
khắc những vụ án tham nhũng, buôn lậu, ngược đãi bố mẹ, bạo lực đối với trẻ em,
xâm hại tình dục trẻ em, bạo lực học đường… để bảo vệ những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tạo môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh để
tạo mọi điều kiện cho người dân tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Trước tình trạng các sản phẩm văn hoá bên ngoài xâm nhập ồ ạt vào nước ta
qua nhiều kênh thông tin và giáo lưu hội nhập quốc tế, pháp luật cũng cần có những
quy định, biện pháp kiểm tra các luồng sản phẩm văn hoá đó, bởi đây là lĩnh vực có
ảnh hưởng trực tiếp, nhanh chóng đến lối sống của giới trẻ. Với đặc trưng say mê
và thích ứng nhanh với cái lạ, cái mới, giới trẻ dễ bị chệch hướng khi lựa chọn, dễ

bị ảnh hưởng xấu của các luồng văn hoá, tư tưởng hiện đại nhưng độc hại xâm
nhập vào. Việc tăng quy định của pháp luật trong việc kiểm tra các sản phẩm văn
hoá là biện pháp cần thiết giúp cho thanh niên biết lựa chọn các giá trị hiện đại mà
vẫn phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc mình.
4.2.3. Xây dựng môi trường kinh tế-xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho sự
biến đổi tích cực các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam

21


Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là một bộ phận của nền văn hóa, đồng
thời cũng là một bộ phận quan trong trong cấu trúc ý thức xã hội. Nguyên lí của
chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội đã chỉ ra rằng, tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội. Vì vậy, trong điều kiện
kinh tế thị trường, đô thị hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cần phải xây dựng
môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh đóng vai trò là cơ sở cho sự phản ánh của ý
thức xã hội nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng. Chúng ta chỉ có thể giữ gìn và
phát huy nghĩa là biến đổi theo chiều hướng tích cực các giá trị đạo đức truyền
thống trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nhiệm vụ trung tâm của
chúng ta là chăm lo phát triển kinh tế, nhưng chúng ta phải nhận thức rằng động lực
tạo ra phồn vinh và phát triển lâu bền của quốc gia không chỉ đơn thuần là vốn đầu
tư, công nghệ hiện đại, tài nguyên phong phú, mà còn là khả năng sáng tạo, là ý chí
và những đức tính được hình thành từ truyền thống văn hóa, đặc biệt là truyền
thống đạo đức của dân tộc.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Đảng và Nhà nước đã có những sự chủ động và tích cực nhất định trong
việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện mới.
Trong đời sống đạo đức của nhân dân trong những năm qua cho thấy, về cơ bản,
những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam biến đổi theo chiều hướng tích cực.
Tuy nhiên, do những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, quá trình gia tăng

đô thị hóa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cũng như do một số yếu kém, hạn chế
trong công tác quản lý mà các giá trị đạo đức truyền thống cũng có những biến đổi
theo chiều hướng tiêu cực.
Để khắc phục tình trạng biến đổi tiêu cực, định hướng cho sự biến đổi của
các giá trị đạo đức truyền thống theo chiều hướng tích cực, cần đẩy mạnh hơn nữa
các quá trình: Giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục các giá trị đạo đức truyền
thống nói riêng, đổi mới nội dung và phạm vi bao quát của các giá tri đạo đức
truyền thống cho phù hợp với điều kiện mới. Tăng cường hơn nữa vai trò của pháp
luật trong việc bảo vệ và phát huy tác động tích cực của các giá trị đạo đức truyền
thống trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội và con người; đẩy mạnh việc xây
dựng môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc kế
thừa, đổi mới và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện mới.

22


KẾT LUẬN
Cùng với chính trị, văn hóa và pháp luật, đạo đức là thành tố quan trọng tham
gia điều chỉnh ý thức, hành vi và quan hệ của cá nhân và cộng đồng nhằm đảm bảo
cho sự tồn tại, phát triển của cá nhân và cộng đồng. Giá trị đạo đức, vừa là chuẩn
mực vừa là mục tiêu hướng tới từ trong tâm thức đến hoạt động của mỗi con người
trong xã hội. Do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử và trình độ phát triển khác nhau nên
mỗi cộng đồng dân tộc có hệ giá trị đạo đức khác nhau. Hệ giá trị đạo đức có sự
vận động và biến đổi trong suốt chiều dài lịch sử, tạo thành những giá trị đạo đức
truyền thống, yếu tố góp phần tạo nên bản sắc và cốt cách độc đáo của mỗi dân tộc.
Đồng thời, những giá trị đạo đức truyền thống luôn phát huy vai trò tích cực trong
việc bảo vệ sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng dân tộc.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được cô đúc trong suốt
hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh anh dũng để bảo đảm sự tồn tại và phát triển cho
đến tận ngày nay, tiêu biểu là các giá trị: yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý thức

cộng đồng, lòng nhân ái và thương người, đức tính cần cù và tiết kiệm, đức tính
hiếu học và tôn sư trọng đạo. Đó là sự thể hiện những đặc trưng cơ bản nhất, cái tạo
nên sức mạnh tiềm tàng và bền vững của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên,
các giá trị đạo đức truyền thống, thể hiện nội dung cốt lõi nhất trong bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam, không phải là bất biến mà trong quá trình phát triển cũng có
sự biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước,
trong sự giao lưu tiếp biến những giá trị văn hoá của các cộng đồng dân tộc khác ở
trong khu vực và trên thế giới. Với sức mạnh nội sinh, giá trị đạo đức truyền thống
vẫn luôn là cơ sở vững chắc cho sự vận động của xã hội, cho sự phát triển của đất
nước và dân tộc.
Thực tế, công cuộc xây dựng đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập
quốc tế hiện nay, giá trị đạo đức truyền thống trong sự vận động của nó ít nhiều có
sự biến đổi cả theo xu hướng tích cực lẫn tiêu cực. Sự biến đổi tích cực của các giá
trị đạo đức truyền thống ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, có nhiều nguyên nhân,
nhưng trước hết phải khẳng định, nhờ có sự định hướng của Đảng đối với sự phát
triển xã hội và xây dựng con người mới, xây dựng đạo đức mới. Đồng thời, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không đối lập với các giá trị đạo đức truyền
thống mà còn tạo ra những cơ hội mới cho các giá trị đạo đức truyền thống, được
phát huy sức mạnh trong điều kiện mới. Ngoài xu hướng biến đổi tích cực của các
23


×