Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

CƠ sở lý LUẬN về xây DỰNG môi TRƯỜNG GIÁO dục đạo đức CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.03 KB, 72 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG


Tổng quan nghiên cứu vấn đề xây dựng môi trường giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được phản ánh dưới
dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, qui tắc điều chỉnh
hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, xã hội, lao động của con người. Nó được hình thành rất
sớm trong lịch sử nhân loại và được mọi xã hội, mọi tầng lớp, mọi
thời đại quan tâm. Con người của thời đại nào thì phục vụ cho sự
nghiệp và sự phát triển của thời đại đó, của xã hội đó. Vì vậy, giáo
dục đạo đức là một vấn đề thiết thực và quan trọng góp phần trong
việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Đây là vấn
đề được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục trong và ngoài nước
quan tâm từ lâu nay.
- Các nghiên cứu trên thế giới
Những vấn đề về giáo dục đạo đức đã xuất hiện từ rất lâu ở
cả phương Đông lẫn phương Tây. Ở phương Đông, thời cổ đại,
Khổng Tử (551-479 TCN) là nhà triết học nổi tiếng của Trung
Quốc đồng thời là nhà đạo đức học khai sinh Nho giáo. Ông coi
trọng vai trò của giáo dục đạo đức và quan niệm có tính hệ thống
về phương pháp giáo dục cũng như về tâm lý giáo dục. Nội dung
và mục tiêu chủ yếu của GD Nho giáo được ghi trong Tứ thư và


Ngũ kinh. Nhưng cụ thể và tập trung nhất là nêu trong Luận ngữ
(sách ghi lời nói, việc làm của Khổng tử và của một số môn đồ) là
bồi dưỡng những người có đức nhân, người “quân tử” có đủ


phẩm cách và năng lực thi hành “đạo lớn” theo tôn chỉ của Nho
gia. Khổng tử quan niệm sự hiểu biết không phải là sinh ra đã có
sẵn mà phải được tích lũy qua quá trình học tập, rèn luyện khá
công phu. Các đức tính như nhân, trí, tín, trực, dũng, cương2 .T
cần phải học tập rèn luyện thì mới có thể phát triển đúng hướng,
ứng dụng hoàn hảo. Kết hợp chặt chẽ việc truyền thụ tri thức văn
hóa với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức. Ở mức độ nhất định, có
thể nói Khổng tử chủ trương coi việc rèn luyện đạo đức là ưu tiên
số một. Ông từng căn dặn các học trò rằng: Ở nhà thì ăn ở hiếu
thuận với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì kính trọng nhường nhịn các
bậc huynh trưởng; nên ít lời và đã nói thì phải thành thực, nên
thương yêu rộng khắp mọi người [28,194].
Khổng tử đặt lên hàng đầu nhân cách và đạo đức của người
dạy, sự làm gương quan trọng hơn lời giảng (Thân giáo trọng ư
ngôn giáo). Ông xây dựng học thuyết “Nhân - Trí - Dũng”, trong
đó, “Nhân” là lòng thương người - là yếu tố hạt nhân, là đạo đức
cơ bản nhất của con người. Đứng trên lập trường coi trọng giáo
dục đạo đức, ông có chủ trương nổi tiếng truyền lại đến ngày nay
“Lễ trị”. Lấy “Lễ” để ứng xử ở đời. Muốn vậy, mỗi người phải


biết tu thân làm gốc. Ở phương Tây, nhà triết học Socrate (469399 TCN) cho rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện. Bản tính con
người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được lan toả thì con người sẽ có
hạnh phúc. Theo ông, muốn xác định được chuẩn mực đạo đức
phải bằng nhận thức lý tính với phương pháp khoa học. Aristoste
(384-322 TCN) xem đạo đức là cái thiện của cá nhân, còn chính
trị là cái thiện của xã hội.
Thế kỷ XVII, Komenxky (1592-1670) - Nhà giáo dục vĩ đại
của Tiệp Khắc đã có nhiều đóng góp cho công tác giáo dục đạo
đức qua tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại”. Ông đã đề ra nhiều biện

