Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

MỘT SỐ KINH NGHIỆM “GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT PHÉP CHIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.27 KB, 16 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …..
TRƯỜNG ...........
**********

SÁNG KIẾN
..................

Tác giả: ............
Chức vụ: Giáo viên
Lĩnh vực nghiên cứu: Giáo dục
Đơn vị công tác: Trường …….

………, tháng 04 năm ………….

Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 1


BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN: MỘT SỐ KINH NGHIỆM “GIÚP HỌC
SINH LỚP 3 HỌC TỐT PHÉP CHIA”
I. Sơ lược về lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Phan Thị Tuyết Mai Nam, nữ: Nữ
- Ngày tháng năm sinh: 20/10/1966
- Nơi thường trú: ấp Tân Hậu B2, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An
Giang.
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học B Long An
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp


- Trình độ chuyên môn: Đại học
- Lĩnh vực công tác: Giáo viên Tiểu học
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
* Thuận lợi:
- Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội cha mẹ
học sinh.
- Cơ sở vật chất khang trang phục vụ tốt cho việc dạy và học.
- BGH nhà trường nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy và học.
- Đội ngũ giáo viên luôn xem việc đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ
trọng tâm. Coi trọng việc dạy cho học sinh có phương pháp học tập đúng, rèn kĩ năng
thực hành ứng dụng trong cuộc sống.
- Học sinh ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.
Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường gặp phải không ít khó khăn.
* Khó khăn:
- Dân cư sống chủ yếu bằng nghề nông. Đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn.
Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học cũng như chất lượng học tập của
các em.
- Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc, nên việc quán
xuyến việc học hành của con cháu còn hạn chế.
- Do tâm lí của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các em
nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
- Đa số học sinh nhất là học sinh ở dạng hoàn thành, chưa hoàn thành thường
gặp khó khăn và nhầm lẫn trong việc thực hiện phép chia (chia hết và chia có dư).
- Học sinh chưa nắm vững các bảng chia, nên khi thực hiện tính chia các em
thường tìm thương bằng cách đọc nhẩm rà dần từ bảng nhân có thừa số là số chia.
Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên tôi tìm ra một số biện pháp giúp các
em học tốt phép chia.
* Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm“Giúp học sinh lớp 3 học tốt phép
chia”
* Lĩnh vực: Chuyên môn

III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
Nhiệm vụ trọng yếu của môn Toán ở tiểu học là hình thành cho học sinh kĩ
năng tính toán - một kĩ năng rất cần thiết trong cuộc sống, lao động và học tập của học
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 2


sinh. Trong đó thực hiện phép tính cộng, trừ, nhân, chia các số tự nhiên là nội dung cơ
bản. Nhưng quan trọng nhất là phép chia ở lớp 3 là nội dung kiến thức mà học sinh
gặp phải khó khăn khi học trong chương trình Toán 3. Vì vậy giáo viên cần tìm hiểu,
nghiên cứu kĩ để dạy tốt cho các em.
Để dạy tốt nội dung phép chia các số tự nhiên: trước hết giáo viên cần nắm
được bản chất Toán học của những kiến thức này.
Chính vì thế, giáo viên cần nắm được cấu trúc nội dung của phép chia trong
chương trình Toán tiểu học, nội dung và cách thể hiện nội dung phép chia các số tự
nhiên. Bên cạnh đó giáo viên nắm được phương pháp dạy học các nội dung này theo
hướng đổi mới về phương pháp dạy học Toán. Điều này giúp cho việc dạy học phép
chia đạt chất lượng cao hơn.
Vì những lý do trên, tôi luôn xác định cho mình một nhiệm vụ quan trọng
trong việc giảng dạy môn Toán ở lớp 3 nói chung và phép chia nói riêng. Làm thế nào
để nâng cao chất lượng cho các em từ chưa hoàn thành lên hoàn thành, từ hoàn thành
lên hoàn thành tốt. Để đáp ứng được khả năng thực hiện phép chia trong nội dung
chương trình Toán lớp 3, học sinh phải nắm được một hệ thống kiến thức Toán học cơ
bản và các kĩ năng cơ bản sau: Vận dụng kiến thức, thực hành, suy luận, phát triển các
năng lực nhận thức, trí tuệ, tư duy độc lập sáng tạo, chống hiện tượng học sinh lưu
ban, bỏ học hay chán học khi học chưa hoàn thành.
1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:

Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học phép chia cho học sinh lớp 3 ở trường
Tiểu học tôi rút ra một số nhận xét sau:
* Vấn đề giảng dạy của giáo viên.
Quan điểm của giáo viên về cấu trúc nội dung chương trình để rèn luyện kĩ
năng thực hiện phép chia các số tự nhiên cho học sinh là rất phù hợp. Các bài học về
phép chia được sắp xếp liền mạch, bài nọ là cơ sở cho bài kia, phù hợp cho giáo viên
và học sinh trong quá trình luyện tập.
Nội dung rèn luyện kĩ năng tính nhẩm phép chia trong bảng là rất quan trọng
vì nó không chỉ giúp củng cố kiến thức mới mà còn rất thuận lợi cho quá trình dạy
phép chia ngoài bảng. Thiếu kĩ năng nhân nhẩm thì học sinh sẽ rất khó khăn trong việc
học phép chia đặc biệt là chia ngoài bảng (chia viết).
a. Ưu điểm.
- Giáo viên sử dụng phương pháp trực quan, giảng giải - minh họa, gợi mở vấn đáp khi hình thành khái niệm phép tính; khi thành lập các bảng tính; hướng dẫn
học sinh làm bài tập để định hướng cho học sinh làm bài.
- Giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp thực hành luyện tập trong quá
trình rèn luyện kĩ năng thực hiện phép chia các số tự nhiên cho học sinh. Điều này rất
thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh: giáo viên không phải giảng nhiều, còn học sinh
có điều kiện tự rèn luyện kĩ năng cho mình.
- Giáo viên bám sát và theo dõi từng bước thực hiện tính của học sinh, có biện
pháp sửa sai kịp thời.
b. Tồn tại
- Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi dạy học để rèn luyện kĩ năng chia cho
học sinh lớp 3 vẫn còn một số tồn tại:
+ Giáo viên:
. Trong quá trình hình thành các phép toán chia ngay sau khi giảng giải và hỏi
đáp, giáo viên thường rút ra công thức phép toán nhưng ít chú ý đến việc cho học sinh
nhắc lại hoặc tự rút ra kiến thức mới.
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An


