Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG dạy học môn tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH ở cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.73 KB, 73 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở CẦN THƠ

1


- Nguyên tắc của việc sử dụng PPTLN trong dạy học môn
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Để việc vận dụng PPTLN trong dạy học môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh mang lại hiệu quả cao cần tuân thủ những
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu môn học
Môn Tư tưởng Hồ Chí Minhlà môn học nằm trong
chương trình đào tọa bậc Đại học, Cao đẳng. Môn Tư tưởng
Hồ Chí Minhtrang bị cho người học những tri thức về việc
“nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác,
bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản
lĩnh chính trị”[02;112].
Mỗi môn học có những chức năng, nhiệm vụ, nội dung
khác nhau để cung cấp tri thức đến người học và mục tiêu dạy
học cũng có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên, tất cả đều dựa
trên cơ sở mục tiêu chung của giáo dục là kiến thức, kỹ năng,
thái độ bài học, môn học. Mục tiêu dạy học đều phải đảm bảo
cả 3 nội dung này. Bất cứ môn học nào đó là cơ sở để lựa

2


chọn nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức dạy học để
mang lại hiệu quả cao nhất.


Mục tiêu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minhsau khi
học sinh viên có thể khái quát:
- Về kiến thức: giúp sinh viên hiểu được các khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật, phạm trù, đối tượng, nhiệm
vụ của môn học, mối quan hệ của môn học này với môn học
khác, ý nghĩa khi học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục
tiêu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là giúp cho sinh viên
nắm được nội dung cơ bản của môn học, về quá trình hình
thành và tư tưởng nhận thức của Đảng về Bác. “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, thể hiện
trong đường lối, quan điểm, chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước”[12;25]. Qua đó, củng cố lòng tin vào
con đường cách mạng, nâng cao lòng tự hào dân tộc về Đảng,
về Bác và có ý thức trách nhiệm với bản thân trong học tập
với Tổ quốc.
- Về kỹ năng: Sinh viên có thể hiểu được các khái niệm,
phân tích tổng hợp, sử dụng kiến thức của bài học để nhận
3


thức đúng đắn hơn về những vấn đề có liên quan đến chuyên
ngành, với các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn. Biết vận
dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Bước đầu giúp
sinh viên hình thành được nhân sinh quan, thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng một cách linh hoạt phù hợp từng hoàn
cảnh cụ thể, rèn luyện trở thành người công dân có đử đức và
tài và có cách nhìn đúng đắn về các vấn đề xã hội, tỉnh táo
trước các luận điệu xuyên tạc, lôi kéo, xúi giục diễn biến hòa

bình chống phá nhà nước.
- Về thái độ: Sau khi học xong môn này sinh viên xây
dựng được niềm tin vào tính đúng đắn của môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng. Hình thành niềm tin vững chắc vào sự
nghiệp cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đề cao tinh
thần yêu học tập, yêu lao động, biết trân trọng và giữ gìn
thành quả cách mạng. Sinh viên biết phấn rèn luyện tác phong
công nghiệp, đấu góp sức mình vào công cuộc xây dựng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng đất nước.

4


Như vậy, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh cung cấp cho
sinh viên hệ thống tri thức về vai trò, vị trí của môn tư tưởng
Hồ Chí Minh, đối với đời sống cách mạng Việt Nam. Bồi
dưỡng lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Giảng viên cần
tuân thủ những nguyên tắc, kỹ thuật để vận dụng linh hoạt
phù hợp từng đối tượng người học sẽ mang lại hiệu quả cao.
- Nguyên tắc đảm bảo phát huy năng lực hợp tác của sinh
viên
Nguyên tắc này nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
tự giác học tập của người học là một quy luật khách quan của
quá trình dạy học. Như nhận thức của Mác - Lênin đã khẳng
định: Nhận thức khoa học là một quá trình tích cực, do đó
việc phản ánh nhận thức, truyền thụ tri thức và việc học tập
cũng phải diễn ra một cách tích cực và tự giác. Người học xác