pháp cụ thể trong việc giáo dục làm cơ sở cho nền giáo dục hiện
đại sau này. Komensky có khả năng như là bẩm sinh trong việc
nắm bắt tâm lý trẻ em và hiểu được cả những khía cạnh tinh vi
nhất của tâm hồn trẻ. Ông nhấn mạnh việc tôn trọng con người
phải bắt đầu từ ý thức tôn trọng trẻ em, bởi trẻ em như những cây
non trong vườn ươm: “Để cây đó lớn lên một cách lành mạnh,
nhất thiết phải được sự quan tâm, chăm sóc, tưới bón, tỉa tót…”.
Komensky có một quan niệm triết lý nổi bật về sự hòa nhập giữa
con người và thế giới tự nhiên và ông cực lực phản đối việc dùng
bạo lực đối với trẻ em. Ông kêu gọi các bậc cha mẹ, các nhà giáo
và tất cả những ai làm nghề nuôi dạy trẻ: “Hãy mãi mãi là một
tấm gương trong đời sống, trong mọi sinh hoạt để trẻ em noi theo


và bắt chước mà vào đời một cách chân chính…”. Ông coi những
trẻ em yếu kém về học tập và hạnh kiểm như là những trái chín
muộn, nếu ta biết cách giáo dục và kiên trì giáo dục thì cũng sẽ
đem lại kết quả tốt đẹp. Nhà giáo bằng thái độ trân trọng, kiên
nhẫn, hoàn toàn có thể xóa bỏ ở học sinh những thói xấu, những
mặc cảm và khơi dậy những tiềm năng của các em . Sau
Komenski có nhiều nhà giáo dục đã nghiên cứu và bàn về vấn đề
đạo đức, nhân cách học sinh, như Jean Jacques Russeau (17121778), Petxtalogi (1746-1827).
Theo học thuyết Mác-Lênin: đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng
xã hội, nó phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Nếu tồn
tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo. Do vậy đạo đức
mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
Thế kỷ XX, một số nhà giáo dục nổi tiếng Xô Viết cũng
nghiên cứu về giáo dục đạo đức học sinh, các nghiên cứu của họ
đã đặt nền tảng cho việc giáo dục đạo đức mới trong giai đoạn xây

dựng CNXH ở Liên Xô.
A.C.Macarenco: Trong tác phẩm Bài ca sư phạm, đã khái
quát các vấn đề giáo dục người công dân (giáo dục trẻ em phạm
pháp và không gia đình) đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo


dục đạo đức và các biện pháp giáo dục đúng đắn như sự nêu
gương, nguyên tắc giáo dục bằng tập thể và thông qua tập thể.
V.A Xukhomlinxky, nhà giáo dục lớn người Nga cũng rất
quan tâm đến những biện pháp quản lý đạo đức cho học sinh,
đóng góp nhiều lí luận, kinh nghiệm giáo dục thế hệ trẻ.Với kinh
nghiệm giảng dạy và giáo dục ở trường nông thôn Pavlush ông
cho rằng: dạy học trước hết là sự giao tiếp về tâm hồn giữa thầy
và trò “dạy trẻ phải hiểu trẻ, thương trẻ và tôn trọng trẻ…”. Trong
quá trình giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh, ông quan
tâm đặc biệt tới sự cân đối hài hòa giữa sự phát triển xúc cảm, tình
cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ với sự phát triển trí tuệ, thể chất,
năng lực hoạt động xã hội, giao tiếp, kỹ năng lao động nghề
nghiệp, kỹ thuật, ý thức công dân XHCN. Ông đã có nhiều kinh
nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa quá trình giáo dục và tự giáo
dục, chủ đạo tác động của nhà sư phạm với chủ động, tự quản rèn
luyện của học sinh và tập thể học sinh, giải quyết hợp lí giữa giáo
dục tập thể và giáo dục cá nhân. Ông đã nêu lên nhiều kinh
nghiệm phối hợp các lực lượng giáo dục xã hội, gia đình, nhà
trường, tận dụng những điều kiện xã hội, tự nhiên vào quá trình
giáo dục thế hệ trẻ. Những tác phẩm về giáo dục đạo đức như
"Giáo dục con người chân chính như thế nào", "Giáo dục cộng sản