Trang 3


. Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với không khí buồn tẻ, do đó có nhiều
dạng bài tập lặp lại mà giáo viên không đổi mới các hình thức chữa bài, chủ yếu chữa
bài một cách đơn điệu.
. Một số giáo viên do trình độ còn hạn chế việc cập nhật cái mới chưa kịp thời
nên vẫn còn giảng theo kiểu dạy học truyền thống – thầy giảng trò ghi nhớ do vậy kết
quả học tập chưa cao.
. Một số giáo viên cho rằng việc học phép chia ở lớp 3 là kiến thức quá dễ với
học sinh nên coi nhẹ mà không hiểu dạy phép chia ở lớp 3 là mảng kiến thức tương đối
khó với các em, đòi hỏi các em không chỉ học thuộc các bảng chia mà còn phải biết
vận dụng chia trong các trường hợp cụ thể. Đây là kiến thức cơ bản là nền tảng để các
em học tiếp các lớp sau.
. Giáo viên còn lơ là trong việc kiểm tra, việc nắm kiến thức của học sinh.
+ Học sinh:
Đa số học sinh vẫn còn một số khó khăn gặp phải khi học về phép chia trong
chương trình Toán 3, cụ thể là:
. Một số học sinh do việc lập bảng chia còn lúng túng. Không thuộc bảng chia
nên việc áp dụng thực hành làm bài tập gặp rất nhiều khó khăn.
. Do học sinh còn nhầm lẫn giữa nhân và chia, khi tìm thương mà áp dụng tính
nhân để tìm tích nên việc thực hiện bài tập sai kết quả.
. Học sinh khi thực hiện tính chia mà ở một hàng nào đó của số bị chia không
chia được cho số chia thường không thêm 0 vào thương mà hạ ngay hàng kế tiếp theo
của số bị chia để thực hiện chia.
* Qua nhiều năm giảng dạy lớp 3, nhìn chung lớp tôi chủ nhiệm các em đều
thực hiện tương đối tốt phép cộng, trừ, nhân trong chương trình toán 3. Tuy nhiên về
thực hiện phép chia đa số các em nắm chưa vững, đặt biệt là khâu học sinh thường ước
lượng thương sai trong phép chia có dư và áp dụng phép chia vào các dạng bài khác

chưa thành thạo.
2 . Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Năm học này tôi nhận lớp 3B, lớp tôi phụ trách có31học sinh, chất lượng chưa
cao và chủ yếu các em con nhà nông ít được cha mẹ tạo điều kiện trong học tập, vì vậy
các em còn hạn chế về nhiều mặt, nhất là khả năng tính toán chậm khi áp dụng vào các
dạng bài tập có liên quan. Trong đó phép chia là chủ yếu.Với lương tâm trách nhiệm
của một thành viên trong ngành giáo dục và nỗi băn khoăn về học sinh của mình nên
tôi quyết định chọn đề tài “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt phép chia”
để nghiên cứu.
Để giúp giáo viên hiểu rõ hơn cơ sở của việc lựa chọn và sắp xếp các nội dung
về phép chia các số tự nhiên, đồng thời giúp giáo viên biết được định hướng của việc
lựa chọn và tận dụng các phương pháp dạy học đối với phép chia. Tôi xin trình bày
tóm tắt các vấn đề sau:
* Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học.
+ Tri giác
. Tri giác mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và tri giác mang tính không
chủ định.
. Khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở học sinh lớp đầu
cấp còn yếu.
. Ở đầu cấp tri giác của trẻ thường gắn với hành động, hoạt động thực tiễn.
+ Sự chú ý.

Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 4


Sự chú ý có chủ định còn yếu, chú ý không chủ định phát triển. Những gì

mang tính mới mẻ, rực rỡ, bất ngờ, khác thường dễ dàng lôi cuốn sự chú ý của học
sinh.
+ Trí nhớ
. Trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ - logic.
. Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế.
. Học sinh không xác định được mục đích ghi nhớ, không biết tổ chức việc ghi
nhớ có ý nghĩa.
. Những thông tin mà học sinh được tiếp xúc từ nhiều giác quan sẽ giúp các
em ghi nhớ nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
+ Tư duy
. Tư duy cụ thể mang tính chất hình thức, dựa vào đặc điểm của đồ dùng trực
quan.
. Học sinh thường dựa vào những đặc điểm bề ngoài của sự vật, hiện tượng để
khái quát hóa.
. Hoạt động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, chủ yếu được tiến hành khi tri
giác trực tiếp các đối tượng trực quan.
Từ những đặc điểm trên của học sinh Tiểu học về quá trình nhận thức, khi dạy
học ở Tiểu học nói chung và dạy học Toán nói riêng, giáo viên cần:
- Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy hình thành kiến thức
cho trẻ. Vì hình dạng, kiểu cách, màu sắc,… của đồ dùng trực quan dễ gây sự chú ý
cho trẻ, giúp trẻ tri giác tốt, dễ nhớ và nhớ lâu. Tuy nhiên giáo viên không nên quá lạm
dụng vì hình ảnh, màu sắc lòe loẹt dễ lôi cuốn các em sẽ quên đi nhiệm vụ học tập của
mình.
- Giáo viên phải tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẩn thủ thuật ghi
nhớ, chỉ ra những điểm quan trọng , có ý nghĩa để học sinh ghi nhớ.
- Việc trẻ ghi nhớ máy móc tốt là điều kiện để giáo viên dạy học sinh học
thuộc các bảng chia.
- Dạy học dựa trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Thông
qua hoạt động học tập này, học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động trong học
tập, tự trải nghiệm khám phá, phát hiện vấn đề và tự chiếm lĩnh kiến thức.