định đích hướng rõ ràng, chủ động trong việc tiếp thu nguồn
tri thức để nắm vững và vận dụng vào thực tiễn.
Việc sinh viên có hợp tác, tự giác trong học tập hay
không nó phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực của phương
pháp giảng dạy của giảng viên. Để đảm bảo nguyên tắc này
5


giảng viên cần chủ động vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực thích hợp theo phương châm lấy người học làm trung
tâm, xác định rõ mục tiêu của môn học, thiết kế hoạt động học
tập trong mỗi tiết học, phần hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hoạt
động tự học của sinh viên. Trong quá trình học tập sinh viên
không chỉ học một mình với giảng viên, mà sinh viên đang ở
trong một tập thể lớp học, nên cần phải xây dựng và phát huy
được tinh thần hợp tác với giảng viên, sinh viên với sinh viên
để tìm tòi và lĩnh hội nội dung bài học. Lớp học là một xã hội
thu nhỏ để sau khi ra trường sinh viên đã trải nghiệm với việc
học tập và làm việc theo nhóm, theo tập thể, xây dựng được
tinh thần hợp tác, đoàn kết trong học tập sẽ giúp sinh viên nắm
bắt được tri thức môn học và biết thống nhất giữa cá nhân và
tập thể.
Trong môn học tư tưởng Hồ Chí Minh nguyên tắc này có
ý nghĩa rất quan trọng, vì môn học này là kết quả khái quát,
tổng kết với trình độ tư duy cao về nhận thức và hoạt động
thực tiễn, gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây
dựng đất nước đòi hỏi sinh viên phải tích cực trong suy nghĩ
và hành động. Giảng viên phải là một nhà tâm lý xây dựng
6



niềm tin, hứng thú trong học tập cho sinh viên. Tránh làm cho
sinh viên chán nản, sợ hãi môn học, vì vậy sinh viên cần được
động viên, tìm tòi để lĩnh hội nội dung môn học. Giảng viên
cần có thái độ khen, chê kịp thời để động viên, khích lệ người
học. Từ việc kế thừa các phương pháp dạy học truyền thống,
giảng viên cũng cần mạnh dạn loại bỏ, khắc phục cách dạy
“thầy nói, trò nghe”, sẽ làm hạn chế sự phát triển, sáng tạo
người học. Từ những nguyên tắc phát huy tính tích cực, hợp
tác của sinh viên, cần hướng dẫn, tạo điều kiện cho sinh viên
tự học, tự nghiên cứu,…nhằm lĩnh hội tri thức môn học một
cách tự nhiên và hiệu quả nhất.
- Nguyên tắc đảm bảo vai trò chủ đạo của người dạy và chủ
động của người học
Người học chủ động là tích cực, sáng tạo, độc lập suy nghĩ
khám phá tri thức mới dưới sự hướng dẫn của giảng viên, tạo
nên sự cộng hưởng của hai phía.
Trong chương trình đào tạo giảng viên luôn khuyến
khích sinh viên tự học, tự nghiên cứu. “Về bản chất tự học, tự
nghiên cứu là một quá trình học tập, một quá trình nhận thức
không có người trực tiếp hướng dẫn cho nên quá trình này đòi
7


hỏi sự lao động vất vả hơn”[8;140]. Nâng cao thành tích, hoạt
động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp thu tri thức
mới.
Giúp sinh viên có thói quen độc lập suy nghĩ, giải quyết
vấn đề khó khăn trong việc học, trong nghề nghiệp và trong

cuộc sống.
Sinh viên biết dùng lí luận để phản biện, biết cách tổ
chức, phân tích nghiên cứu, giải quyết các vấn đề một cách
loogic khoa học.
Rèn cho người học luôn có kế hoạch, mục đích rõ ràng
cho bất kỳ việc gì trong cuộc sống. Hiểu được tầm quan trọng
của tính trung thực, khách quan, tác phong công nghiệp.
Giảng viên chủ đạo trong việc hợp tác với sinh viên để
giúp sinh tự khám phá ra tri thức. Tạo điều kiện để giảng viên
nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng bài giảng.
Giảng viên luôn là người chủ động trong nghiên cứu,
tìm tòi cách để sinh viên của mình dễ hiểu nhất, yêu môn học
và vận dụng các phương người thầy phải luôn là người có