đối với lao động" vẫn được sử dụng và có giá trị to lớn trong công

tác giáo dục thế hệ trẻ.
- Các nghiên cứu ở Việt Nam
Phải khẳng định rằng đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất
của nhân cách. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là
nhiệm vụ của các cấp chính quyền, các nhà giáo dục và của toàn
xã hội. Việt Nam là đất nước có truyền thống dân tộc với nhiều
giá trị tốt đẹp, đã trở thành những giá trị triết học Việt Nam. Đó là
phương châm: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người
trong một nước phải thương nhau cùng”, là “Tiên học lễ, hậu học
văn”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, là “Cái nết đánh chết cái đẹp”...
Từ các triều đại phong kiến trước đây, các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc đã được lưu vào sử sách, trở thành những nội
dung giảng dạy trong các trường học thời bấy giờ. Đến trước Cách
mạng Tháng Tám 1945, ở nước ta có nhiều sách dạy về luân lý,
dạy làm người, dạy giao tiếp. Đó là của các tác giả: Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của, Đỗ Thận, Tản Đà, Trần Trọng Kim, Trần
Hữu Độ, Lê Văn Siêu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng... Các tác phẩm được dùng làm sách giáo khoa, sách
dùng cho người dạy, sách đọc ở nhà... Trong đó có “Phong hóa


điều hành”, “Cờ bạc nha phiến”, “Huấn nữ ca” (dịch), “Gia huấn
ca” (dịch) của Trương Vĩnh Ký; “Khổng học đăng” của Phan Bội
Châu; “Đạo đức và luân lý” của Phan Chu Trinh [41,124]. Phan
bội Châu, trong tác phẩm “Khổng học đăng”, với quan điểm tiến
bộ đã đúc kết những tinh hoa của Khổng học, chắt lọc tính nhân
bản sâu sắc, phát huy những phẩm chất cao cả của con người
nhằm phục vụ bản thân và xã hội. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,
liêm là những đức tính cần phải được mọi người trau dồi, học tập,

nhất là thế hệ thanh niên. Phan Chu Trinh, với “Đạo đức và luân
lý” (Bài nói chuyện sau in thành sách năm 1927) đã đề cao sức
mạnh đạo đức, nhân cách, bản lĩnh con người. Theo ông, một dân
tộc muốn đứng lên không bị người ta chèn ép thì phải có một nền
đạo đức vững chặt, đó là cái tính chất của dân tộc đã trải qua hàng
ngàn năm lịch sử... [43,129]. Như vậy, mặc dù dựa trên các quan
điểm tiếp cận khác nhau, từ các nhà lãnh đạo đến các học giả, các
sĩ phu yêu nước, những nhà nghiên cứu đều rất coi trọng việc giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc
biệt quan tâm đến đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ và học
sinh. Bác cho rằng đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của
người cách mạng. Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh
không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đạo đức mà coi nhẹ mặt tài
năng. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phẩm chất và


năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia.
Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết
của bản thân cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí
Minh thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi
người. Bác còn căn dặn Đảng ta phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, học sinh thành những
người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nội dung cơ bản trong quan điểm
đạo đức cách mạng là: trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư; yêu thương con người; có tinh thần
quốc tế trong sáng.
Đến năm 1979, Bộ chính trị BCH TW Đảng Cộng sản Việt
Nam đã ra Nghị quyết về cải cách giáo dục và Uỷ ban cải cách
giáo dục trung ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng

cường giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học. Quyết định
ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh từ mẫu
giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào năm điều Bác Hồ
dạy”.
Xuất phát từ mục tiêu đào tạo con người trong giai đoạn
công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tại hội nghị lần thứ II của BCH
TW Đảng khóa VIII Đảng ta đã cụ thể hóa: “Mục tiêu chủ yếu là


giáo dục toàn diện, đức dục, trí dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học,
hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng
tư duy sáng tạo và năng lực thực hành”.
Nghị quyết BCHTW lần thứ 2 khóa 8 còn nhấn mạnh “Phải
coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất cho sự
toàn diện của đất nước, coi trọng nhân cách , lý tưởng và đạo đức,
trí lực và thể lực, gắn học với hành”. Rõ ràng với chủ trương này,
Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Thấm nhuần quan điểm này,
nhà trường chúng ta đã coi nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học
sinh trở thành một trong những nhiện vụ trọng tâm. Lý tưởng giáo
dục của nhà trường không ngoài mục đích hình thành và phát triển
nhân cách cao đẹp cho học sinh. Đó là con đường tham gia tích
cực vào sự tiến bộ của xã hội.
Trong những năm gần đây, nhiều giáo trình đạo đức được
biên soạn khá công phu. Tiêu biểu như giáo trình của Trần Hậu
Kiểm; giáo trình đạo đức học, Nguyễn Ngọc Long (chủ biên),
Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng; Giáo trình đạo đức học Mác
- Lê Nin, do tác giả Vũ Trọng Dung chủ biên.
Vấn đề giáo dục đạo đức cũng được rất nhiều tác giả nghiên
cứu:



Hà Thị Bắc (2015), Giáo dục đạo đức trong gia đình Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học, Trường Đại học Khoa
học xã hội nhân văn.
Võ Thuần Nho viết bài “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng
về giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học”. Báo nghiên
cứu giáo dục số 6/1980;
Đặc trưng của đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức
(Hoàng An-1982);
Giáo dục đạo đức trong nhà trường (Hà Thế Ngữ-Đặng Vũ
Hoạt, 1988);
Tác giả Đặng Vũ Hoạt với bài “Đổi mới công tác của giáo
viên chủ nhiệm với việc giáo dục đạo đức cho học sinh”. Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 8/1992;
Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong
điều kiện kinh tế thị trường (Thái Duy Tuyên, chủ biên, 1994);
Các nhiệm vụ giáo dục đạo đức (Nguyễn Sinh Huy, 1995);
Giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh, sinh viên (Phạm
Minh Hạc-1997 );


Tác giả Phạm Khắc Chương - Thiều Thị Hường với bài
“Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho thanh niên
-sinh viên hiện nay”. Báo đại học-giáo dục chuyên nghiệp số
2/1997;
Giáo dục đạo đức - hệ thống giá trị tư tưởng nhân văn (Hà
Nhật Thăng, 1998);
Tác giả Trần Thị Minh Hiển viết bài “Cải tiến hình thức sinh
hoạt tập thể để nâng cao việc giáo dục đạo đức cho học sinh”. Tạp

chí nghiên cứu giáo dục số 9/1998;
-Tác giả Hồng Quân viết bài “ Giáo dục đạo đức công dân
được xếp hạng chín trên mười môn học”. Báo Sài Gòn Giải Phóng
ngày 13/9/1999;
Tác giả Trần Quang viết bài “Dạy đạo đức trong trường
học”. Báo giáo dục thời đại số 18/1999;
Một số vấn đề về đạo đức, lối sống, chuẩn giá trị xã hội
(Huỳnh Khải Vinh-2001);
Tác giả Hà Nhật Thăng với bài “Thực trạng đạo đức, tư
tưởng chính trị, lối sống của thanh niên - học sinh-sinh viên”.Tạp
chí nghiên cứu giáo dục số 39/ 2002;


Một số nguyên tắc giáo dục nhân cách có hiệu quả trong nhà
trường phổ thông (Nguyễn Thị Kim Dung, 2005);
Nhóm nghiên cứu của giáo sư Hoàng Đức Nhuận tìm hiểu về
“Vai trò của nhà trường trong việc hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam.”
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong thời
kì đổi mới, một số nhà quản lý giáo dục đã nghiên cứu về quản lý
công tác giáo dục đạo đức. Có thể kể đến một số đề tài như:
Từ Thanh Nguyên với đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý và tổ chức văn hoá - giáo dục “Những biện pháp quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của Hiệu trưởng các
trường THPT tỉnh Trà Vinh”, năm 2003;
Nguyễn Thị Đáp với đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý và tổ chức văn hoá - giáo dục “Thực trạng việc quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Long Thành và một
số giải pháp”, năm 2004;
Nguyễn Văn Trung với đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học giáo

dục: “Công tác quản lý của Hiệu trưởng trong việc tổ chức giáo
dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT huyện Châu Thành,
Đồng Tháp”, năm 2006;


Lê Quang Tuấn với đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học giáo
dục: “Một số giải pháp công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường THPT huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh”, năm
2008. …
Nhìn chung, trong những năm qua giáo dục đạo đức trong
nhà trường của nước ta được quan tâm rất nhiều. Các công trình
trên đã phân tích vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, rất đa dạng,
phong phú và có chiều sâu. Các hội thảo khoa học về giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học, cho sinh viên đại học đã được tổ chức
ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chủ yếu bàn về nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức,… công tác giáo dục đạo
đức cho người học; một số công trình nghiên cứu khác thì tập
trung nghiên cứu về công tác quản lý giáo dục đạo đức trong nhà
trường. Việc đặt vấn đề nghiên cứu giáo dục đạo đức cho học sinh
trong môi trường giáo dục thống nhất giữa nhà trường, gia đình và
xã hội nói chung và nghiên cứu vấn đề trên ở huyện Mỹ Hào tỉnh
Hưng Yên thì chưa có công trình nào đề cập tới một cách có hệ
thống dựa trên đặc điểm đặc thù của địa phương. Vì vậy, qua đề
tài này chúng tôi mong rằng sẽ giúp cho hiệu trưởng các trường
THPT tổ chức tốt công tác quản lý giáo dục đạo đức, tìm ra được


