Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.02 KB, 57 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. SƠ YẾU LÍ LỊCH
- Họ và tên :

Nguyễn Thị Hằng

- Ngày sinh :

21-9-1977

- Chức vụ :

Giáo viên

- Đơn vị công tác :

Trường THCS Phú Phương

- Trình độ chuyên môn :

CĐSP Văn- Sử ; ĐHSP Văn

- Môn giảng dạy : Lịch sử
- Khen thưởng: Chiến sĩ thi đua cấp Huyện
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Đề tài: “Bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử ở trường THCS”

1




A - PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động vất vả, khó khăn và thử
thách đối với những người làm nghề dạy học.
Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành
giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho đất nước
trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện được ước
mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong
tương lai.
Thực tế trong những năm qua, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được lãnh đạo
các trường và phòng giáo dục chú trọng, quan tâm. Song chất lượng mũi nhọn
của ngành giáo dục huyện nhà đạt hiệu quả chưa cao.
Bản thân tôi là một giáo viên ra trường đã nhiều năm được đảm nhận giảng
dạy môn lịch sử. Thành tích bồi dưỡng học sinh giỏi của tôi gắn liền với chất
lượng mũi nhọn của trường. Được Ban giám hiệu tạo điều kiện và tin tưởng
phân công tôi giảng dạy một số lớp khối 9 thuộc bộ môn lịch sử. Một môn học ít
tiết, được coi là phụ không mấy ai quan tâm, nhất là đối tượng học sinh sống
sinh hoạt ở vùng nông thôn- lâm nghiệp không có mặt bằng chung về kiến thức,
điều kiện học tập còn hạn chế. Mặt khác một số em cho rằng học lịch sử chỉ là
nhắc lại kiến thức trong sách giáo khoa tạo thành lối mòn đến nhàm chán.Song
bằng năng lực chuyên môn cùng tâm huyết với nghề, bốn năm liên tục tôi có học
sinh giỏi cấp huyện (trong đó có 1 giải nhì, 3 giải ba, 2 giải khuyến khích và 2
giải công nhận). Thành tích đạt được của học sinh chính là thước đo của nhà
giáo.
Vì lẽ đó, được sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp và bằng kinh nghiệm giảng
dạy của mình,tôi xin mạnh dạn trao đổi về đề tài : “ Bồi dưỡng học sinh giỏi
môn lịch sử ở trường THCS” để đạt kết quả cao hơn.
II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI DẠY VÀ HỌC MÔN

LỊCH SỬ.
1.Thuận lợi:
- Được sự chỉ đạo sâu sát của Ban giám hiệu nhà trường .
- Sự tạo điều kiện của giáo viên chủ nhiệm và các đồng chí, đồng nghiệp .
- Bản thân có nhiều năm công tác trong nghề, có nhiều kinh nghiệm trong ôn
luyện học sinh giỏi
- Đặc biệt môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục
thế hệ trẻ. Học lịch sử để biết được cội nguồn của dân tộc, quá trình đấu tranh
anh dũng và lao động sáng tạo của ông cha. Học lịch sử để biết quý trọng những
gì mình đang có, biết ơn những người làm ra nó và biết vận dụng vào cuộc sống
hiện tại để làm giàu thêm truyền thống dân tộc.
2. Khó khăn:
2


Do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã
hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó
là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài tập, không cần học
thêm phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện
lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến
trong thực tế ở nhiều trường.
Do ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngoài, của mạng
Internet, của các trò chơi điện tử… Đã ảnh hưởng không nhỏ đến những học
sinh thiếu động cơ thái độ học tập, sao nhãng việc học hành dẫn đến liệt môn,
nhất là bộ môn lịch sử .
Học tập còn mang tính thực dụng. Thầy giáo dạy lịch sử bị xem thường,
không được coi trọng như các thầy cô thuộc khoa học tự nhiên, ngoại ngữ,…
Giáo viên dạy lịch sử cũng rất nghèo về kinh tế. Mức thu nhập chủ yếu chỉ dựa
vào đồng lương chính đáng ngoài ra hiếm có cơ hội của những nguồn thu khác.
III. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN:

1. Phạm vi : Trường THCS nơi tôi dang giảng dạy.
2. Đối tượng: Học sinh giỏi
3. Thời gian nghiên cứu: Năm học 2016-2017
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm này là nhằm đưa ra một số
kinh nghiệm, bí quyết ôn luyện học sinh giỏi môn lịch sử (chọn đối tượng học
sinh, phương pháp ôn luyện , kết quả đạt được ) .
IV. TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU :
Sách giáo khoa lịch sử lớp 6, 7, 8, 9 .
Sách giáo viên lịch sử lớp 6, 7, 8, 9 .
Sách nâng cao lịch sử lớp 6, 7, 8, 9 .
Một số tài liệu tham khảo khác như danh nhân lịch sử,…
Một số đề thi cấp huyện, cấp tỉnh môn lịch sử .

3


B - NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
I .CƠ SỞ LÍ LUẬN .
Như chúng ta đã biết trong chương trình THCS bên cạnh những bộ môn Toán,
Văn, Ngoại ngữ thì bộ môn lịch sử giữ vai trò quan trọng, nó có tác dụng nhiều
mặt trong cuộc sống. Bởi: “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống” (Xi – xê – rông).
Lịch sử giúp các em có tư duy lôgic cách đánh giá, nhìn nhận một sự việc sự
vật con người được khách quan chính xác khoa học. Lịch sử liên quan đến rất
nhiều các bộ môn Ngữ văn, Địa lí, Toán học. Bộ môn lịch sử có ưu thế trong
việc giáo dục thế hệ trẻ vì học lịch sử chúng ta tái hiện được cuộc sống của quá
khứ, hiện tại và tương lai, tìm thấy trong dĩ vãng nhiều câu trả lời xác đáng cho
hôm nay và ngày mai. Cũng chính vì vậy mà GJsex-nư-sepxki nhà tư tưởng dân
chủ Nga thế kỉ XIX đã nói rằng:“ Có thể không biết không say mê học tập môn
Toán...có thể không biết hàng nghìn môn khoa học khác nhưng dù sao đã là

người có giáo dục mà không yêu thích lịch sử thì có thể là một con người không
phát triển đầy đủ về mặt trí tuệ”.
Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp
dạy học lối truyền đạt một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho học
sinh, từng bước áp dụng các phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tế nhằm pháp huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học tự rèn luyện. Vậy làm thế nào
để học sinh học tốt môn lịch sử và đạt được danh hiệu học sinh giỏi môn lịch sử.
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học của Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội, Phòng giáo
dục và đào tạo Ba Vì, Trường THCS Phú Phương. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi
là một công việc rất khó khăn đòi hỏi người giáo viên phải hệ thống lại toàn bộ
kiến thức, tìm mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, rút ra quy luật bài học lịch
sử, rèn luyện kĩ năng và các thao tác tư duy để phát triển năng lực sáng tạo liên
hệ vận dụng trong thực tế cuộc sống. Người giáo viên phải có kiến thức vững
vàng có trình độ tư duy cao và phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để
nghiên cứu, bồi dưỡng thì mới đạt kết quả cao.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay một số em cho rằng lịch sử là
một môn học phụ do đó không phải đầu tư nhiều thời gian vào học như các môn
học khác. Mặt khác do đặc thù của học sinh sống ở vùng nông thôn có mặt bằng
chung về kiến thức, điều kiện học tập còn nhiều khó khăn, khả năng tiếp thu hạn
chế hơn đối tượng học sinh ở vùng thành thị.
Khảo sát thực tế qua nhiều năm bồi dưỡng học sinh giỏi có năm có học sinh
giỏi, có năm không có học sinh giỏi, số học sinh dự thi nhiều nhưng kết quả đạt
được lại không cao do nhiều nguyên nhân:
Cách chọn đối tượng học sinh thi học sinh giỏi còn tùy tiện.
Giáo viên ôn tập chưa thành hệ thống, chưa khoa học...
4



Để khắc phục tình trạng trên và nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn
lịch sử bản thân tôi đã tìm tòi và đưa ra phương pháp ôn tập, bồi dưỡng cho học
sinh một cách có hệ thống, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh để đạt kết quả cao nhất.
III. KHÂU CHỌN ĐỘI TUYỂN HỌC SINH GIỎI
Ngay từ đầu năm học tôi đã quan tâm tìm hiểu học sinh qua bài kiểm tra để
phân loại đối tượng học sinh sau đó tôi chọn 10 em học sinh giỏi ở lớp 9. Sau
một tháng ôn tập tôi tổ chức ra đề cho các em thi tuyển và cuối cùng tôi chọn
được 4 em xuất sắc vào đội tuyển học sinh giỏi. Khi lựa chọn được đối tượng
học sinh tôi luôn lưu ý về vấn đề tâm lý học sinh. Tâm lí vững vàng, bình tĩnh,
tự tin thì bài làm sẽ đạt kết quả cao. Ngược lại tâm lí hoang mang, giao động, sợ
sệt thì chất lượng bài làm sẽ kém.
Tôi luôn luôn biết khích lệ, níu kéo các em vào niềm ham mê yêu thích bộ
môn. Mặt khác giáo viên phải biết khơi dậy ở học sinh niềm tự hào, hãnh diện
khi đỗ đạt. Đã là học sinh giỏi cấp huyện có giải thì đương nhiên bất cứ môn học
nào cũng được hưởng chế độ ưu tiên ngang nhau và vinh quang như nhau.
Đồng thời giáo viên cũng phải biết xây dựng, vun đắp uy tín của mình để có
được lòng tin đối với học sinh.
IV. PHƯƠNG PHÁP ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
- Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường. Vì ở
lớp ta dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng ( khá giỏi, trung bình và yếu
kém). Song dạy cho học sinh đi thi có nghĩa là ta đưa các em “mang chuông đi
đánh đất người”. Đối tượng dự thi đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận
thức. Vì vậy ngoài kiến thức sách giáo khoa giáo viên cần có thêm tài liệu nâng
cao, để giúp đối tượng dự thi học sâu, hiểu rộng.
- Thứ hai là người dạy phải có niềm tin và tâm huyết với nghề. Phải biết băn
khoăn, trăn trở khi học sinh không hiểu bài, biết vui mừng phấn khởi khi học
sinh thành đạt. Hay nói cách khác là người dạy phải lấy kết quả của học sinh làm
thước đo tay nghề của nhà giáo.