8


kiến thức sâu, rộng, có tâm thế vững vàng, có tư duy lôgic
chặt chẽ… về nhiều lĩnh vực.
Song song đó, giảng viên xây dựng hệ thống câu hỏi và
cập nhật những thông tin xã hội, những tình huống thực tế để
làm cho bài giảng thêm sống động gần gũi với sinh viên. Biết
cách khơi gợi sự ham học hỏi của người học. Trong giảng dạy
luôn tạo không khí cởi mở, dân chủ trong thảo luận, tranh
luận, và giải quyết vấn đề nhiệm vụ học tập, không áp đặt
người học.
Giảng viên phải sử dụng nhuần nhuyễn kỹ năng giảng
dạy phương pháp trong các bài giảng, sử dụng nhuần nhuyễn
các phương tiện giảng dạy. Trong đó giảng viên chú trọng xây
dựng kết cấu bài giảng theo hướng gợi mở và khai thác tối đa

sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại.
Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học ý thức
đầy đủ mục đích, nhiệm vụ của việc học tập mà qua đó nỗ lực
nắm vững tri thức xác định đúng động cơ học tập. Sinh viên
hiểu được mục tiêu học tập của môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh, có hứng thú với môn học, có ý chí đào sâu kiến thức,
tìm hiểu nội dung học tập chứ không phải ghi nhớ một cách
9


máy móc. Giảng viên chủ động khơi gợi động cơ học tập của
sinh viên, không chỉ hứng thú với môn học mà phải có ý chí
học tập suốt đời và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Sinh
viên được rèn luyện trở thành những công dân tốt có ích cho
xã hội.
Tính tích cực nhận thức của người học thể hiện ở thái độ
của sinh viên huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý
nhằm giải quyết vấn đề học tập, nó là điều kiện để đạt được
mục đích, là phương tiện để đạt được kết quả. Hay nói cách
khác đó là năng lực, là trách nhiệm của cá nhân huy động để
giải quyết nhiệm vụ của nhóm.
Sinh viên phát huy năng lực tổ chức học tập, tự phát
hiện ra vấn đề, tự kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập của
mình.
Giảng viên sử dụng PPTLN trong dạy học môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, giảng viên cần khuyến khích, động viên
và tạo điều kiện để sinh viên mạnh dạn trình bày ý kiến, ý
tưởng và những thắc mắc của mình, đề cao tinh thần hoài nghi
khoa học, óc phê phán, có tác phong độc lập suy nghĩ, chống
lối học vẹt, đối phó trong học tập.

10


Để mang lại hiệu quả cao trong dạy và học, thì cần có sự
phối hợp nhuần nhuyễn giữa thầy và trò, trong đó người dạy
giữ vai trò chủ đạo, người học giữ vai trò chủ động để quá
tình dạy học được diễn ra nhịp nhàn.
Nguyên tắc này hỗ trợ lẫn nhau, nếu học mà không cần
thầy thì sẽ đi vào đường vòng không hiệu quả. Dạy và học là
hoạt động song hành, dạy học của giảng viên là chủ đạo và
việc học của sinh viên là chủ động. Điểm then chốt của đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục nước ta, quyết định sự
thành bại của công cuộc đổi mới này là chương trình giáo dục
phải lấy người học làm gốc, lấy sự học là điểm xuất phát của
mọi quyết định.
Giảng viên chủ động kết hợp các phương pháp dạy học
đa dạng, đưa ra các vấn đề mới mẻ, đặt sinh viên vào các tình
huống có vấn đề của môn học nhưng trong khả năng sinh viên
có thể giải quyết được, bằng sự ham hiểu biết và tính tò mò
của sinh viên, để sinh viên chủ động học tập. Cho sinh viên tự
tìm tòi trả lời các câu hỏi, giải quyết vấn đề mà giảng viên
đưa ra để sinh viên tiếp cận nội dung bài học.

11


Tính chủ động học tập của sinh viên thể hiện ở sự tập
trung chú ý bài, khắc phục khó khăn, tăng cường suy nghĩ để
giải quyết vấn đề giảng viên đưa ra. Sinh viên luôn chủ động
suy nghĩ tiếp thu kiến thức môn học một cách động não không

phải thụ động tiếp thu nội dung mà giảng viên truyền đạt.
Sinh viên phải đọc tài liệu, giáo trình trước khi lên lớp,
tổng hợp các vấn đề cần lưu ý để vào tiết học có thể chủ động
trao đổi cùng giảng viên, tham gia ý kiến xây dựng bài, trao
đổi trong nhóm thảo luận.
Như vậy, để đảm bảo nguyên tắc này thì phương pháp
dạy học tích cực có vai trò quan trọng trong dạy học, người
học sẽ hứng thú tự giác trong việc tìm tòi nội dung bài học.
- Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Theo Triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ hoạt
động vật chất có tính mục đích, mang tính lịch sử – xã hội
con người nhằm cải tạo giới tự nhiên – xã hội”[6;142].
Lý luận chính là kinh nghiệm thực tiễn được khái quát
tổng thể thành một hệ thống bao gồm các khái niệm phạm trù