3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Tiến trình thực hiện
a) Tìm hiểu nội dung và chuẩn kiến thức kĩ năng về toán chia trong Sách
giáo khoa lớp 3.
- Muốn đạt được hiệu quả cao, trước tiên tôi nghiên cứu nội dung kiến thức
trong chương trình môn Toán lớp 3 và tìm hiểu thật kĩ các dạng toán chia. Cụ thể như
sau:
+ Tiết 27: Chia số có 2 chữ số cho số có 1 chữ số.
+ Tiết 28: Luyện tập (Chia số có 2 chữ số cho số có 1 chữ số).
+ Tiết 29: Phép chia hết và phép chia có dư.
+ Tiết 30: Luyện tập (Phép chia hết và phép chia có dư).
+ Tiết 69: Chia số có 2 chữ số cho số có 1 chữ số.
+ Tiết 70: Chia số có 2 chữ số cho số có 1 chữ số (tiếp theo).
+ Tiết 71: Chia số có 3 chữ số cho số có 1 chữ số.
+ Tiết 72: Chia số có 3 chữ số cho số có 1 chữ số (tiếp theo).
+ Tiết 113: đến 117 (Chia số có 4 chữ số cho số có 1 chữ số).
+ Tiết 153: Chia số có 5 chữ số cho số có 1 chữ số.
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 5


+ Tiết 154: Chia số có 5 chữ số cho số có 1 chữ số (tiếp theo).
+ Tiết 155: Luyện tập.
Từ nội dung chương trình trên tôi xây dựng kế hoạch tìm ra biện pháp giúp
học sinh nắm vững yêu cầu sau:
+ Học sinh làm thành thạo phép chia bất kì một số nào.
+ Biết ước lượng đủ,đúng số lần ở thương.

+ Thành thạo các phép tính cộng, trừ, nhân, mối quan hệ giữa phép nhân và
phép chia.
+ Nắm vững thuật tính chia.
b) Thiết lập tổ chức lớp học
Sau khi nhận lớp công việc đầu tiên của tôi là củng cố nề nếp học tập cho các
em. Phân công cán bộ lớp. Phân hóa các đối tượng học sinh. Sau đó, tôi phân chia lớp
thành nhiều đôi bạn học tập, một bạn có học lực tốt giúp đỡ bạn học chưa tốt. Tôi
không ngừng giáo dục cho các em ý thức học tập, xây dựng nề nếp lớp học để khắc
phục tình trạng mất tập trung và xao lãng trong giờ học. Không những vậy, ngay từ
đầu năm tôi theo dõi, uốn nắn để học sinh nắm vững các mạch kiến thức cũ, đảm bảo
điều kiện về kiến thức để bước vào học các dạng toán cao hơn.

c) Nắm chắc đối tượng bồi dưỡng, phụ đạo
Như chúng ta đã biết, việc giáo dục học sinh không được vội vàng, phải được
thực hiện đều đặn hàng ngày trên lớp. Chính vì thế, ngay từ những ngày đầu tôi đã
theo dõi, bám sát tình hình học tập của từng đối tượng học sinh. Đầu năm học tôi kiểm
tra năng lực toán của từng em, để nắm bắt được tình hình và phân loại học sinh.
Đối với những học sinh chưa hoàn thành, tôi dành nhiều thời gian hơn cho các
em, sử dụng nhiều biện pháp để hướng dẫn, uốn nắn và khắc phục những sai sót mà
các em gặp phải như: Rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản, thường xuyên
kiểm tra bảng cửu chương và khả năng vận dụng của các em nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các em học tốt chương trình toán lớp ba. Vì tôi nghĩ rằng nếu học sinh
mất căn bản thì các em rất khó tiếp tục thành công trong việc học toán. Từ đó, giúp các
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 6