- Yếu tố cơ bản nhất là người dạy luôn luôn biết tự hoàn thiện mình. Có tâm
huyết với nghề chưa đủ, hơn thế nữa phải có năng lực chuyên môn vững vàng,
biết xác định được kiến thức trọng tâm, biết làm chủ điều mình dạy và phải biết
dạy học sinh cách học để học sinh bình tĩnh, tự tin lĩnh hội kiến thức và tư duy
sáng tạo. Nâng quan điểm từ biết để hiểu để vận dụng vào làm bài.
Thực tế cho thấy học sinh nhiều trường dự thi học sinh giỏi, mặc dù thang
điểm 20 song kết quả một số thí sinh chỉ đạt: 0.5;1;2;3;… Lí do là người dạy và
người học hời hợt, thiếu đầu tư, được chăng hay chớ hoặc chưa xác định được
cách ôn luyện, chỉ tập trung vào kiến thức lớp 9.
Theo bản thân tôi đã là học sinh giỏi thì phải được trang bị kiến thức tương đối
toàn diện. Hiểu khái quát được đặc trưng của bộ môn lịch sử là tìm hiểu, nghiên
5


cứu những hoạt động của con người và xã hội loài người từ khi xuất hiện cho
đến ngày nay. Cách mạng Việt Nam có quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới.
Cho nên phương pháp ôn luyện của tôi là:
- Hệ thống hóa kiến thức cơ bản bằng phân kỳ lịch sử
- Chốt kiến thức trọng tâm bằng hệ thống câu hỏi, bài tập.
- Rèn kỹ năng tư duy, sáng tạo cho học sinh.
PHẦN A: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
I. LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ ĐẠI (LỚP 6)
Nắm được loài người xuất hiện trên trái đất như thế nào? Vai trò của lao động
trong quá trình biến chuyển của con người từ buổi sơ khai đến xuất hiện các
quốc gia đầu tiên.
Nắm được sự xuất hiện của nhà nước cổ đại phương Đông, phương Tây. Nhà
nước cổ đại phương Đông hình thành trên lưu vực các dòng sông lớn. Ngược lại
nhà nước cổ đại phương Tây lại được hình thành ở đảo, bán đảo. Bởi vậy hình
thái kinh tế, xã hội, văn hoá cũng khác nhau. Những công trình kiến trúc đồ sộ
nổi tiếng còn tồn tại đến ngày nay như Kim Tự Tháp (Ai Cập), vườn treo

Babilon (Lưỡng Hà), tượng thần Dớt (Hi Lạp), đấu trường Côlidê (Rô Ma), …
II. LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI( LỚP 7)
- Sự phát sinh, phát triển của nhà nước phong kiến ở Châu Âu, Châu Á, Đông
Nam Á.
- Nguyên nhân, nội dung, hệ quả của cuộc phát kiến địa lí như là một trong
những nhân tố quan trọng tạo tiền đề cho sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến Châu Âu.
- Nguyên nhân dẫn đến phong trào cải cách tôn giáo và những tác động trực
tiếp của phong trào đến xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
- Vai trò của nền văn hoá Phục hưng.
- Phong trào đấu tranh của nông dân chống phong kiến.
- Khu vực Đông Nam Á hiện nay bao gồm những nước nào? Tên gọi và vị trí
địa lí của các nước này có điểm gì tương đồng với nhau để tạo thành khu riêng
biệt.
III. LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI (LỚP 8).
- Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, các cuộc cách mạng tư sản.
Bắt đầu từ cuộc cách mạng Hà Lan từ giữa thế kỉ XVI đến cách mạng tháng
Mười Nga 1917. Đây là thời kì mà lịch sử loài người bắt đầu chuyển từ chế độ
phong kiến sang chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới.
- Với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản, sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản với những khủng hoảng mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Sự phát triển của
công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, đưa cuộc đấu tranh của
6


giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản thành phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế tư sản, gắn liền với yêu cầu về phát triển sản xuất về thị trường nguyên
vật liệu, nhân công rẻ mạt.
- Bên cạnh những hạn chế, chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển góp phần vào
sự phát triển chung của lịch sử nhân loại. Đó là sự ra đời của phương thức sản

xuất mới tiến bộ về những thành tựu về kinh tế, khoa học kĩ thuật.
- Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Những đặc điểm
của chủ nghĩa đế quốc.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất.
- Phong trào công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Vai trò của Mác – Ăng Gen và sự ra đời quốc tế thứ nhất, hoàn cảnh ra đời,
hoạt động, tác dụng đối với phong trào cách mạng thế giới.
- Công xã Pari - nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Đây là nhà nước kiểu
mới.
IV. LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI (LỚP 8-9).
* Lịch sử thế gới hiện đại lớp 8
- Với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga 1917 chủ nghĩa xã hội đã
trở thành hiện thực ở một số nước rộng lớn, trải dài qua hai châu lục Âu –Á, nơi
mà chế độ chuyên chế của Nga Hoàng rất nặng nề trong việc áp bức giai cấp và
áp bức dân tộc .
- Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga 1917 và công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941) đã có tác động to lớn đến tình hình thế
giới, phân chia thế giới thành hai hệ thống: Xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ
nghĩa.
- Phong trào đấu tranh cách mạng ở các nước tư bản Âu Mĩ lên cao và có bước
chuyển biến lớn ở nhiều nước, các Đảng cộng sản và công nhân ra đời đã lãnh
đạo phong trào cách mạng đi theo con đường cách mạng tháng mười Nga.
- Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phát
triển cùng với phong trào cách mạng thế giới.
- Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945). Cuộc chiến tranh gây ra những tổn
thất khủng khiếp cho nhân loại. Kết thúc thời kì phát triển của lịch sử thế giới
mở ra một thời kì mới với sự hình thành và phát triển của hệ thống xã hội chủ
nghĩa và sự ra đời của các quốc gia độc lập.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hoá thế giới từ nửa đầu thế kỉ XX.
* Phần lịch sử thế giới hiện đại lớp 9:

Bản thân tôi cho rằng kiến thức lịch sử thế giới lớp 9 được coi là chú trọng của
chương trình ôn luyện. Vì hàng năm tổ chức thi học sinh giỏi cấp huyện vào
tháng 12 nên tôi phân chia thành từng phần nhỏ để ôn kĩ cho các em như sau:
7


1. Những thành tựu chủ yếu của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỉ XX.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tuy là nước thắng trận, nhưng Liên Xô bị
chiến tranh tàn phá nặng nề về người và của... bên cạch đó còn phải làm nhiệm
vụ giúp đỡ các nước chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Bên
ngoài, các nước đế quốc - đứng đầu là Mỹ - tiến hành bao vây về kinh tế, cô lập
về chính trị, phát động "chiến tranh lạnh", chạy đua vũ trang, chuẩn bị một cuộc
chiến tranh nhằm tiêu diệt liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa .
Tuy vậy, Liên Xô có thuận lợi: Có được sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và
Nhà nước Liên Xô, nhân dân Liên Xô đã lao động quên mình để xây dựng lại
đất nước.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỉ XX, Liên Xô
đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt. Cụ thể:
- Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 - 1950):
Hoàn thành kế hoạch 5 năm (1945 - 1950) trong 4 năm 3 tháng. Nhiều chỉ tiêu
vượt kế hoạch.
Đến năm 1950, tổng sản lượng công nghiệp tăng 73% so với trước chiến tranh.
Nông nghiệp vượt mức trước chiến tranh.
Năm 1949, chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền của Mĩ.
- Từ năm 1950, Liên Xô thực hiện nhiều kế hoạch dài hạn nhằm tiếp tục xây
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đã thu được nhiều thành
tựu to lớn:
- Về công nghiệp: Bình quân công nghiệp tăng hàng năm là 9,6%. Tới những
năm 50, 60 của thế kỉ XX, Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ

hai thế giới sau Mỹ, chiếm khoảng 20% sản lượng công nghiệp thế giới. Một số
ngành công nghiệp đứng đầu thế giới: Vũ trụ, điện, nguyên tử…
- Về nông nghiệp: Có nhiều tiến bộ vượt bậc.
- Về khoa học - kĩ thuật: Phát triển mạnh, đạt nhiều thành công vang dội: năm
1957 Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo vào quỹ đạo
trái đất, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Năm 1961 Liên Xô
lại là nước đầu tiên phóng thành công con tàu vũ trụ đưa nhà du hành Ga-ga-rin
bay vòng quanh trái đất.
- Về quân sự: Từ năm 1972 qua một số hiệp ước, hiệp định về hạn chế vũ khí
chiến lược, Liên Xô đã đạt được thế cân bằng chiến lược về quân sự nói chung,
hạt nhân nói riêng so với Mĩ và phương Tây.
- Về đối ngoại: Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, tích cực ủng hộ
phong trào cách mạng thế giới và các nước xã hội chủ nghĩa.
Sau khoảng 30 năm tiến hành khôi phục kinh tế, đất nước Liên Xô có nhiều
biến đổi, đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội ổn định, trình độ học vấn của
người dân không ngừng được nâng cao.
Ý nghĩa:
Uy tín và địa vị quốc tế của Liên Xô được đề cao, Liên Xô trở thành trụ cột
của các nước xã hội chủ nghĩa, là thành trì của hoà bình, là chỗ dựa cho phong
trào cách mạng thế giới.
8