12


nhất định các tri thức về tự nhiên xã hội đã được tích lũy
trong quá trình lịch sử.
V.I.Lênin cho rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó
có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính
hiện thực trực tiếp” [5;221].
Thông qua hoạt động thực tiễn, những lý luận của chân
lý sẽ được nhận thức lại, vì vậy giá trị của lý luận phải được
chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Trong dạy học tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
từng khẳng định “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắt căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin … lý luận mà
không liên hệ với thực tế là lý luận suông”[5;127]. “Nói đi đôi

với làm” hay “Lý luận gắn liền với thực tiễn” là nguyên tắc cơ
bản và tổng quát được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng
tạo từ lý luận gắn liền với thực tiễn của Chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn. Người nói: “Lý luận cốt để áp dụng vào
công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc
thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn
quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào
một cái hòm đựng sách”[19;68]. Chúng ta đi phân tích nguồn
13


gốc, con đường hình thành từ “Lý luận và thực tiễn” đến “Nói
đi đôi với làm”.
Bản chất của dạy học là giúp sinh viên tiếp cận và vận
dụng tri thức đó thành tri thức của người học để vận dụng vào
cuộc sống và lao động. Từ những kiến thức được đào tạo trên
ghế nhà trường, người học đem nó vào cuộc sống một cách
linh hoạt hiệu quả.
Nếu giảng viên chỉ dừng lại ở những “luận điểm khoa
học chung, không gắn với thực tiễn cuộc sống dễ đi đến chủ
nghĩa duy lý, giáo điều, không thể tạo ra ở người học niềm tin
vào sự đúng đắn của những luận điểm đó, bài giảng không
thuyết phục, nếu gắn thực tiễn với lý luận sẽ làm cho các
nguyên lý, quy luật trừu tượng trở nên gần gũi, dễ
hiểu”[30;155].
Khi sinh viên học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trên sách
vở, lý thuyết, đã nắm vững được lý thuyết thì các em phải
biết thực hành, vận dụng vào cuộc sống hiện tại và tương lai.
Thực tiễn là mục đích cũng là phương pháp học tập mà giáo
dục ngày nay hướng đến. Trong quá trình sử dụng PPTLN vào

dạy học phải đảm bảo thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
14


những kiến thức quan trọng phải được vận dụng vào thực tiễn
cuộc sống. Trong quá trình dạy học và vận dụng các biện
pháp vào giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng viên
cần phải vận dụng một cách linh hoạt và phù hợp điều kiện,
hoàn cảnh của từng lớp, đối tượng sinh viên, nội dung giảng
dạy phải có liên hệ thực tiễn với xã hội, đất nước, sinh viên có
thể vận dụng được một cách linh hoạt. Tri thức đó có thể vận
dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân. Vì
vậy, đảm bảo tính thực tiễn quyết định chất lượng dạy và học
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên tắc này quyết định
phần lớn mục tiêu giáo dục đề ra.
Như vậy, nguyên tắc dạy học đảm bảo tính thực tiễn
chính là dạy học phải chú ý đến “đặc điểm thực tiễn” của việc
dạy học cũng như “năng lực hoạt động thực tiễn” của người
học. Trong môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nguyên tắc này thể
hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu đối tượng dạy học và
điều kiện dạy học để xác định các yếu tố (mục tiêu dạy học,
nội dung dạy học, phương pháp dạy học, cách thức tố chức
giảng dạy và kiểm tra – đánh giá) cho phù hợp.
15


Xác định đối tượng dạy học ở đây là sinh viên năm hai
của trình độ cao đẳng, các em đều có nhận thức – tâm lý cụ
thể rõ ràng về việc học tập của bản thân. Môn Tư tưởng Hồ