em đạt chuẩn kiến thức kĩ năng và theo kịp chương trình cùng với các bạn đã hoàn
thành.
3.2. Thời gian thực hiện
Khi thấy được tầm quan trọng của của vấn đề, tôi đã áp dụng các biện pháp
trên ngay từ đầu năm để củng cố các kiến thức mà các em còn hỏng, cho đến giữa học
kì I, việc làm tính chia một số có 2 chữ số cho số có 1 chữ số đối với các em trở nên dễ
dàng hơn. Vì vậy các em đủ cơ sở để tiếp thu và thực hiện tính chia số có 3,4,5 chữ số
cho số có 1 chữ số trong thời gian sắp tới. Những biện pháp trên được tôi áp dụng vào
năm học 2017 – 2018. Cho đến năm học này tôi và các đồng nghiệp vẫn đang áp dụng
để hướng dẫn, giúp đỡ các em và nhận được những kết quả hết sức khả quan.
3.3. Biện pháp tổ chức:
3.3.1. giúp học sinh học tốt bảng nhân, chia.
Bắt đầu lên lớp 2, các em phải làm quen với bảng nhân chia, không thuộc bảng
nhân chia thì không thể làm phép tính nhân, chia (ngoài bảng). Nhưng làm thế nào để
các em dễ học được, chủ động và dễ tiếp thu nhất thì không phải giáo viên nào cũng
biết cách hướng dẫn các em có hiệu quả. Giúp các em học thuộc, nhớ lâu bảng nhân
chia, một phần bắt buộc của môn Toán.
Thực tế hàng ngày, việc học bảng nhân chia của các em là một việc tốn rất
nhiều thời gian và khó khăn. Vì vậy tôi đã hướng dẫn các em ghi nhớ bằng nhiều cách.
Ví dụ: đối với bảng nhân 6 thì cộng thêm 6 ở các tích liền kề (6 + 6 = 12; 12 + 6 = 18;
18 + 6 = 24; …). Hay thực hiện phép cộng các số hạng bằng nhau ( 6 x 1 = 6; 6 x 2 = 6
+ 6 = 12 ; 6 x 3 = 6 + 6 + 6 = 18; …). Hoặc thay đổi thứ tự các thừa số (2 x 6 = 12 thì
6 x 2 = 12; 3 x 6 = 18 thì 6 x 3 = 18; 4 x 6 = 24 thì 6 x 4 = 24 ;…). Các bảng nhân
khác thực hiện tương tự như vậy.
Nếu em nào đã thuộc đến bảng nhân 7 rồi, về nhà ôn lại cho chắc, còn bảng
nhân 8 em chỉ học thuộc 3 dòng cuối ( 8 x 8, 8 x 9, 8 x 10 ), và bảng 9, em học thuộc 2
dòng cuối cùng ( 9 x 9, 9 x 10 ). Các phép tính trên tôi gợi ý các em nên ôn lại tính
chất giao hoán của phép nhân số tự nhiên.
Ví dụ: 8 x 1 = 1 x 8 = 8
9x1=1x9=9

8 x 2 = 2 x 8 = 16
9 x 2 = 2 x 9 = 18
8 x 3 = 3 x 8 = 24
9 x 3 = 3 x 9 = 27
8 x 4 = 4 x 8 = 32
9 x 4 = 4 x 9 = 36
8 x 5 = 5 x 8 = 40
9 x 5 = 5 x 9 = 45
8 x 6 = 6 x 8 = 48
9 x 6 = 6 x 9 = 54
8 x 7 = 7 x 8 = 56
9 x 7 = 7 x 9 = 63
8 x 8 = 64 ( học mới )
9 x 8 = 8 x 9 = 72
8 x 9 = 72 ( học mới )
9 x 9 = 81 ( học mới )
8 x 10 = 80 (học mới )
9 x 10 = 90 ( học mới )
Trên cơ sở các bảng nhân tôi hướng dẫn các em lập và thuộc bảng chia một
cách dễ dàng hơn “Lấy tích chia cho thừa số này thì ta được thừ số kia’’.
Ví dụ: 6 x 2 = 12, 12: 6 = 2; 6 x 3 = 18, 18 : 6 = 3; 6 x 4 = 24, 24 : 6 = 4; …
Từ những kinh nghiệm trên, các em vừa dễ học, dễ nhớ, học thuộc rất nhanh
và nhớ lâu, lại hiểu bản chất vấn đề, nên nếu lỡ quên thì cũng dễ khắc phục, lại khơi
dậy sự sáng tạo.
3.3.2. Hướng dẫn học sinh và rèn kĩ năng ước lượng thương.
Việc rèn kĩ năng ước lượng là cả một quá trình. Thực tế của vấn ðề này là tìm
cách nhẩm nhanh thương của phép chia. Để làm việc này, ta thường cho học sinh làm
tròn ở số bị chia và số chia để dự đoán chữ số ấy, sau đó nhân lại để thử. Nếu tích vượt
Phan Thị Tuyết Mai


Tiểu học B Long An

Trang 7


quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích còn kém số bị chia
quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy. Như vậy, muốn ước lượng thương cho tốt, học sinh
phải thuộc các bảng nhân chia và biết nhân nhẩm trừ nhẩm nhanh. Bên cạnh đó, các
em cũng phải biết cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật. Cách làm như sau:
* Làm giảm số bị chia ở mỗi lần chia:
Nếu số bị chia mà khi chia cho số chia không có trong bảng chia thì ta làm
giảm số bị chia (tức là bớt đi 1; 2 hoặc 3 đơn vị ở số bị chia để chia).
Ví dụ 1:
Muốn ước lượng 17 : 8 = ? Ta làm giảm xuống 1 đơn vị lá 16 : 8 được 2, sau
đó thử lại 2 x 8 = 16 để có kết quả 17 : 8 = 2. Trên thực tế việc làm giảm số đó 1, 2
hoặc 3 đơn vị để thử chọn khi chia giúp tìm thương đúng cho mỗi lần chia.
Ví dụ 2 : 258 : 4 = ?
- Lần chia thứ nhất : Lấy 25 : 4, 25 : 4 không có trong bảng chia 4, giảm 25 đi
1 đơn vị ta được 24, 24 : 4 = 6, 6 x 4 = 24, 25 – 24 = 1
- Lần chia thứ hai : Hạ 8, thành 18, 18 : 4 không có trong bảng chia 4, giảm 18
đi 1 đơn vị là 17 : 4 không có trong bảng chia 4, tiếp tục giảm 17 đi 1 đơn vị ta được
16 : 4 = 4, 4 x 4 = 16, 18 – 16 = 2, dư 2
Trong thực tế, các việc làm trên được tiến hành trong sơ đồ của thuật tính chia
(viết ) với các phép thử thông qua nhân nhẩm và trừ nhẩm. Nếu học sinh chưa nhân
nhẩm và trừ nhẩm thành thạo thì lúc đầu có thể cho các em làm tính vào nháp, hoặc
viết bằng bút chì, nếu sai thì tẩy đi rồi điều chỉnh lại.
Để việc giảm số được đơn giản, ta cũng có thể chỉ yêu cầu học sinh làm giảm
số bị chia ở mỗi lần chia theo đúng quy tắc: giảm lần lượt 1, 2, 3,… đơn vị. Chẳng
hạn: Trong ví dụ 2 nếu ta giảm số bị chia từ 18 thành 17 thì kết quả ước lượng không
được, nên phải giảm tiếp. Nếu học sinh hiểu vấn đề thì giáo viên hướng dẫn các em