Làm đảo lộn toàn bộ chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và
đồng minh của chúng.
2. Quá trình khủng hoảng và tan rã của Liên bang Xô viết.
Năm 1973, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Để thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng, các nước tư bản đã tìm cách cải cách về kinh tế, thích nghi về
chính trị, nhờ đó thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, ban lãnh đạo Đảng và
Nhà nước Liên Xô đã chậm trễ trong việc đề ra cải cách cần thiết nên bước sang

những năm 80 của thế kỉ XX, nền kinh tế Liên Xô ngày càng lún sâu vào tình
trạng khó khăn, trì trệ, khủng hoảng.
Năm 1985, Goóc-ba-chốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước Xô Viết
và tiến hành cải tổ. Cuộc cải tổ được tuyên bố như một cuộc cách mạng nhằm
sửa chữa những sai lầm trước kia, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và xây
dựng một chủ nghĩa xã hội theo đúng bản chất và ý nghĩa nhân văn đích thực
của nó.
Nội dung công cuộc cải tổ:
- Về chính trị - xã hội: Thực hiện chế độ Tổng thống nắm mọi quyền lực, thực
hiện đa nguyên về chính trị, xoá bỏ chế độ một đảng, tuyên bố dân chủ và công
khai mọi mặt.
- Về kinh tế: Đưa ra nhiều phương án nhưng chưa thực hiện được gì. Kinh tế
đất nước vẫn trượt dài trong khủng hoảng.
Kết quả:
Công cuộc cải tổ gặp nhiều khó khăn, bế tắc. Suy sụp kinh tế kéo theo suy sụp
về chính trị. Chính quyền bất lực, tình hình chính trị bất ổn, tệ nạn xã hội tăng,
xung đột sắc tộc luôn sảy ra, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô chia rẽ...
Ngày 19 tháng 8 năm 1991, một cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống
Goóc-ba-chốp nổ ra nhưng thất bại, hệ quả là Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình
chỉ hoạt động, Chính phủ Xô Viết bị giải tán, 11 nước Cộng hoà tách khỏi Liên
bang Xô Viết, thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Ngày 25 tháng
12 năm 1991, Tổng thống Goóc-ba-chốp từ chức, chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô bị sụp đổ.
Nguyên nhân sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu :
+ Đã xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội chứa đựng nhiều khuyết tật và sai
sót, không phù hợp với quy luật khách quan trên nhiều mặt: kinh tế, xã hội, thiếu
dân chủ, thiếu công bằng.
+ Chậm sửa đổi trước những biến động của tình hình thế giới. Khi sửa chữa,
thay đổi thì lại mắc những sai lầm nghiêm trọng về đường lối và biện pháp.

+ Những sai lầm, tha hoá về phẩm chất chính trị, đạo đức của một số nhà lãnh
đạo Đảng và Nhà nước ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã làm biến dạng chủ
nghĩa xã hội, làm mất lòng tin, gây bất mãn trong nhân dân.
+ Hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù định trong và
ngoài nước.
3. Các giai đoạn phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á- PhiMỹ la tinh:
TT
Giai đoạn
Đặc điểm
Sự kiện tiêu biểu
9


1

2

3

Giai đoạn từ
Đấu tranh nhằm
năm 1945 đến đập tan hệ thống
giữa
những thuộc địa của chủ
năm 60 của nghĩa đế quốc.
thế kỉ XX

Giai đoạn từ
những
năm 60

đến
giữa
những
năm 70
của thế
kỉ XX
Giai đoạn từ
giữa
những
năm 70 đến
giữa
những
năm 90 của
thế kỉ XX

Đấu tranh nhằm
lật đổ ách thống trị
của thực dân Bồ
Đào Nha của nhân
dân ba nước Ănggô-la,Mô-dămbích,
Ghi-nê Bít-xao.
Đấu tranh nhằm
xóa bỏ chế độ phân
biệt chủng tộc (Apác-thai) ở Cộng
hoà Nam Phi, Dimba-bu-ê và Na-mibi-a

- Đông Nam Á: Các nước In-đô-nêxia, Việt Nam, Lào tuyên bố độc
lập trong năm 1945.
- Ngày 1-1-1959, cách mạng CuBa
thắng lợi.

- Năm 1960: 17 nước tuyên bố độc
lập, thế giới gọi là “năm châu Phi”
=> Tới giữa những năm 60 của thế
kỉ XX, hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân cơ bản sụp đổ.
- Phong trào đấu tranh vũ trang ở ba
nước này bùng nổ -> năm 1974, ách
thống trị của thực dân Bồ Đào Nha
bị lật đổ.

- Chế độ phân biệt chủng tộc bị xoá
bỏ: Rô-đê-di-a năm 1980 (nay là
Cộng hoà Dim-ba-bu-ê), Tây Nam
Phi năm 1990
( nay là Cộng hoà
Na-mi-bi-a) và Cộng hoà Nam Phi
năm 1993.

Đặc điểm chung:
- Là những khu vực đông dân, có nguồn lao động dồi dào, lãnh thổ rộng lớn
với nguồn tài nguyên thiên nhiên hết sức phong phú.
- Trước chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước trong khu vực này đều
trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của các đế quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Hà
Lan, Bồ Đào Nha…
- Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước trong khu vực này đều
giành được độc lập dân tộc, họ bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước để từng
bước củng cố nền độc lập về kinh tế và chính trị, nhằm thoát khỏi sự khống chế,
lệ thuộc vào các thế lực đế quốc bên ngoài, đặc biệt là Mĩ.
4. Công cuộc cải cách - mở cửa của Trung Quốc:
Từ năm 1959 - 1978, đất nước Trung Quốc lâm vào thời kì biến động toàn

diện. Chính điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước Trung Quốc phải đổi mới để
đưa đất nước đi lên. Tháng 12-1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề
ra đường lối cải cách - mở cửa: Chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội mang
màu sắc Trung Quốc, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, thực hiện cải cách mở
cửa.
* Thành tựu:
10


+ Kinh tế phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới
(GDP tăng 9,6%).
+ Đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt.
+ Chính trị-xã hội: ổn định, uy tín, địa vị quốc tế của Trung Quốc được nâng
cao.
+ Đối ngoại: bình thường hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp
tác, thu hồi Hồng Công, Ma Cao.
+ Đạt nhiều thành tựu trong phát triển khoa học kỹ thuật.
* Ý nghĩa:
Khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới của Trung Quốc, góp phần
củng cố sức mạnh và địa vị của Trung Quốc trên trường quốc tế, đồng thời tạo
điều kiện cho Trung Quốc hội nhập với thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và ngược lại thế giới có cơ hội tiếp cận với một thị trường rộng lớn
đầy tiềm năng như Trung Quốc.
5. Hiệp hội các nước Đông Nam Á - ASEAN (8/8/1967)
Khu vực Đông Nam Á hiện nay gồm 11 quốc gia: Việt Nam, Cam-pu-chia,
Lào, Thái Lan, Mi-an-ma, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Bru-nây, Philíp-pin và Đông Ti-mo.
Hoàn cảnh:
Sau khi giành độc lập, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, nhiều nước Đông Nam Á chủ trương thành lập một tổ chức liên minh khu
vực nhằm cùng nhau hợp tác phát triển, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của các

cường quốc bên ngoài đối với khu vực.
Ngày 8-8-1967, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập tại
thủ đô Băng Cốc-Thái Lan với sự tham gia sáng lập của năm nước: In-đô-nê-xia, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Xin-ga-po và Thái Lan
Mục tiêu hoạt động: Phát triển kinh tế - văn hoá thông qua những nỗ lực hợp tác
chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hoà bình và ổn định khu
vực.
Nguyên tắc hoạt động:
+ Tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau.
+ Giải quyết mọi tranh chấp bằng phương pháp hoà bình.
+ Hợp tác cùng phát triển.
* Quá trình phát triển của ASEAN:
Trong giai đoạn đầu (1967-1975), ASEAN là một tổ chức non yếu, hợp tác
trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế.
Sau cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ba nước Đông Dương (1975),
quan hệ Đông Dương-ASEAN được cải thiện, bắt đầu có những cuộc viếng
thăm ngoại giao.
Năm 1984, Bru-nây trở thành thành viên thứ sáu của ASEAN.
Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, thế giới bước vào thời kì sau "chiến tranh
lạnh" và vấn đề Cam-pu-chia được giải quyết, tình hình chính trị Đông Nam Á
được cải thiện. Xu hướng nổi bật là mở rộng thành viên ASEAN.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN.
11