Chí Minh là môn học có nội dung gắn bó gần gũi với cuộc
sống hàng ngày. Do vậy, giảng viên cần căn cứ vào trong từng
bài học, từng chương để xác định mục tiêu bài giảng được cụ
thể, rõ ràng (kiến thức, kỹ năng, thái độ) cho phù hợp với nhu
cầu của người học. Bên cạnh đó, căn cứ vào thực tiễn của
trường cao đẳng Cần Thơ có điều kiện thuận lợi như giáo
trình, sách tham khảo đầy đủ, trang thiết bị, phương tiện dạy
học được trang bị khá tiện nghi cho việc học tập của sinh
viên. Đây là điều kiện thuận lợi cho sinh viên trong quá trình
học tập.
Thứ hai, khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để
dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên cần xác
định giá trị thực tiễn của các nội dung giảng dạy.
Giảng viên cần xác định làm sao để tri thức khoa học
sinh viên lĩnh hội một cách nhanh nhất và có thể vận dụng
vào cuộc sống hiện tại cũng như nghề nghiệp tương lai của
các em. Trong quá trình dạy học giảng viên cần làm sáng tỏ
các vấn đề có ý nghĩa thực tiễn như thế nào. Với phương pháp
16


dạy học thảo luận nhóm khuyến khích cho các em chủ động,
mạnh dạn đưa ra suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề có thể bắt
gặp trong đời sống thực tế. Giảng viên nên chọn lọc những
bài tập, tình huống cụ thể để minh họa, những chủ đề thiết
thực gần gũi với cuộc sống để các em thảo luận, tranh luận và
đưa ra phương án giải quyết. Chắc chắn sinh viên sẽ thấy rất
hứng thú vì được tranh luận, được trình bày quan điểm và
thấy được giá trị thực tiễn của môn học.
Như khi cho sinh viên thảo luận nhóm về giá trị tư tưởng

Hồ Chí Minh, giảng viên có thể thông qua những câu chuyện
kể về Hồ Chí Minh, những sự kiện trên sách, báo, tập chí,
kênh Tivi,…
Do nội dung thực tiễn đa dạng, phong phú nên khi giảng
dạy giảng viên cần vận dụng phù hợp PPTLN với các phương
pháp dạy học khác, kết hợp các kỹ thuật dạy học một cách
linh hoạt phù hợp nhằm làm rõ tính thực tiễn của môn học,
bên canh đó giảng viên cần kiểm chứng thông tin trước khi
đưa ra giảng dạy cho sinh viên.
Thứ ba, tính thực tiễn trong dạy học còn giúp giảng viên
chủ động trong việc giao nhiệm vụ cho sinh viên một cách cụ
17


thể rõ ràng, nhằm làm tăng tính chủ động, tích cực trong học
tập của sinh viên.
Thứ tư, đảm bảo tính khoa học, cập nhật thực tiễn xã
hội đòi hỏi người giảng viên xây dựng nội dung bài giảng một
cách khoa học, lôgic, chủ đề thảo luận vừa mang tính thực
tiễn vừa mang tính khoa học của nội dung bài học. Bên cạnh
đó, giúp sinh viên giải quyết các vấn đề của thực tiễn xã hội,
tính chân thực của thời đại đang diễn ra, đảm bảo không có sự
chênh lệch giữa nội dung lý luận với thực tiễn cuộc sống.
Tóm lại, các yêu cầu đảm bảo tính thực tiễn khi giảng
dạy giảng viên cần tuân thủ nguyên tắc này, sinh viên vận
dụng vào thực tiễn và nghề nghiệp sau này, tránh tình trạng lý
thuyết gập khuôn và xa rời thực tế.
- Biện pháp sử dụng PPTLN trong dạy học môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh ở trường Cao đẳng Cần Thơ
- Nhóm biện pháp chuẩn bị bài giảng sử dụng phương pháp

thảo luận nhóm dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên vận dụng phương pháp TLN vào dạy học,
cần có sự đầu tư về chuyên môn, chuẩn bị kỹ ở từng khâu
18