nhiều giải pháp hợp lý nhằm xây dựng môi trường giáo dục đạo
đức thống nhất, nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động

giáo dục đạo đức ở các trường THPT huyện Mỹ hào, tỉnh Hưng
yên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo trong giai đoạn
hiện nay.
- Một số khái niệm có liên quan
- Đạo đức
Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con
người,



thuộc về vấn đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai, được sử
dụng

trong

ba

phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và
trừng

phạt

đôi

lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo,
chủ

nghĩa

nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử

từ

hệ

thống

này.
Dưới góc độ Triết học, đạo đức là một trong những hình thái
sớm

nhất

của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực


điều

tiết

hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng
đồng.

Căn

cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của
mỗi

người

bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa

vụ, danh dự [37,145 ].
Dưới góc độ Đạo đức học, đạo đức là một hình thái ý thức


hội

đặc

biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy
tắc,

nguyên

tắc, chuẩn mực xã hội [37, 12].
Dưới góc độ Giáo dục học, đạo đức là một hình thái ý thức


hội

đặc

biệt bao gồm một hệ thống các quan niệm về cái thực, cái có trong
mối

quan

hệ của con người với con người [34, 170-171].
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với
phạm


trù

chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của
nhân

cách,


phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá.
Đạo

đức

được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở
hành

động

giải

quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo
đức



một

hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng,


mỗi

tầng

lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối
với

các

vấn đề đang tồn tại [37, 153-154].
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau:“Đạo đức là
một

hình

thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan
điểm,

quan

niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời,
tồn

tại



biến

đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh

hành

vi

của

mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến
bộ

của



hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá


nhân





hội”. [37, 12]
Bản chất đạo đức là những qui tắc, những chuẩn mực trong
quan

hệ




hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống,
được



hội

thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội

phản

ánh những quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã
hội.

Mỗi

hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có những nguyên tắc,
chuẩn

mực

đạo

đức tương ứng. Vì vậy, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và
tính thời đại.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc
tế,

thì


khái

niệm đạo đức cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy
nhiên,
không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay
vào

đó



các

giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta,


các

giá

trị

đạo

đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp
của

dân


tộc

với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần
cần cù lao động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp
luật, có nếp sống văn minh lành mạnh, có tinh thần nhân đạo và
tinh thần quốc tế cao cả.
Tóm lại: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt
bao

gồm

một

hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên
tắc,

chuẩn

mực

xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó
con

người

tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc

của


con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con
người

với

người, giữa cá nhân và xã hội”. [37, 12]

con


- Giáo dục đạo đức
Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “GDĐĐ là quá
trình

biến

các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội
đối

với



nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin,
nhu

cầu,

thói quen của người được giáo dục”. GDĐĐ là quá trình tác động

tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành
cho học sinh ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan
trọng nhất là hình thành cho họ thói quen, hành vi đạo đức trong
đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà trường giữ vai trò chủ
đạo định hướng. “GDĐĐ cho học sinh là bộ phận quan trọng có
tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ
nghĩa”. [40,128].
Ngày nay, GDĐĐ cho học sinh là GDĐĐ xã hội chủ nghĩa.
Nâng

cao

chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho học
sinh



tinh

thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự say


học

tập,


có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp sống lành
mạnh,


biết

tôn

trọng pháp luật.
GDĐĐ cho học sinh hiện nay là: Trang bị cho học sinh
những kiến thức về chính trị, đạo đức, pháp luật, giáo dục cho học
sinh có tinh thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
thật sự say mê học tập, có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu
bạn, có nếp sống lành mạnh, biết tôn trọng pháp luật.
- Môi trường giáo dục đạo đức
Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao
quanh bên ngoài của một hệ thống hoặc một cá thể, sự vật nào đó.
Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình
trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong
đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con.
Một định nghĩa rõ ràng hơn như: Môi trường là tập hợp tất
cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng
tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người
như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các
thể chế.


Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật
chất, điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện
nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của
khách thể diễn ra trong chúng.
Môi trường giáo dục đạo đức là toàn bộ điều kiện vật chất
và tinh thần trong đó con người sống và hoạt động, thông qua đó
tác động đến cá nhân nhằm hình thành nhân cách của họ phù hợp

với chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Học sinh trung học phổ thông và giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông
- Học sinh trung học phổ thông
Trong tâm lý học lứa tuổi, các nhà tâm lý học đã đưa ra
nhiều lý thuyết khác nhau về tuổi thanh niên - lứa tuổi học sinh
THPT. Trong đó, học sinh THPT là học sinh có độ tuổi từ 15 đến
18 tuổi thuộc giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. Ở giai đoạn này,
các em đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát
triển cơ thể còn kém so với người lớn. Tâm lý có sự thay đổi
mạnh mẽ, có tác động lớn đến quá trình học tập và sinh hoạt.


- Đặc điểm phát triển trí tuệ của học sinh trung học phổ
thông
Ở tuổi đầu thanh niên, tính chủ định phát triển mạnh ở tất cả
các quá trình nhận thức, thể hiện ở các mặt sau đây:
Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao, quan sát trở nên
có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn.
Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí
tuệ; ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa có vai trò ngày
càng tăng.
Hoạt động tư duy có sự thay đổi quan trọng. Tư duy chặt chẽ
hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Tính phê phán của tư duy cũng
phát triển. Đó chính là cơ sở để hình thành thế giới quan. Tuy
nhiên, không phải học sinh phổ thông nào cũng đạt đến mức tư
duy đặc trưng cho lứa tuổi như vậy.Việc giúp các em phát triển
khả năng nhận thức là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường mà
trực tiếp là các giáo viên. Đổi mới công tác quản lý, phương pháp
dạy học là việc làm phải tiến hành thường xuyên, liên tục để giúp

học sinh hoàn thiện về trí tuệ và nhân cách.


- Sự phát triển tự ý thức của học sinh trung học phổ thông
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát
triển nhân cách của học sinh THPT. Đây là một quá trình phong
phú và phức tạp, trong đó nổi lên những đặc điểm cơ bản sau:
Ở tuổi đầu thanh niên các em đã có nhu cầu tìm hiểu và đánh
giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm về mục đích
và hoài bão của mình. Vì vậy, các em học sinh THPT quan tâm
sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực cá
nhân.
Hai là, các em đã có sự nhận thức về vị trí của mình trong xã
hội, trong tương lai là các em sẽ trở thành người như thế nào, làm
thế nào để tốt hơn.
Ba là, các em có thể hiểu rõ mình về phẩm chất nhân cách lộ
rõ, cũng như những phẩm chất phức tạp, biểu hiện trong quan hệ
nhiều mặt của nhân cách. Điều đó thể hiện ở các em về tinh thần
trách nhiệm, lòng tự trọng và nghĩa vụ công dân.
Bốn là, nhu cầu đánh giá và tự đánh giá ở các em được tăng
cường hơn học sinh trung học cơ sở. Tuy nhiên không tránh khỏi
xu hướng tự đánh giá quá cao, thậm chí có lúc sai lầm. Trách
nhiệm của chúng ta là phải theo dõi, lắng nghe ý kiến của các em


và có biện pháp phù hợp để giúp đỡ các em có được hình mẫu về
nhân cách của học sinh THPT.
- Sự hình thành thế giới quan
Hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong sự phát triển
tâm lý của học sinh THPT. Ở tuổi này, các điều kiện về mặt trí tuệ

và xã hội để xây dựng hệ thống quan điểm riêng đã được hình
thành. Qua những năm học phổ thông, học sinh đã ý thức và xác
định được các hình thức, tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi và đưa
vào thành hệ thống.
Hiện tại nhiều thanh niên, học sinh chưa được giáo dục đầy
đủ về thế giới quan, đồng thời chịu tác động của những ảnh hưởng
tiêu cực trong đời sống, sinh hoạt của những điều kiện không lành
mạnh. Bên cạnh đó cũng không ít thanh niên học sinh còn sống
thụ động, chưa chú ý đến việc xây dựng thế giới quan. Vì vậy
nhiệm vụ của nhà trường cùng với việc dạy chữ thì phải giúp các
em có tư duy sáng suốt, đánh giá đúng thang giá trị đang thể hiện,
xác định tính phức tạp của nó để xây dựng và bảo vệ cái đúng,
phản đối ngăn chặn cái sai, biết chống lại sự xâm nhập của thế
giới quan sai lệch.


×