Tháng 9/1997, Lào và Mi-an-ma gia nhập ASEAN.
Tháng 4/1999, Cam-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của tổ chức này.
Lần đầu tiên trong lịch sử khu vực, 10 nước Đông Nam Á cùng đứng trong
một tổ chức thống nhất. Trên cơ sở đó, ASEAN đã chuyển trọng tâm hoạt động
sang hợp tác kinh tế, quyết định biến Đông Nam Á thành một khu vực mậu dịch

tự do (AFTA), lập diễn đàn khu vực(ARF) nhằm tạo một môi trường hoà bình,
ổn định cho công cuộc hợp tác phát triển của Đông Nam Á.
Như vậy, một chương mới đã mở ra trong lịch sử các nước Đông Nam Á.
* Quan hệ Việt Nam – ASEAN:
Quan hệ Việt Nam – ASEAN diễn ra phức tạp, có lúc hòa dịu, có lúc căng
thẳng tùy theo sự biến động của quốc tế và khu vực, nhất là tình hình phức tạp ở
Cam-pu-chia.
Từ cuối những năm 1980 của thế kỉ XX, ASEAN đã chuyển từ chính sách “đối
đầu” sang ‘’đối thoại”, hợp tác với ba nước Đông Dương. Từ khi vấn đề Campu-chia được giải quyết, Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại “Muốn là bạn
với tất cả các nước”, quan hệ Việt Nam – ASEAN được cải thiện.
Tháng 7/1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Ba-li, đánh dấu một bước mới
trong quan hệ Việt Nam – ASEAN và quan hệ khu vực.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, mối quan hệ Việt Nam và các
nước trong khu vực là mối quan hệ trên tất cả các mặt, các lĩnh vực: kinh tế, văn
hóa, khoa học, kĩ thuật… và nó ngày càng được đẩy mạnh.
6. Tình hình chung về các nước Châu Phi.
Trước chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước châu Phi là thuộc địa của
thực dân phương Tây.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân, đòi độc lập ở châu Phi lên cao. Phong trào nổ ra sớm nhất là ở vùng Bắc
Phi, nơi có trình độ phát triển cao hơn các vùng khác trong châu lục. Mở đầu là
cuộc binh biến của các sĩ quan yêu nước Ai Cập(7/1952), lật đổ chế độ quân chủ
và tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Ai Cập (18/6/1953).
Tiếp đó là cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài từ năm 1954 đến năm 1962 của nhân
dân An-giê-ri, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp giành lại độc lập dân tộc.
Trong năm 1960, 17 nước châu Phi giành được độc lập. Vì vậy, thế giới gọi
năm 1960 là "Năm châu Phi". Từ đó hệ thống thuộc địa của các đế quốc lần lượt
tan rã, các dân tộc châu Phi giành được độc lập.
* Nước Cộng hòa Nam Phi.
- Trên danh nghĩa là một nước độc lập, song phần lớn người da đen và da màu

(80% dân số) sống trong cảnh cơ cực, tủi nhục bởi những chính sách phân biệt
kì thị chủng tộc của chính quyền thực dân da trắng.
- Hậu quả: Họ bị tước hết mọi quyền công dân, phải ở khu cách biệt với người
da trắng, chịu xử tội theo pháp luật riêng. Không có quyền sở hữu lớn về tài sản,
cuộc sống vất vả, cực khổ.
Vài nét về ANC Nen-xơn Man-dê-la.
- Sinh năm 1918, năm 1944 gia nhập Đại hội dân tộc Phi, sau đó giữ chức vụ
Tổng bí thư ANC. Năm 1964, bị nhà cầm quyền Nam Phi kết án tù chung thân.
12


- Trước cuộc đấu tranh mạnh mẽ chống chế độ phân biệt chủng tộc A-pac-thai
của nhân dân cộng hòa Nam Phi và sự ủng hộ của loài người tiến bộ, buộc nhà
cầm quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông (2/1990),công nhận quyền hợp pháp
của ANC và các đảng phái chính trị chống A-pac-thai. Quốc hội Nam Phi buộc
phải xóa bỏ hầu hết các đạo luật phân biệt chủng tộc.
- Sau khi ra tù, ông được bầu làm phó chủ tịch, rồi chủ tịch ANC (9/1991).
Tháng 4/1994, trong cuộc tổng tuyển cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi, ANC
giành được thắng lợi áp đảo. Ngày 9/5/1995, ông được bầu làm tổng thống cộng
hòa Nam Phi.
7. Cu-Ba: Hòn đảo anh hùng.
* Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Cu Ba (1945-1959)
Nguyên nhân:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, được sự giúp đỡ của Mĩ, tháng 3/1952, Tướng
Ba-ti-xta tiến hành đảo chính, thiết lập chế độ độc tài quân sự. Chính quyền Bati-xta đã xoá bỏ Hiến pháp tiến bộ, cấm các đảng phái hoạt động, giết hại, giam
cầm hàng chục vạn người yêu nước. Dưới chế độ độc tài Ba-ti-xta, đất nước Cu
Ba bị biến thành trại tập trung, xưởng đúc súng khổng lồ.
Không cam chịu dưới ách thống trị của chế độ độc tài, nhân dân Cu Ba đã
vùng dậy đấu tranh.
Diễn biến:

Ngày 26-7-1953, 135 thanh niên yêu nước dưới sự chỉ huy của luật sư trẻ tuổi
Phi-đen Ca-xtơ-rô đã tấn công vào pháo đài Môn-ca-đa. Cuộc tấn công không
giành được thắng lợi (Phi-đen Ca-xtơ-rô bị bắt giam và sau đó bị trục xuất sang
Mê-hi-cô), nhưng mở đầu cho giai đoạn phát triển mới của của cách mạng Cu
Ba.
Năm 1955, Phi-đen Cat-xtơ-rô được trả tự do và bị trục xuất sang Mê-hi-cô. Ở
đây Ông đã thành lập tổ chức cách mạng lấy tên "phong trào 26/7", tập hợp các
chiến sĩ yêu nước, luyện tập quân sự.
Năm 1956, Phi-đen Ca-xtơ-rô cùng 81 chiến sĩ yêu nước từ Mê-hi-cô trở về tổ
quốc. Bị địch bao vây, tấn công, nhiều đồng chí hi sinh, chỉ còn 12 người, trong
đó có Phi-đen. Sau đó Ông cùng 11 đồng chí rút về xây dựng căn cứ cách mạng
ở vùng rừng núi phía Tây của Cu Ba.
Dưới sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân, lực lượng cách mạng đã lớn mạnh và
lan rộng ra cả nước. Ngày 1-1-1959, nghĩa quân tiến vào thủ đô La-ha-ba-la, lật
đổ chế độ độc tài Ba-ti-xta. Cách mạng Cu Ba giành được thắng lợi hoàn toàn.
Ý nghĩa: Mở ra kỉ nguyên mới với nhân dân Cu Ba: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Cu Ba trở thành lá cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc ở
Mĩ La-tinh và cắm mốc đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ở Tây bán cầu.
* Công cuộc xây dựng đất nước (1959-2000)
Sau ngày cách mạng thắng lợi, chính phủ cách mạng lâm thời Cu Ba do Phiđen Ca-xtơ-rô đứng đầu đã tiến hành cuộc cải cách dân chủ triệt để: cải cách
ruộng đất, quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản nước ngoài, xây dựng chính
quyền các cấp, xoá nạn mù chữ, phát triển giáo dục...