một, đầu tư thời gian, công sứcphù hợp với từng đối tượng
người học và đem lại kết quả cao nhất.
Thiết kế bài giảng chính là công việc soạn giáo án – bản
thiết kế cho tiến trình một tiết học, bài giảng này sẽ thực hiện
“ý đồ” của giảng viên đem đến nguồn tri thức cho sinh viên.
Người giảng viên dạy giỏi hay dở sẽ được thể hiện qua tiết
dạy.
Thiết kế bài giảng là khâu rất quan trọng trong quá trình
dạy học. Trước khi thiết kế bài giảng, giảng viên nên lựa chọn
những kiến thức cơ bản, phương tiện và phương pháp dạy học
phù hợp, thiết kế các trình tự, các hoạt động dạy học theo
trình tự lôgic của bài giảng.
...........Trong quá trình thiết kế bài giảng môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh, giảng viên cần phải dự kiến các tình huống sư phạm
xảy ra trong quá trình giảng dạy để có cách giải quyết tình
huống phù hợp.
Trước đây, giảng viên soạn bài giảng chủ yếu vạch ra
các nội dung chính của bài với các hoạt động dự kiến diễn ra
của giảng viên và sinh viên. Chẳng hạn như giảng viên sử
dụng phương pháp dạy học thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn
19


đề, diễn giảng… tương ứng với hoạt động của giảng viên là

sinh viên lắng nghe, trả lời, ghi chép,…
Tuy nhiên, hiện nay đối với soạn bài giảng với việc sử
dụng PPTLN để dạy học cần tập trung vào các hoạt động cụ
thể, hướng đến người học để phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo của người học và giúp sinh viên tiếp thu kiến thức
môn học một cách hiệu quả. Muốn đạt kết quả cao trong
giảng dạy, giảng viên cần chuẩn bị những bước như sau:
Bước 1: Xây dựng cấu trúc bài giảng
Mở đầu bài giảng:
Trong phần mở đầu giảng viên thường đưa ra những câu
hỏi, “những vấn đề kích thích tư duy sáng tạo của sinh viên,
làm cho sinh viên quan tâm, chú ý và tích cực tham gia vào
chủ đề bài giảng mà giảng viên hướng đến. Bên cạnh đó,
giảng viên cần phải làm cho sinh viên nắm được tổng thể cấu
trúc của bài giảng, nội dung bài giảng cần được nghiên cứu để
từ đó xác định được nhiệm vụ học tập của mình”[7;26].
- Nội dung bài giảng

20


Nội dung là phần quan trọng nhất của bài giảng. “Trong
phần này, dưới sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên tiến
hành thực hiện các nhiệm vụ học tập nhằm chiếm lĩnh tri
thức. Trong phần nội dung, các vấn đề cơ bản được giảng viên
thiết kế sắp xếp theo một trình tự lôgic nhằm giúp sinh viên
giải quyết tốt các nhiệm vụ học tập mà giảng viên đã đề
ra”[7;38].
- Tổng kết bài giảng
Giảng viên tiếp tục ôn tập lại cho sinh viên bằng một

vài câu hỏi để sinh viên tiếp tục suy nghĩ giải quyết, nhằm
giúp hệ thống lại nội dung kiến thức bài học và kiểm tra khả
năng tiếp thu bài của người học. Qua quá trình làm việc trong
một tiết dạy, giảng viên sẽ nhận xét về thái dộ học tập, mức
độ tiếp thu bài và hướng dẫn sinh viên tiếp tục tìm tòi nghiên
cứu để giải quyết các câu hỏi về nhà. Bên cạnh đó giảng viên
cũng cần gợi mở cho sinh viên các chủ đề có liên quan, vấn
đề thực tiễn để người học tiếp tục tìm hiểu mở rộng nguồn tri
thức cho bản thân.
Bước 2: Lựa chọn kiến thức

21


Trong quá trình vận dụng PPTLN vào giảng dạy môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, “giảng viên cần phải phân loại, sắp xếp
nội dung tri thức từng phần, chú trọng những kiến thức cơ
bản, trọng tâm nhất của bài giảng. Để lựa chọn những kiến
thức cơ bản đó, giảng viên cần phải bám sát mục tiêu và yêu
cầu của bài giảng, phân tích toàn bộ hệ thống tri thức của bài
giảng để xác định những tri thức mà sinh viên cần phải biết và
nên biết”[7;110].
Thứ nhất, xác định mục tiêu bài học và kiến thức trọng
tâm của bài.
Giảng viên cần nghiên cứu kỹ nội dung giáo trình, nội
dung bài giảng để xác định mục tiêu cần đạt cho từng bài học.
Mục tiêu trong dạy học được xác định cụ thể bằng các thao
tác, hoạt động. “Để xác định đúng mục tiêu cần chú ý đến: đối
tượng người học là sinh viên cao đẳng để việc lựa chọn những
kiến thức, phương pháp, vấn đề, ví dụ,… phù hợp, căn cứ vào

mục têu giáo dục và đào tạo để xây dựng cơ sở lý luận phục
vụ cho sinh viên. Bên cạnh đó giảng viên cần biết chắc lọc
kiến thức trọng tâm quyết định đến sự thành công của quá
trình dạy học, tránh lan man, sa đà vào nhiều nội dung mất
thời gian”[8;127].
22