ước lượng một lần chuẩn như ở ví dụ 2 : 18 : 4 ( ta lấy 16 : 4 = 4 ).
3.3.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp.
Dựa trên định hướng đổi mới về phương pháp dạy học Toán 3 mỗi giáo viên
phải đưa ra những phương pháp dạy học tối ưu nhất sao cho:
- Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh hoạt động và tự phát
hiện, tự giải quyết nhiệm vụ của bài để chiếm lĩnh tri thức mới đồng thời thiết lập
được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học.
- Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức mới trong sự đa dạng và phong phú
của các bài tập thực hành, luyện tập.
- Giáo viên xác định rõ kiến thức kĩ năng cần thực hành.
- Nêu ra tình huống có vấn đề, hướng dẫn giải quyết vấn đề.
- Tổ chức cho mỗi học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng thu được trong thực
hành, luyện tập ở nhiều hình thức khác nhau.
3.3.4. Rèn kĩ năng cho học sinh thông qua hệ thống bài tập.
Các dạng bài tập khi học phép chia ở lớp 3:
* Dạng 1: Các bài tập dạng chia trong bảng.
Đây là loại bài đặc trưng của phép chia. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong
dạy học toán nói chung và dạy học toán lớp 3 nói riêng. Các bảng chia có thể coi là
“con đường độc đáo” để dẫn học sinh tới kho tàng tri thức về phép chia.
Khi học về loại bài này học sinh cần:
- Thuộc bảng chia.
- Biết chia nhẩm trong phạm vi bảng chia và giải các bài toán có lời văn liên
quan đến bảng chia.
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 8



Khi dạy chúng ta có thể tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh lập bảng chia.
Giáo viên hướng dẫn học sinh dùng các tấm bìa có chấm tròn để lập lại bảng
nhân, rồi từ tấm bìa đó để chuyển từ phép nhân thành một phép chia tương ứng.
Ví dụ: Bài “Bảng nhân 6”
Giáo viên cho học sinh lấy ra một tấm bìa (có 6 chấm tròn), giáo viên “6 lấy 1
bằng mấy?” (6 lấy 1 bằng 6).
Giáo viên chỉ vào một tấm bìa “có 6 chấm tròn chia thành nhóm, mỗi nhóm 6
chấm tròn thì được mấy nhóm?” (được 1 nhóm).
Nêu phép tính tìm số nhóm! (6 chia 6 được 1)
Giáo viên ghi bảng: 6 : 6 = 1
Giáo viên chỉ và gọi học sinh đọc 6 x 1 = 6 ; 6 : 6 = 1
Các phép tính khác thực hiện tương tự
Bước 2: Ghi nhớ bảng chia
Giáo viên dùng nhiều hình thức khác nhau để giúp học sinh ghi nhớ bảng chia
vừa lập.
Ví dụ : Hình thức xóa dần.
Hình thức “thi lập lại bảng chia”
Hình thức đố vui
Bước 3: Thực hành
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập trong SGK để củng cố lại các kiến
thức vừa học.
- Các bài tập này rất phổ biến trong các tiết học về bảng từ bảng 6 đến bảng 9
Ví dụ: bài tập 1 trang 24
Tính: 42 : 6 ; 54 : 6 ; 24 : 6 ; 36 : 6 ; 48 : 6 ; 18 : 6 ; 12 : 6 ; 60 : 6 ; 12 : 6 ; 6 :
6
* Dạng 2 : Các bài tập dạng “Chia ngoài bảng”
Đây là loại bài mở rộng kiến thức bảng chia và dừng lại ở chia cho số có một
chữ số. Nó là nền tảng để học sinh thực hiện chia cho số có 2, 3, 4, 5 chữ số. Khi dạy
các bài thuộc loại bài này chúng ta nên tiến hành theo các bước sau:

Bước 1: Giáo viên đưa ra các bài tập áp dụng để học sinh nắm chắc hơn kiến
thức.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm lần lượt các bài tập SGK.
+ Các bài tập về chia có dư.
Ví dụ : Bài tập 1 trang 29
17 : 5 ; 19 : 3 ; 29 : 6 ; 19 : 4
+ Các bài tập về chia hết
Ví dụ 1: Bài tập 1 trang 28
48 : 2 ; 84 : 4 ; 55 : 5 ; 96 : 3
Ví dụ 2: Bài tập 4 trang 165
15000 : 3 ; 24000 : 4 ; 56000 : 7
* Dạng 3: Bài tập về thành phần chưa biết của phép tính nhân và phép tính
chia.
Loại củng cố, loại bài này áp dụng cho các bài luyện tập, ôn tập, giúp học sinh
khái quát lại kiến thức và mở rộng kiến thức đã đạt được.
Ví dụ 1: Bài tập 2 trang 39
Tìm x:

Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 9


12 : x = 2 ; 42 : x = 6; 27 : x = 3
+ Học sinh đọc yêu cầu bài toán
+ Nêu các thành phần của phép tính (12 là số bị chia, x là số chia, 2 là thương)
+ Tìm thành phần gì? (số chia)
+ Cách tìm số chia? (Lấy số bị chia chia cho thương)