13


Để tiêu diệt cách mạng Cu Ba, năm 1961, Mĩ cho một đội quân đánh thuê đổ
bộ nên bãi biển Hi-rôn nhưng bị quân dân Cu Ba đánh bại. Sau thắng lợi này,
Phi-đen Ca-xtơ-rô tuyên bố Cu Ba tiến lên chủ nghĩa xã hội .
Mặc dù bị Mĩ bao vây cấm vận, nhưng nhân dân Cu Ba vẫn giành được những

thắng lợi to lớn: xây dựng được một nền công nghiệp với cơ cấu các ngành hợp
lý, một nền nông nghiệp đa dạng, văn hoá, y tế, giáo dục, thể thao phát triển
mạnh mẽ, đạt trình độ cao của thế giới.
Sau khi Liên Xô tan rã, Cu Ba trải qua thời kì khó khăn. Nhưng với ý chí của
toàn dân, với những cải cách điều chỉnh, đất nước Cu Ba đã vượt qua khó khăn,
tiếp tục đưa đất nước phát triển đi lên.
* Mối quan hệ hữa nghị giữa nhân dân Cu-Ba với nhân dân Việt Nam.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, Phi-đen Ca-xtơ-rô là
nguyên thủ nước ngoài duy nhất đã vào tuyến lửa Quảng Trị để động viên nhân
dân ta.
- Bằng trái tim và tình cảm chân thành, Phi-đen và nhân dân Cu-Ba luôn ủng
hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam: “Vì Việt Nam, Cu-Ba sẵn sàng
hiến cả máu”.
- Cu Ba đã các chuyên gia, bác sĩ nghiên cứu bệnh sốt rét, mổ cho các thương
binh ở chiến trường.
- Sau 1975, Cu-Ba đã giúp nhân dân Việt Nam xây dựng thành phố Vinh, bệnh
viện Cu-Ba ở Đồng Hới (Quảng Bình).
8. Tình hình kinh tế Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nguyên nhân:
+ Tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, trình độ cao,
năng động sáng tạo.
+ Nhờ chiến tranh thế giới thứ hai, buôn bán vũ kí cho hai bên để kiếm lời…
+ Áp dụng thành tựu khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, điều chỉnh sản xuất, cải
tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm…
+ Trình độ quản lý trong sản xuất và tập trung tư bản rất cao.
+ Vai trò điều tiết của nhà nước - đây là nguyên nhân quan trọng tạo nên sự
phát triển kinh tế Mĩ.
+ Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác: chính sách thu hút các nhà khoa học,
người lao động có trình độ cao đến với Mĩ, điều kiên quốc tế thuận lợi. Mĩ
không bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá, được hai đại dương Đại Tây

Dương và Thái Bình Dương bao bọc và che chở, nước Mĩ có điều kiện yên bình
để sản xuất. Vì vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ vươn lên chiếm ưu thế
tuyệt đối trong thế giới tư bản chủ nghĩa.
Thành tựu
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành trung tâm kinh tế, tài chính duy
nhất của toàn thế giới:
+ Công nghiệp: chiếm 56,47% sản lượng công nghiệp thế giới.
+ Nông nghiệp gấp 2 lần sản lượng nông nghiệp 5 nước Anh, Pháp, Đức,
Italia, Nhật cộng lại.
+ Tài chính: chiếm 3/4 trữ lượng vàng thế giới, là chủ nợ duy nhất của thế
giới.
14


+ Quân sự: Mĩ có lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới với các loại vũ khí
hiện đại, độc quyền về vũ khí hạt nhân.
- Từ những năm 70 trở đi, Mĩ không còn giữ ưu thế tuyệt đối vì bị Tây Âu và
Nhật Bản cạnh tranh, kinh tế Mĩ luôn vấp phải những cuộc suy thoái khủng
hoảng, chi phí quân sự lớn, chênh lệch giàu nghèo...
9.Tình hình kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Thuận lợi:
+ Chính phủ Nhật Bản tiến hành một loạt các cải cách dân chủ.
+ Nhờ những đơn đặt hàng "béo bở" của Mĩ trong hai cuộc chiến tranh Triều
Tiên và Việt Nam. Đây được coi là "ngọn gió thần" đối với kinh tế Nhật.
Thành tựu:
- Từ những năm 50, 60 của thế kỉ XX trở đi, nền kinh tế Nhật tăng trưởng một
cách "thần kì", vượt qua các nước Tây Âu, Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn
thứ hai trong thế giới tư bản chủ nghĩa:
+ Về tổng sản phẩm quốc dân: năm 1950 chỉ đạt được 20 tỉ USD, nhưng đến
năm 1968 đó đạt tới 183 tỉ USD, vươn lên đứng thứ hai thế giới sau Mĩ. Năm

1990, thu nhập bình quân đầu người đạt 23.796 USD, vượt Mĩ đứng thứ hai thế
giới sau Thuỵ Sĩ (29.850 USD)
+ Về công nghiệp, trong những năm 1950-1960, tốc độ tăng trưởng bình quân
hằng năm là 15%, những năm 1961-1970 là 13,5%.
+ Về nông nghiệp, những năm 1967-1969, Nhật tự cung cấp được hơn 80%
nhu cầu lương thực trong nước...
- Tới những năm 70 của thế kỉ XX, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm
kinh tế - tài chính của thế giới.
Nguyên nhân của sự phát triển đó:
+ Vai trò điều tiết của nhà nước: đề ra các chiến lược phát triển kinh tế vĩ mô,
biết sử dụng, tận dung hợp lý các nguồn vay, vốn đầu tư nước ngoài..
+ Bản tính con người Nhật: cần cù, chịu khó, ham học hỏi, có trách nhiệm,
biết tiết kiệm, lo xa...
+ Các công ty Nhật năng động, có tầm nhìn xa, quản lý tốt, tập trung sản xuất
cao.
+ Áp dụng những thành tựu khoa học-kĩ thuật vào sản xuất.
+ Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác: truyền thống văn hoá - giáo dục lâu
đời, nhờ chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam; chi phí ít cho quân sự, đầu tư nước
ngoài…
- Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật có hạn chế: Nghèo tài nguyên, hầu hết năng
lượng, nguyên vật liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Nền kinh tế mất cân đối,
thường xuyên vấp phải những cuộc suy thoái, Mặt khác Nhật Bản vấp phải sự
cạnh tranh, chèn ép của Mĩ, Tây Âu và nhiều nước công nghiệp mới.
Có thể nói, sự tăng trưởng của nền kinh tế Nhật hơn nửa thập kỉ qua đã để lại
sự kính nể của bạn bè thế giới. Bài học về khắc phục chiến tranh, thúc đẩy kinh
tế phát triển của Nhật là bài học quý giá đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta hiện nay...
10.Các nước Tây Âu
* Tình hình các nước Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ 2.
15



- Bị thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến tranh.
- Các nước đều là con nợ của Mĩ.
- Năm 1916, 16 nước Tây Âu nhận viện trợ của Mĩ theo kế hoạch Mác-san.
- Giai cấp tư sản tìm cách thu hẹp các quyền tự do dân chủ, ngăn cản phong
trào công nhân và phong trào dân chủ.
- Những năm đầu sau chiến tranh, nhiều nước Tây Âu tiến hành các cuộc chiến
tranh xâm lược trở lại để khôi phục ách thống trị của mình đối với các nước
thuộc địa.
- Các nước Tây Âu tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO), chạy
đua vũ trang nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
- Nước Đức bị phân chia làm hai: cộng hòa Liên Bang Đức và cộng hòa Dân
Chủ Đức (1949). Mĩ, Anh, Pháp dốc sức viện trợ cho cộng hòa Liên Bang Đức.
Nhờ đó, nền kinh tế cộng hòa Liên Bang Đức phục hồi và phát triển nhanh
chóng vươn lên đứng hàng thứ ba trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Ngày
3/10/1990, nước Đức được thống nhất, trở thành quốc gia có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh nhất Tây Âu.
* Sự liên kết khu vực ở châu Âu.
Nguyên nhân:
Các nước Tây Âu đều có chung một nền văn minh, có nền kinh tế không cách
biệt nhau lắm và từ lâu đã có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong xu thế toàn
cầu hoá, đặc biệt là dưới tác động của cách mạng khoa học- kỹ thuật, hợp tác
phát triển là cần thiết.
Từ năm 1950, sau khi nền kinh tế được phục hồi và bắt đầu phát triển, các
nước Tây Âu cần phải đoàn kết nhau lại để thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mĩ và
cạnh tranh với các nước ngoài khu vực.
Quá trình liên kết:
+ Khởi đầu Là sự ra đời của "Cộng đồng than, thép châu Âu" (4/1951).
+ Tháng 3/1957, sáu nước Pháp, Đước, I-ta-li-a, Hà Lan và Lúc-xăm-bua cùng

nhau thành lập "Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu", rồi "Cộng đồng
kinh tế châu Âu" (EEC) nhằm hình thành "một thị trường chung".
+ Năm 1967, ba cộng đồng trên sáp nhập với nhau thành Cộng đồng châu Âu.
(viết tắt theo tiếng Anh là EC)
+ Tháng 12/1991, các thành viên EC đã kí tại Hà Lan bản Hiệp ước Maxtrích,
nhằm thống nhất châu Âu, quyết định đổi tên thành EU và sử dụng đồng tiền
chung châu Âu (EURO).
Hiện nay, sau nhiều năm thành lập và hoạt động, liên minh châu Âu đã trở
thành một liên minh kinh tế - chính trị lớn nhất thế giới, tổ chức chặt chẽ nhất và
là một trong ba trung tâm kinh tế thế giới. Năm 1999, số nước thành viên của tổ
chức này là 15, đến năm 2004 là 25 nước.
11. Sự hình thành trật tự thế giới mới - Ianta.
Đầu năm 1945, khi chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc,
nhiều vấn đề tranh chấp trong nội bộ phe đồng minh nổi lên gay gắt.
Trong bối cảnh đó, tháng 2 năm 1945, Hội nghị cấp cao ba cường quốc Liên
Xô, Mĩ, Anh được triệu tập ở I-an-ta (Liên Xô) từ ngày 4 đến 11/2/1945.
Nội dung Hội nghị:
16


Hội nghị đã thông qua những quyết định quan trọng về việc phân chia khu vực
ảnh hưởng giữa hai cường quốc Liên Xô và Mĩ:
+ Về việc kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai: Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa
phát xít Đức, chủ nghĩa quân phiệt Nhật để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
+ Thành lập tổ chức Liên hợp quốc để giữ gìn hoà bình, an ninh và trật tự thế
giới sau chiến tranh.
+Thoả thuận việc đóng quân tại các nước phát xít chiến bại và phân chia phạm
vi ảnh hưởng giữa các nước chiến thắng.
Ở châu Âu: Liên Xô chiếm đóng và kiểm soát vùng Đông Đức và phía đông
châu Âu (Đông Âu); Vùng Tây Đức và Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của