Thứ hai, chọn lựa nội dung có vấn đề
Muốn sử dụng PPTLN để dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh thì giảng viên phải chuẩn bị những câu hỏi, những tình
huống có vấn đề để sinh viên giải quyết, giảng viên muốn làm
tốt phương pháp này phải chọn lựa cho phù hợp với nội dung
bài học, đối tượng sinh viên.
Thứ ba, phối hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học,
phương tiện và tài liệu phù hợp.
Để việc vận dụng PPTLN trong dạy học môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh được tốt mang lại kết quả cao trong dạy học,
giảng viên cần nắm rõ cách thức vận hành của PPTLN, quy
trình các bước để hướng dẫn sinh viên tìm hiểu, đọc giáo
trình, tài liệu từ trước để tiết học mang lại hiệu quả cao. Giảng
viên cần kết hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học để bài
giảng được sinh động hơn, hiệu quả hơn. Phương tiện, tài liệu
học tập chủ yếu là giáo trình, tuy nhiên để việc vận dụng
PPTLN có hiệu quả, giảng viên cần lựa chọn nội dung phù
hợp với thực tiễn của lớp, Các tình huống có vấn đề gắn với
thực tế môn học, bài học, để sinh viên thấy được giá trị của
môn học.
23



Khi giảng viên chuẩn bị tiết dạy có sử dụng PPTLN thì
cũng cần chuẩn bị các tài liệu, giáo trình, sách báo và hướng
dẫn, giới thiệu các kênh thông tin để sinh viên tìm hiểu trước
khi thảo luận. Chủ yếu là quá trình tự học, tìm tòi khám phá
để sinh viên phát huy năng lực của bản thân, biết chủ động,
tích cực hơn, sáng tạo trong giải quyết vấn đề, nhiệm vụ của
cá nhân và của tập thể nhóm và các tiết học tiếp theo.
Bước 3: Lựa chọn phương pháp, phương tiện và tài
liệu dạy học
Trong quá trình thiết kế bài giảng, “sau khi xác định
được nội dung dạy học, giảng viên tiến hành lựa chọn phương
pháp, phương tiện và tài liệu tham khảo phục vụ cho bài
giảng. Việc lựa chọn phương pháp, phương tiện và tài liệu
tham khảo là khâu rất quan trọng, bởi vì nó là trung tâm của
việc đổi mới phương pháp dạy học, là yếu tố quyết định hiệu
quả của bài giảng”[8;145].
Việc vận dụng PPTLN trong quá trình giảng dạy môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
của người học. Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học giảng

24


viên cũng cần phải kết hợp PPTLN với các phương pháp dạy
học tích cực khác, như nêu vấn đề, vấn đáp, thuyết trình...
“Việc sử dụng phương tiện dạy học hiện đại như máy
chiếu, hình ảnh, sơ đồ tư duy, mô hình,.... sẽ góp phần làm cho
bài giảng sinh động hơn, tạo được sự hứng thú và kích thích
được khả năng tư duy, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh

viên, góp phần làm tăng hiệu quả của quá trình dạy học”[36].
Trong quá trình giảng dạy cũng như muốn tăng độ hấp
dẫn cho bài giảng, giảng viên cần tham khảo các nguồn thông
tin tài liệu, giáo tình, sách giáo khoa, đề cương bài giảng,
tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, các mô hình hóa tri thức, …. các
kênh thông tin đó khi thiết kế, sưu tầm cũng cần kiểm chứng
và lấy từ nguồn dẫn chính xác, có căn cứ cụ thể.
Bước 4: Tiến trình hoạt động dạy học
Hoạt động 1: Củng cố lại kiến thức bài cũ và giới thiệu
bài mới
Giảng viên củng cố lại bài cũ cho sinh vien bàng cách
đặt ra những câu hỏi lien quan đế nội dung bài đã học. Nhằm
giúp giảng viên đánh giá lại mức độ tiếp thu và nhận thức về
25


×