12 : x = 2

x = 12 : 2
x=6
Ví dụ 2: Bài tập 2 trang 120
Tìm x:

x x 7 = 2107

; 8 x x = 1640 ; x x 9 = 2763
+ Học sinh đọc yêu cầu bài toán
+ Nêu các thành phần của phép tính (x là thừa số, 7 là thừa số, 2107 là tích)
+ Tìm thành phần gì? (Tìm thừa số)
+ Cách tìm thừa số? (Lấy tích chia cho thừa số đã biết)

x

x 7 = 2107

x = 2107 : 7
x = 301
Dạng 4: Các bài tập dạng tính giá trị của biểu thức (có liên quan đến phép
chia).
Ở dạng này, cần hướng dẫn học sinh:
- Đọc kĩ bài
- Trong biểu thức có phép tính gì?
- Cách tính biểu thức có các phép tính đã nêu?
- Trình bày đẹp
Tôi chia dạng bài tập này thành 2 dạng nhỏ:
Biểu thức không có dấu ngoặc

Ví dụ: Bài tập 2 trang 81
Tính giá trị biểu thức
64 : 8 + 30 = 8 + 30
306 + 93 : 3 = 306 + 31
= 38
= 337
Biểu thức có chứa dấu ngoặc
Ví dụ 1: Bài tập 3 trang 83
Tính giá trị biểu thức
64 : ( 8 : 4 ) = 64 : 2
72 : ( 2 x 4 ) = 72 : 8
= 32
=9
Ví dụ 2: Bài tập 3 trang 163
Tính giá trị biểu thức
(35281 + 51645) : 2 = 86926 : 2
(45405 – 8221) : 4 = 37184 : 4
= 43463
= 9296
Khi đã phân chia ra các dạng nhỏ, để giúp các em nắm các quy tắc tính cho
từng dạng cụ thể.
- Biểu thức chỉ có phép tính nhân và chia (ta thực hiện các phép tính theo thứ
tự từ trái sang phải)
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 10



- Biểu thức có các phép tính cộng, trừ, nhân, chia (ta thực hiện các phép tính
nhân chia trước, rồi thực hiện các phép tính cộng trừ sau).
- Biểu thức có dấu ngoặc đơn (thì trước tiên ta thực hiện các phép tính trong
dấu ngoặc).
* Trường hợp học sinh thực hiện tính giá trị biểu thức còn nhầm lẫn:
Ví dụ : 60 + 35 : 5 = 60 +7
= 67 (đúng)
Hoặc có học sinh ghi
60 + 35 : 5 = 7 + 60
= 67 (vẫn đúng)
Tuy nhiên do suy luận của các em chưa lôgic, chưa hiểu bản chất của dãy số.
Vì thế khi dạy học sinh thực hiện tính giá trị của biểu thức, cần nhắc lại quy tắc và thứ
tự thực hiện các phép tính trong biểu thức.
Chẳng hạn, khi làm bài tập 71 – 16 : 2 nếu học sinh không nhớ quy tắc đã học
thì nói chung cũng có thể làm sai vì (55 không chia hết cho 2), nhưng ta đổi thành 96 –
60 : 3 thì buộc học sinh phải nhớ quy tắc mới làm đúng được:
Ví dụ : 96 – 60 : 3 = 96 – 20
96 – 60 : 3 = 36 : 3
= 76 (đúng)
= 12 (sai)
Hoặc : 24 : 3 x 2 = 8 x 2
24 : 3 x 2 = 24 : 6
= 16 (đúng)
=4
(sai)
Học sinh cũng nhầm lẫn như vậy. Vì thế giáo viên cần nhấn mạnh là “Hai
phép nhân, chia là bình đẳng” nghĩa là phép nào đứng trước thì thực hiên trước, có như
vậy mới thực hiện đúng kết quả.
Dạng 5: Các dạng bài tập so sánh biểu thức (có liên quan đến phép chia)
Ví dụ: Bài tập 3 trang 79

55 : 5 x 3…… 32
20 + 5 …… 40 : 2 + 5
Yêu cầu học sinh tính giá trị biểu thức trước, rồi với so sánh hai kết quả với
nhau.
Dạng 6: Toán có lời văn liên quan đến phép chia
Ở dạng này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
- Đọc kĩ đề bài
- Bài toán cho biết gì, hỏi gì?
- Bài toán thuộc dạng toán gì?
- Trình bày bài giải đẹp.
Ví dụ: Bài tập 3 trang 57
Một con lợn cân nặng 42kg, một con ngỗng cân nặng 6kg. Hỏi con lợn cân
nặng gấp mấy lần con ngỗng?
Hướng dẫn cho học sinh giải:
Gọi 2 đến 3 học sinh đọc bài toán:
- Bài toán cho biết gì? (một con lợn cân nặng 42kg, một con ngỗng cân nặng
6kg).
- Bài toán hỏi gì? (Con lợn cân nặng gấp mấy lần con ngỗng)
- Bài toán thuộc dạng toán gì? (Số lớn gấp mấy lần số bé)
- Muốn biết con lợn cân nặng gấp mấy lần con ngỗng ta làm thế nào? (Lấy số
cân của con lợn chia cho số cân của con ngỗng)
Bài giải
Con lợn cân nặng gấp số lần con ngỗng là :
42 : 6 = 7 ( lần )
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 11