Mĩ và Anh.
Ở châu Á: Duy trì nguyên trạng lãnh thổ Mông Cổ, trả lại Liên Xô phía nam
đảo Xa-kha-lin, trao trả cho Trung Quốc những đất đai bị Nhật chiếm đóng
trước đây (như Đài Loan, Mãn Châu...) thành lập Chính phủ liên hợp dân tộc
gồm Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Triều Tiên được công nhận là một quốc gia độc lập nhưng tạm thời quân đội
Liên Xô và Mĩ chia nhau kiểm soát và đóng quân ở Bắc và Nam vĩ tuyến 38.
Các vùng còn lại ở châu Á (Đông Nam Á, Nam Á...) vẫn thuộc phạm vi của
các nước phương Tây.
Những quyết định trên của Hội nghị I-an-ta đã trở thành khuôn khổ của một
trật tự thế giới mới được gọi là “Trật tự hai cực I-an-ta” do Liên Xô và Mĩ đứng
đầu mỗi cực.
12. Tổ chức Liên Hợp Quốc.
Hoàn cảnh ra đời:
+ Tại hội nghị I-an-ta (tháng 2-1945), các đại biểu đã nhất trí thành lập một tổ
chức quốc tế mới là Liên hợp quốc.
+ Từ 25 - 4 đến 26-4-1945, đại biểu 50 nước họp ở Xan phran-xi-xcô (Mĩ) để
thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và thành lập tổ chức Liên hợp quốc.
Mục đích và nhiệm vụ của Liên hợp quốc:
+ Duy trì hoà bình và an ninh thế giới.
+ Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng độc
lập, chủ quyền của các dân tộc.
+ Thực hiện sự hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân đạo.
Vai trò của Liên hợp quốc:
Từ năm 1945 đến nay, Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế lớn nhất, giữ vai trò
quan trọng trong việc:
+ Giữ giữ hoà bình, an ninh quốc tế. Góp phần giải quyết các vụ tranh chấp,
xung đột khu vực.
+ Đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
+ Phát triển các mối quan hệ, giao lưu giữa cac quốc gia.

+ Giúp đỡ các nước phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật...nhất là đối
với các nước Á, Phi, Mĩ La-tinh.
Tháng 9-1977 Việt Nam tham gia Liên hợp quốc.
13. "Chiến tranh lạnh".
17


Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ và Liên Xô ngày càng mâu thuẫn và đối
đầu gay gắt.
Tháng 3-1947, Tổng thống Mĩ Tơ-ru-man chính thức phát động “Chiến tranh
lạnh”, chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện chiến lược toàn
cầu.“Chiến tranh lạnh” là chính sách thù địch về mọi mặt của Mĩ và các nước đế
quốc trong quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Những biểu hiện của tình trạng “Chiến tranh lạnh”.
Mĩ và các nước đế quốc chạy đua vũ trang, chuẩn bị cuộc “Chiến tranh tổng
lực” nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường ngân sách quân sự, thành lập các khối quân sự, cùng các căn cứ
quân sự bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (NATO, SEATO,
CENTO, AUZUS, Khối quân sự Tây bán cầu, Liên minh Mĩ-Nhật...)
Bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa, tạo ra sự căng thẳng phức tạp trong các mối quan hệ quốc tế.
Liên tiếp gây ra các cuộc chiến tranh xâm lược (Triều tiên, Việt Nam, Lào,
Cam-pu-chia, Trung Đông...) hoặc can thiệp vũ trang (Cu Ba, Grê-na-đa, Pa-nama...).
Hậu quả:
Thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, thậm chí có lúc đứng trước nguy
cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Các cường quốc đã chi một khối lượng khổng lồ tiền của và sức người để sản
xuất các loại vũ khí huỷ diệt, xây dựng hàng nghìn căn cứ quân sự, trong khi
nhân loại vẫn phải chịu bao khó khăn do đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai...
14. Thế giới sau “chiến tranh lạnh”:

- Cuộc chạy đua vũ trang trong suốt 40 năm đã làm cho hai nước Liên Xô –
Mĩ đều suy giảm mạnh về nhiều mặt so với các nước đế quốc khác, nhất là Nhật
Bản và Tây Âu.
- Liên Xô – Mĩ muốn thoát khỏi thế đối đầu và có cục diện để vươn lên đối
phó với Đức, Nhật Bản và khối thị trường chúng Châu Âu.
- Hai nước Liên Xô – Mĩ cần hợp tác để góp phần quyết định những vấn đề
bức thiết của toàn cầu.
Do đó năm 1989, Tổng thống Mĩ Goóc-giơ Bus và Bí thư đảng cộng sản Liên
Xô Goóc-ba-chốp có cuộc gặp gỡ tại Man – Ta (Địa Trung Hải), hai bên cùng
bàn và đi đến chấm dứt “chiến tranh lạnh”.
* Xu hướng phát triển của thế giới ngày nay. Thời cơ và thách thức.
+ Hoà hoãn, hoà dịu trong quan hệ quốc tế.
+ Thế giới đang tiến tới xác lập trật tự thế giới đa cực, nhiều trung tâm. Tuy
vậy Mĩ tìm mọi cách duy trì thế một cực nhưng thất bại.
+ Các nước đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển, lấy phát triển kinh tế
làm trọng điểm.
+ Thế giới luôn xảy ra các cuộc xung đột, khủng bố và li khai.
* Xu thế chung: Hoà bình, hợp tác cùng phát triển - đây vừa là thời cơ, vừa là
thách thức đối với tất cả các dân tộc khi bước vào thế kỉ XIX, trong đó có Việt
Nam.
18


Xu thế hợp tác vừa là thời cơ, vừa là thách thức của các dân tộc. Nhiệm vụ của
nước ta hiện nay là gì?
+ Thời cơ: có điều kiện để hội nhập vào nền kinh tế của thế giới và khu vực,
có điều kiện rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, áp dụng thành tựu
khoa học- kĩ thuật vào sản xuất...
+ Thách thức: nếu không chớp thời cơ để phát triển sẽ tụt hậu, hội nhập sẽ hoà
tan, đánh mất bản sắc dân tộc...

+ Nhiệm vụ to lớn nhất của nhân dân ta hiện nay: tập trung sức lực triển khai
lực lượng sản xuất, làm ra nhiều của cải vật chất để chiến thắng đói nghèo và lạc
hậu, đem lại ấm no, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
15. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ 2
* Nguồn gốc
- Do yêu cầu của cuộc sống, của sản xuất.
- Những năm gần đây, nhân loại đang đứng trước những vấn đề to lớn: bùng
nổ dân số, tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường. Điều đó đặt ra những yêu
cầu mới đối với khoa học - kĩ thuật như tìm ra công cụ sản xuất mới có kĩ thuật
cao, nguồn năng lượng mới, những vật liệu mới...
- Dựa trên những thành tựu to lớn về khoa học- kỹ thuật cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX.
* Đặc điểm.
- Khoa học gắn liền với kĩ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kĩ thuật…
Vì vậy, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút
ngắn.
- Hiệu quả kinh tế của công tác nghiên cứu khoa học ngày càng cao. Đầu tư
vào khoa học cho lãi cao hơn so với đầu tư các lĩnh vực khác.
* Thành tựu chủ yếu:
Một là, trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành
tựu hết sức to lớn ở các ngành Toán học, Vật lí, Tin học, Hoá học, Sinh học, Con
người đã ứng dụng vào kỹ thuật và sản xuất để phục vụ cuộc sống: sinh sản vô
tính, khám phá bản đồ gien người...
Hai là, có những phát minh lớn về công cụ sản xuất: máy tính, máy tự động,
hệ thống máy tự động, rôbốt.
Ba là, tìm ra những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú và vô tận: năng
lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ triều, năng lượng gió.
Bốn là, sáng chế ra những vật liệu sản xuất mới, quan trọng nhất là Polime
(chất dẻo) đang giữ vị trí hàng đầu trong đời sống hàng ngày của con người

cũng như trong các ngành công nghiệp.
Năm là, nhờ cuộc “Cách mạng xanh” trong nông nghiệp mà con người đã tìm
ra được phương hướng khắc phục nạn thiếu lương thực và thực phẩm.
Sáu là, có những tiến bộ lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên
lạc: máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hoả tốc độ cao, tàu biển trọng tải hàng triệu
tấn, hệ thống vệ tinh nhân tạo phát sóng truyền hình hết sức hiện đại...

19


Trong gần nửa thế kỉ qua, con người có những bước tiến phi thường, đạt được
những thành tựu kì diệu trong chinh phục vũ trụ: phóng tàu vũ trụ, tàu con thoi
vào khoảng không vũ trụ, đưa con người đặt chân lên Mặt Trăng...
* Ý nghĩa và tác động của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật:
Tích cực:
+ Cách mạng khoa học-kĩ thuật đó mang lại những tiến bộ phi thường, những
thành tựu kỳ diệu làm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người.
+ Cho phép con người thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về năng
xuất lao động.
+ Thay đổi cơ cấu dân cư lao động với xu hướng tỉ lệ dân cư lao động trong
nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỉ lệ dân cư trong các ngành dịch vụ tăng
dần.
+ Đưa loài người sang nền văn minh thứ ba, nền văn minh sau thời kỳ công
nghiệp hoá, lấy vi tính, điện tử, thông tin và khoa sinh hoá làm cơ sở.
+ Làm cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật... ngày càng quốc tế
hóa cao.
Tiêu cực:
+ Chế tạo các loại vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và huỷ
diệt sự sống.
+ Nạn ô nhiễm môi trường: ô nhiễm khí quyển, đại dương, sông hồ...

+ Nhiễm phóng xạ nguyên tử, tai nạn lao động, tai nạn giao thông gắn liền với
kĩ thuật mới, dịch bệnh và tệ nạn xã hội...
PHẦN B: LỊCH SỬ VIỆT NAM
I. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NGUỒN GỐC ĐẾN THẾ KỶ X (LỚP 6).
1. Buổi đầu lịch sử nước ta: Con người xuất hiện vào thời gian nào? Ở đâu? Họ
đã sống và lao động như thế nào?
2. Thời đại dựng nước Văn Lang – Âu Lạc:
Lí do ra đời nhà nước Văn Lang, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn
Lang. Công lao to lớn của vua Hùng Vương trong buổi đầu dựng nước được Bác
Hồ hằng căn dặn :
Các Vua Hùng có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
Nước Âu Lạc ra đời trong hoàn cảnh nào? Bài học mất nước đầu tiên của An
Dương Vương để lại thật là thấm thía:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần sơ ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.

20


Văn minh Văn Lang-Âu Lạc để lại cho chúng ta: Tổ quốc, thuật luyện kim,
nông nghiệp lúa nước, phong tục tập quán riêng và bài học đầu tiên về công
cuộc giữ nước.
Cho học sinh vẽ và giải thích được sơ đồ nhà nước Văn Lang - Âu Lạc.
3. Thời kì bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập:
Xuất hiện hai vị nữ anh hùng dân tộc đã ghi vào lịch sử như một mốc son chói
lọi đó là Trưng Trắc, Trưng Nhị hai chị em con nhà lạc tướng huyện Mê Linh.
Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, căm thù chính sách đồng hoá dân tộc và

cống nộp của nhà Đông Hán. Nợ nước, thù nhà đè nặng lên đôi vai người phụ nữ
,Trưng Trắc đã quyết tâm đi đánh giặc với lời thề son sắt, sau này được sách
“Thiên Nam Ngữ Lục” chép thành bốn câu thơ:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.
4. Khởi nghĩa hai bà Trưng bùng nổ tháng ba năm bốn mươi tại cửa Hát( Hát
Môn, Hà Tây ) đã đi vào lịch sử như một chiến công hiển hách chống giặc ngoại
xâm. Nâng cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử chống giặc ngoại xâm: Phất cờ khởi nghĩa
là phụ nữ, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là phụ nữ và dựng nước xưng vương cũng
lại là phụ nữ chưa có một dân tộc nào, một quốc gia nào lại có được niềm vinh
quang như vậy.
5. Hơn hai trăm năm sau xuất hiện cuộc khởi nghĩa bà Triệu Thị Trinh (248):Tôi
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi đánh
đuổi quân Ngô chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người.
6. Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa của Lí Bí năm 542 đánh đuổi quân Lương và lập
ra đất nước có quốc hiệu là Vạn Xuân. Để lại bài học đánh giặc bằng lối du kích
của Triệu Quang Phục: Đầm Dạ Trạch lừng danh nơi hiểm yếu.
Kế tục là cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng.
7. Bước ngoặt lịch sử ở đầu thế kỉ X :
Đó là cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương. Đặc biệt là:
Ngô Quyền Bạch Đằng Giang bất tử
Thành mồ chôn quân Nam Hán hung tàn.
Cho đến nay sông Bạch Đằng còn đó, nước sông vẫn chảy hoài mà nhục quân
thù không rửa hết. Bởi nghệ thuật quân sự có tính toán kỹ lưỡng dùng cọc nhọn
bịt sắt cắm xuống lòng sông, hai bên bờ cho quân mai phục và lợi dụng nước
thuỷ triều để đánh giặc. Một chiến thắng lẫy lừng kết thúc hơn một nghìn năm
Bắc thuộc, mở ra kỉ nguyên nhà nước phong kiến Việt Nam ra đời.

21


II. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX ( LỚP
7).
Là quá trình hình thành và phát triển của các triều đại phong kiến bằng những
hình thái chính trị , kinh tế , xã hội khác nhau gắn với các cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm mà tương quan lực lượng quá chênh lệch giữa ta và địch :
Thế trận xuất kì lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều.
Song với nghệ thuật quân sự tài tình , với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần
đấu tranh kiên cường bất khuất quân và dân ta đã làm nên những chiến thắng vẻ
vang .
Nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành và phát triển theo các triều
đại sau:
1. Triều đại nhà Ngô (939 - 968 ) mở đầu cho nhà nước phong kiến Việt Nam
của dân tộc ta. Ngô Quyền xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Triều đình gồm ban
văn và ban võ. Phong chức tước cho người có công, cử tướng giỏi trông coi các
Châu quan trọng. Ngô Quyền mất (944) hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô
Xương Văn còn nhỏ tuổi bị em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi. Năm 950 Ngô
Xương Văn phục quốc song do mâu thuẫn nội bộ, uy tín nhà Ngô giảm sút. Năm
965 Ngô Xương Văn chết, đất nước xẩy ra loạn 12 sứ quân.
2. Triều đại nhà Đinh (968 - 980 ) tên nước là Đại Cồ Việt , kinh đô Hoa Lư .
Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng đã có công dẹp loạn 12 sứ quân và thống
nhất đất nước song đất nước thái bình chưa được bao lâu, năm 979 Đinh Tiên
Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại, nhân cơ hội đó nhà Tống
lăm le xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt. Trước tình thế hiểm nghèo, thái hậu
Dương Vân Nga đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích gia đình, dòng họ đã trao
chiếc áo hoàng bào cho thập đạo tướng quân Lê Hoàn mở ra một triều đại mới
chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước.

3. Triều đại nhà Tiền Lê (980 - 1009 ) tên nước cũng là Đại Cồ Việt đã chiến
thắng quân xâm lược Tống giành thắng lợi ở sông Bạch Đằng . Nhà Tiền Lê chia
nước thành 10 lộ, thịnh hành ở thời vua Lê Đại Hành và suy vong thời vua Lê
Long Đĩnh tức Lê Ngọa Triều. cuối năm 1009 Lê Long Đĩnh chết, các triều thần
lúc đó cùng nhau suy tôn điện tiền chỉ huy sứ Lí Công Uẩn lên làm vua, triều Lý
thành lập.
4. Triều đại nhà Lý (1009 -1226 ) Lí Thái Tổ đã có công dời đô từ Hoa Lư về
Đại La đổi tên là Thăng Long (1010). Năm 1054 đổi tên nước là nước Đại Việt,
chia nước thành 24 lộ, dưới lộ là phủ, châu, huyện xã. Về văn bản pháp lí: Nhà
Lí có bộ luật Hình thư (1042). Về quân đội thực hiện chính sách “ngụ binh ư
nông”. Nhà Lí hai lần đánh thắng quân xâm lược Tống: lần thứ nhất (1075 ) , lần
thứ hai (1077 ). Cách đánh giặc của Lí Thường Kiệt rất độc đáo : Một là tấn
công để tự vệ đó là mở cuộc tập kích vào đất Tống nhằm mục đích làm tiêu hao
sinh lực địch trước khi địch đem quân xâm chiếm nước ta. Phòng thủ để tấn
22


công: Xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt, một địa điểm cách xa biên giới
nhưng gần Thăng Long , khiến cho quân Tống khi tiến vào nước ta bị phòng
tuyến Như Nguyệt chặn lại, chúng rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan , khiến
cho tướng giặc Quách Quỳ thất vọng, ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém” chuyển
sang thế phòng ngự. Hơn 40 ngày bị cầm chân, quân tiếp viện không đến, lương
thực cạn dần, binh lính bị ốm đau, chết dần, chết mòn. Nắm được tình hình bế
tắc của địch, Lí Thường Kiệt đã sáng tác bài thơ thần “ Sông núi nước Nam”
được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta, nhằm giảm nhuệ
khí quân giặc, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân ta và khẳng định chủ quyền
dân tộc. Mặt khác nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc, chủ động đề nghị
giảng hòa, Quách Qùy chấp nhận ngay. Đây là kiểu kết thúc chiến tranh độc đáo,
thể hiện tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta, muốn mở đường hiếu sinh cho
người thất thế, mục đích để giữ mối quan hệ tốt giữa Đại Việt và nước Tống. Vị