Đáp số : 7 lần
3.3.5. Cách khắc phục khó khăn trong dạy phép chia ở lớp 3:
Để khắc phục những khó khăn của giáo viên trong dạy học nội dung phép chia
ở lớp 3 thì mỗi giáo viên cần nắm vững trọng tâm đổi mới chương trính giáo dục phổ
thông nói chung và định hướng đổi mới phương pháp dạy học toán nói riêng. Qua thực
tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp cùng với việc khảo sát chất lượng học sinh ở
các năm học trước cho thấy muốn nâng cao chất lượng dạy học phép chia cho học sinh
lớp 3 thì người giáo viên cần:
+ Phải chuẩn bị tốt bài dạy
- Từ lập được kế hoạch dạy học (hàng năm, từng tuần, từ bài). Bài soạn nên
viết dưới dạng tập trung vào tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh:
Xác định rõ vị trí và vai trò giáo viên, học sinh, tài liệu và thiết bị dạy học (sách giáo
khoa, vở bài tập, đồ dùng dạy học và đồ dùng học…) trong từng hoạt động dạy học
chủ yếu.
- Dự kiến một số phương án khai thác nội dung sách giáo khoa theo đặc điểm
từng đối tượng học sinh của lớp.
- Xác định rõ mức độ cần đạt của từng đối tượng học sinh.
+ Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực
chủ động, sáng tạo của học sinh tạo điều kiện để học sinh phát triển giải quyết
vấn đề của bài học rồi chiếm lĩnh kiến thức mới, dành thời lượng thích đáng cho
thực hành luyện tập theo năng lực từng đối tượng học sinh.
- Nhất thiết phải sử dụng đúng mức các thiết bị dạy học (Sách giáo khoa đặc
biệt là hình minh họa trong sách, đồ dùng dạy học…) theo nội dung từng bài.
- Linh hoạt dùng các hình thức tổ chức dạy học trong đó có dạy học cá nhân,
dạy theo nhóm, theo lớp…
+ Xây dựng môi trường học tập thân thiện có tính sư phạm cao.
- Bố trí lớp học tạo tâm thế học tập cho học sinh.
- Luôn tạo bầu không khí hợp tác và thân thiện giữa giáo viên với học sinh.
- Khuyến khích sự tham gia của mỗi đối tượng học sinh trong các hoạt động

học tập toán. Động viên và hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập của bản
thân, của bạn.
Bên cạnh việc thực hiện tốt những điểm nêu trên người giáo viên còn cần phải
biết phân loại nội dung dạy học phép chia thành từng tiểu loại nhỏ để ứng với mỗi loại
có những phương pháp dạy học phù hợp, có như thế thì hiệu quả học tập của học sinh
mới nâng cao.
IV. Hiệu quả đạt được:
1. Nhữngđiểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến:
* Trước khi áp dụng sáng kiến
Trước khi chưa áp dụng những kinh nghiệm trên thì lớp tôi phụ trách năm học
nào cũng có một số em còn quên nhớ khi thực hiện phép chia và khi áp dụng vào các
dạng bài tập thì sẽ sai kết quả.
* Sau khi áp dụng sáng kiến
Qua thời gian kiên trì thực hiện, tôi thấy kết quả có tiến bộ rõ rệt. Tôi say sưa
với bài giảng hơn, không khí lớp học nhẹ nhàng hơn, học sinh hăng hái phát biểu bài,
ham thích làm bài tập ở nhà. Biết tự giác học tập và biết tìm sự hỗ trợ của bạn bè, thầy
cô khi thực hiện bài khó. Đến cuối năm 2017 – 2018 kết quả đạt như sau:

Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 12


Chất lượng cuối học kì I
Tổng số
Xếp loại
Số lượng
học sinh

31

HTT

9

HT

18

CHT

4

Chất lượng cuối năm
Tổng số học
sinh
31

Xếp loại

Số lượng

HTT

12

HT

19


CHT

0

Từ đầu năm đến nay chất lượng học sinh tiến bộ nhiều, nhất là một trăm phần
trăm các em đã thuộc bảng chia, việc mới làm quen với phép chia thì đa số ham thích
học và nắm vững các bước chia.
Nhờ thực hiện theo đề tài nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục trong nhà trường, giúp giáo viên đúc kết được kinh nghiệm trong giảng dạy để
nhằm hạn chế học sinh lưu ban, bỏ học, giúp học sinh chưa hoàn thành có điều kiện
tham gia tốt vào hoạt động học tập để học tốt hơn.
2. Lợi ích thu được khi đề tài sáng kiến áp dụng:
Sau khi áp dụng sáng kiến, chúng tôi nhận thấy rằng đây là những biện pháp
thiết thực và mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học môn toán. Chất lượng giáo
dục ngày càng được nâng cao. Hầu hết các em đều biết áp dụng bảng chia vào thực
hành và nắm được các bước thực hiện của bài toán chia. Các em trở nên mạnh dạn và
tự tin vào bản thân hơn, không còn rụt rè và lo sợ về môn toán như các học sinh ở
những năm trước. Tỉ lệ học sinh biết làm tính chia ngày càng cao. Đó là tín hiệu đáng
mừng, vì vậy trong những năm học tới đây, tôi và các bạn đồng nghiệp sẽ tiếp tục áp
dụng và suy nghĩ ra nhiều biện pháp mới hơn, giúp các em hoc tốt, đáp ứng được mục
tiêu giáo dục của môn toán lớp 3 đã đề ra. Những điểm mới dễ nhận thấy sau khi áp
dụng sáng kiến là:
* Đối với học sinh:
- Giờ học sôi nổi hơn
- Học sinh say mê môn học, tiếp thu bài một cách chủ động, sáng tạo và phát
huy được tính tích cực của học sinh.
- Học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào thực hành.
- Đặc biệt chất lượng của lớp được nâng lên rõ rệt.
* Đối với giáo viên:

- Giáo viên tự tin hơn trong khi dạy.
- Biết cách khai thác bài nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Vận dụng các hình thức và phương pháp dạy học linh hoạt hơn.
V. Mức độ ảnh hưởng:
1. Khả năng áp dụng sáng kiến:
Tôi đã áp dụng kinh nghiệm này để dạy cho học sinh lớp tôi và đã đạt được
thành công như mong muốn. Các giáo viên trong tổ cũng đã vận dụng kinh nghiệm
này và bước đầu cũng đạt được kết quả đáng kể. Ngoài ra có thể vận dụng kinh
nghiệm này cho các khối lớp khác của trường tôi nói riêng và các trường Tiểu học lân
cận nói chung nhằm góp phần nâng cao chất lượng học toán của các em.
2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Trong thực tế giảng dạy để thực hiện tốt các kinh nghiệm đã nêu ở trên, tôi
nhận thấy cần chú trọng tới một số vấn đề sau:
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 13


Giáo viên phải cố gắng trang bị cho học sinh đầy đủ các kiến thức ban đầu
không gì một lí do nào mà bỏ quên hoặc để các em hụt hẩng về kiến thức. Với lòng
yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm, tôi tin rằng tất cả đội ngũ của chúng ta sẽ làm
được và sẽ hoàn thành nhiệm vụ giáo dục của địa phương. Như vậy, chúng ta đã góp
phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường đáp ứng được lòng tin của nhân
dân, của Đảng và Nhà nước.
Với các kinh nghiệm trình bày ở trên, tôi nghĩ chúng ta sẽ giúp cho các em
chậm chạp, hay quên, tự tin hơn, biết cách để làm bài. Các em sẽ ham học hơn và hạn
chế được hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, tránh được lên lớp non. Giáo viên,
nhà trường, ngành sẽ giải được một bài toán khó về chất lượng dạy học.

VI. Kết luận:
Qua nghiên cứu đề tài này tôi thấy: Nếu giáo viên Tiểu học nắm vững bản chất
toán học của các mạch kiến thức nói chung, của số học nói riêng; nắm được sự thể
hiện các nội dung kiến thức đó trong sách giáo khoa thì chắc chắn việc dạy học sẽ tốt
hơn. Vì vậy có hiểu đúng, chính xác kiến thức thì giáo viên mới truyền thụ cho học
sinh kiến thức đúng được.
Hơn nữa, bằng việc tìm hiểu cách sắp xếp nội dung dạy học trong sách giáo
khoa, giáo viên sẽ thấy được mối liên hệ giữa các bài học. Từ đó chú ý huy động kiến
thức học sinh đã có để học bài mới, đồng thời trang bị cho học sinh những lượng kiến
thức cần thiết để làm cơ sở học các bài tiếp theo.
Việc nắm được đặc điểm nhận thức của học sinh, các phương pháp dạy học
phép chia các số tự nhiên; định hướng đổi mới phương pháp dạy học sẽ giúp giáo viên
lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học đúng, hiệu quả và phát huy được tính tích
cực trong học tập của học sinh.
Với nội dung dạy phép chia ở lớp 3 cũng vậy để thực hiện được yêu cầu đề ra
người giáo viên cần phải tìm hiểu lại nội dung và phương pháp dạy học về phép chia
để:
- Thấy được những điểm mới trong dạy phép chia ở lớp 3.
- Thấy được những dụng ý trong cách sắp xếp từng bài học, từng nội dung
học.
- Nắm vững cách sắp xếp các bài tập trong từng bài học để có cách giảng dạy
phù hợp.
- Giáo viên cũng tìm ra các bài tập khó có cách hướng dẫn học sinh sao cho dễ
hiểu nhất.
* Giáo viên cũng cần đề ra phương pháp dạy học phù hợp cho các nội dung
học.
Đối với học sinh cần có sự quan tâm của giáo viên đến tất cả các đối tượng
học sinh để các em đạt được mục tiêu giáo dục đề ra và phát triển được tư duy cho học
sinh hoàn thành tốt, tạo điều kiện cho các em phát triển về mọi mặt.
Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và phương pháp dạy học phép chia ở lớp

3 giúp giáo viên nâng cao trình độ về toán học và phương pháp dạy học qua nghiên
cứu bài tập, các tài liệu có liên quan. Từ đó giúp cho việc giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Trên đây là kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra trong quá trình giảng dạy, để
thực hiện nội dung đề tài này. Rất mong được đón nhận ý kiến đóng góp của quý thầy
cô để tôi học tập thêm kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 14


Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Người viết sáng kiến

Phan Thị Tuyết Mai
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa

Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 15


MỤC LỤC
I. Sơ lược lý lịch tác giả.


Trang 1

II. Sơ lược tình hình đơn vị.

Trang 1

- Thuận lợi.
- Khó khăn.
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến

Trang 2

1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến.

Trang 2

2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến.

Trang 3

3. Nội dung sáng kiến.

Trang 4

3.1. Tiến trình thực hiện.

Trang 4, 5

3.2. Thời gian thực hiện.


Trang 6

3.3. Biện pháp tổ chức.

Trang 6

3.3.1. Giúp học sinh học tốt bảng nhân chia.

Trang 6

3.3.2. Hướng dẫn học sinh và rèn kĩ năng ước lượng thương.

Trang 7

3.3.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp.

Trang 7

3.3.4. Rèn kĩ năng cho học sinh thông qua hệ thống bài tập.

Trang 7,8,9,10

3.3.5. Cách khắc phục khó khăn trong dạy phép chia ở lớp 3.

Trang 11

VI. Hiệu quả đạt được.

Trang 11


1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến.

Trang 11

2. Lợi ích thu được khi đề tài sáng kiến áp dụng.

Trang 12

V. Mức độ ảnh hưởng.

Trang 12

1. Khả năng áp dụng sáng kiến.

Trang 12

2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.

Trang 13

VI. Kết luận.

Trang 13

Phan Thị Tuyết Mai

Tiểu học B Long An

Trang 16




×