vua cuối cùng của triều Lí là Lí Chiêu Hoàng.
5. Triều đại nhà Trần (1226 -1400), tên nước cũng là Đại Việt đã ba lần đánh tan
quân xâm lược Mông Nguyên , một thứ giặc được coi là hùng mạnh nhất lúc bấy
giờ. Bằng chiến thuật “vườn không nhà trống”, rút lui để bảo toàn lực lượng, khi
giặc rơi vào tình thế khó khăn lương thực cạn kiệt, vì thời tiết và lạ phong thổ
quân lính ốm đau, mệt mỏi chán nản, quân ta đã tổ chức phản công và giành
thắng lợi vẻ vang( lần1: 1258, lần 2: 1285, lần 3:1287-1288). thắng lợi của ba
lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên đã đập tan tham vọng và ý chí xâm
lược Đại Việt của đế chế Nguyên, bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ của chủ
quyền quốc gia . Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự Việt Nam để lại
nhiều bài học quý giá đó là cũng cố khối đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để đánh
giặc, tinh thần quyết chiến đấu của toàn dân mà nòng cốt là lực lượng quân đội.
Chiến thắng chống quân Mông Nguyên gắn liền với nhà quân sự tài ba, lỗi lạc là
Trần Quốc Tuấn. Nhà Trần chia nước thành 12 lộ. Đặt ba chức quan chăm lo sản
xuất nông nghiệp: Hà đê sứ, khuyến nông sứ, đồn điền sứ nên kinh tế thời Trần
phát triển; ban hành bộ quốc triều hình luật (1230); văn học chữ Hán, chữ Nôm
phát triển chứa đựng lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc .
6. Triều đại nhà Hồ (1400 -1407),tên nước là Đại Ngu. Sau khi cướp ngôi nhà
Trần, Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ. Ban hành một số cải cách chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội song chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa giải quyết được những
yêu cầu bức thiết của nhân dân nên nhanh chóng bị thất bại .
7. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh của nghĩa quân Lam Sơn do Lê
Lợi lãnh đạo mở đầu bằng hội thề Lũng Nhai(1416) và kết thúc bằng hội thề
Đông Quan (1427) .
Nghệ thuật quân sự dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều cũng được Lê Lợi sử
dụng triệt để: Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh khi Vương Thông xuất
quân hướng về Cao Bộ (Chương Mĩ- Hà Tây) ngày 7-11-1426, biết được ý đồ
của giặc ta đặt phục binh ở Tốt Động- Chúc Động giặc rơi vào trận địa, bị đánh
bất ngờ làm 5 vạn quân giặc bị tử thương một vạn địch bị bắt sống, Vương
23



Thông bị thương tháo chạy về Đông Quan,Thượng Thư bộ binh Trần Hiệp cùng
các tướng giặc Lí Lượng, Lí Đằng bị giết tại trận .
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”.
(Trích Bình Ngô đại cáo )
Đặc biệt là trận Chi Lăng – Xương Giang ngày 8-10-1427 quân viện binh do
Liễu Thăng chỉ huy tiến vào nước ta, bị mai phục ở ải Chi Lăng. Quân ta vừa
đánh vừa lui, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo lọt vào trận địa mai phục lập tức
bị quân ta phóng lao đâm chết, quân Minh hốt hoảng rối loạn, thừa cơ quân ta
diệt hơn một vạn địch. Sau khi Liễu Thăng bị giết Lương Minh lên thay cố chấn
chỉnh đội ngũ tiến xuống Xương Giang (Bắc Giang) bị quân ta phục kích ở Cần
Trạm, Phố Cát tiêu diệt ba vạn tên, Tổng binh Lương Minh bị giết tại trận,
Thựơng Thư bộ binh Lí Khánh phải thắt cổ tự tử. Thừa thắng quân ta diệt gần 5
vạn tên địch, số còn lại bị bắt sống. Vương Thông ở Đông Quan vô cùng khiếp
đảm, vội vàng xin hòa và chấp nhận hội thề Đông Quan(10-12-1427) để được an
toàn rút quân về nước. Chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang một lần nữa chứng
tỏ bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đứng đầu Lê Lợi và Nguyễn Trải đã biết khai
thác yếu tố địa hình, địa vật nước ta để tìm ra một cách đánh phù hợp với tương
quan lực lượng chênh lệch giữa ta và địch một cách hiệu quả.
Chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang đã mở ra triều đại mới đó là thời Lê Sơ (
1428 – 1527 ) là triều đại phong kiến thịnh đạt nhất cả về chính trị, kinh tế lẫn
văn hóa , giáo dục. Có bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Nguyễn Trãi là
bài : “ Bình Ngô Đại Cáo”.
8. Bộ máy nhà nước thời Lê Sơ là nhà nước quân chủ quan liêu chuyên chế. Hệ
thống thanh tra giám sát hoạt động của quan lại được tăng cường từ trung ương
đến cấp xã. Các đơn vị hành chính được tổ chức chặt chẽ hơn đặc biệt là cấp
thừa tuyên và cấp xã. Cách đào tạo bổ dụng quan lại lấy phương thức học tập thi
cử làm phương thức chủ yếu, là nguyên tắc để tuyển dụng quan lại (tức là phải

có học, thi đỗ, có bằng cấp thì mới được nhà nước bổ dụng làm quan).
Về kinh tế thời Lê Sơ cũng phát triển mạnh mẽ, chú trọng kinh tế nông nghiệp,
đặt ba chức quan chăm lo sản xuất nông nghiệp (hà đê sứ, khuyến nông sứ, đồn
điền sứ). Điều 25 vạn lính về quê chăm lo sản xuất nông nghiệp, định lại chính
sách ruộng công làng xã . Cấm điều động dân binh trong mùa cấy gặt. Các nghề
thủ công truyền thống phát triển, nhiều làng thủ công truyền thống ra đời .
Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất .
Về buôn bán: Nhà vua khuyến khích mở chợ, họp chợ. Buôn bán với nước
ngoài cũng được duy trì (Vân Đồn - Quảng Ninh).
Về văn hóa giáo dục thời Lê Sơ cũng rất phát triển vua Lê Thái Tổ cho xây
dựng lại Quốc tử giám, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người
có học đều được dự thi. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm
thầy giáo. Thời Lê Sơ tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ và 20
24


trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa
thi tiên sĩ, lấy đổ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
9. Giai đoạn bi đát nhất của lịch sử là cuộc chiến tranh Nam Triều - Bắc Triều
(1527-1592) và chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 -1672) làm tổn thương tình
đoàn kết dân tộc. Đất nước bị chia cắt, nhân dân cực khổ .
Khôn ngoan qua được Thanh Hà
Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy
10. Phong trào Tây Sơn bùng nổ, nhân vật lịch sử nổi tiếng đó là Quang Trung
(Nguyễn Huệ) người anh hùng áo vải, vị lãnh tụ nông dân kiệt xuất đã lật đổ các
tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, Lê, xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt
nền tảng thống nhất quốc gia đồng thời đánh tan quân Xiêm (1785), quân Thanh
(1789) bảo vệ độc lập và lãnh thổ của tổ quốc. Sau đó bắt tay vào khôi phục
kinh tế, ban hành chiếu khuyến nông, mở cửa ải thông thương chợ búa. Xây
dựng nền văn hóa dân tộc, ban bố chiếu lập học. Đề cao chữ Nôm, lập viện sùng

chính dịch chữ Hán sang chữ Nôm do Nguyễn Thiếp đứng đầu và thực hiện
những chính sách quốc phòng, ngoại giao.
Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ cũng thật là độc đáo. Biết lợi dụng yếu
tố thiên thời địa lợi để đặt phục kích ở khúc sông Rạch Gầm -Xoài Mút tỉnh Tiền
Giang dài 6km, rộng 1 đến 2 km ở giữa có cù lao Thái Sơn, hai bên bờ cây cối
rậm rạp. Địa hình thuận lợi để đặt phục kích, khi giặc lọt vào trận địa mai phục.
Nguyễn Huệ ra lệnh phản công, quân giặc bị tiêu diệt gọn. Chiến thắng Rạch
Gầm- Xoài Mút ngày 19-1-1785 là một trong những trận mai phục thủy chiến
lớn nhất của nhân dân ta, đập tan âm mưu xâm lược của quân Xiêm. Làm cho
quân Xiêm “ngoài miệng tuy nói khoác, nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn
như cọp”(Đại Nam thực lục) .
Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh thần tốc, bất ngờ táo bạo, tổ chức chiến đấu
hết sức cơ động. Đó cũng là nét độc đáo trong cách đánh giặc của Quang Trung.
Ông đã cho quân ăn tết trước và bất ngờ tiêu diệt 29 vạn quân Thanh trong dịp
tết Kỉ Dậu năm 1789 từ đêm 30 tết đến ngày mồng 5 tết. Giải phóng Thăng
Long đồn lũy kiên cố bị san bằng “ Thây ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành
suối quân Thanh đại bại ”(Hoàng Lê Nhất Thống Chí) .
Quang Trung mất(1792). Quang Toản nối ngôi nhưng không đủ năng lực và
uy tín điều hành công việc của quốc gia. Nội bộ triều Tây Sơn nảy sinh mâu
thuẫn và suy yếu. Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tập quyền - Nguyễn
Ánh (1802), ban hành bộ hoàng triều luật lệ (1815) tức bộ luật Gia Long. Triều
Nguyễn tồn tại đến năm 1945(vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến là Bảo
Đại).
III. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1918 (LỚP 8).
1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1858-1884
- Do nhu cầu tìm kiếm thị trường thuộc địa, từ giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư
bản phương Tây phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh việc xâm chiếm các nước
phương Đông.
25



×