Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG dạy học môn CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.72 KB, 50 trang )

NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG
DẠY HỌC MÔN CHÍNH TRỊ


- MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN
CHÍNH TRỊ
Nguyên tắc GD chính trị, tư tưởng, đạo đức trong
dạy học môn Chính trị
GD chính trị, tư tưởng đạo đức là nguyên tắc đầu tiên và
cơ bản của GD và đào tạo ở bất cứ chế độ xã hội nào.
Ngoài cái chung trong đạo lý làm người mà chế độ nào
cũng phải quan tâm là lòng nhân ái, tính trung thực, dũng
cảm… mỗi chế độ xã hội lại có những yêu cầu cụ thể về GD
tư tưởng. Xã hội phong kiến GD con dân phải “trung quân, ái
quốc”, đạo đức của người phụ nữ phải “tam tòng tứ đức”. Xã
hội tư bản GD con người phải có khát vọng vươn lên đấu
tranh cho tự do dân chủ, dũng cảm chống lại những ràng buộc
của chế độ phong kiến, phải bảo vệ và tuân thủ trật tự xã hội
tư bản. Xã hội xã hội chủ nghĩa GD tinh thần chiến đấu hy
sinh vì chủ nghĩa xã hội, sống và làm việc theo triết lý “mình
vì mọi người, mọi người vì mình”…


Trong nền GD xã hội chủ nghĩa, bất kỳ hình thức GD
nào cũng là sự kết hợp giữa GD và giáo dưỡng. Việc giảng
dạy đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc GD toàn diện bao gồm
đức, trí, thể, mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “dạy cũng như
học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách
mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có đạo đức


cách mạng thì có tài cũng vô dụng”. Đó là nhiệm vụ DH của
tất cả các môn học song môn Chính trị có nhiều ưu thế trong
thực hiện nguyên tắc này.
DH môn Chính trị tại các trường cao đẳng nghề phải góp
phần đào tạo người lao động bổ sung vào đội ngũ giai cấp
công nhân, tham gia công đoàn Việt Nam, giúp HSSV học
nghề xây dựng thế giới quan khoa học và cách mạng, có ý
thức tự rèn luyện, học tập đáp ứng yêu cầu về tri thức và
phẩm chất chính trị phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp CNH
– HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Tăng cường GD công dân, GD lòng yêu nước, Chủ
nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, GD đạo đức và
nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí
vươn lên làm giàu bằng chính sức lao động của mình trên cơ
sở thực hiện đúng pháp luật - nghĩa là có ý chí vươn lên vì


tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Đó là những
con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, không thụ
động, những con người đa năng có khả năng di chuyển nghề
nghiệp, thích ứng với cơ chế thị trường đầy biến động.
DH môn Chính trị tại các trường cao đẳng nghề - Cung
cấp một số hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng và tấm gương đạo Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, truyền thống quý báu của dân tộc và của
giai cấp công nhân Việt Nam. Từ đó, góp phần xây dựng được
niềm tin của SV đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
với đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước ta.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất trong hoạt

động GD tuyên truyền là phải làm cho nhận thức biến thành
niềm tin. Niềm tin ấy được xây dựng trên cơ sở nhận thức
khoa học, từ đó hình thành thế giới quan một cách khoa học.
Để làm được điều này đòi hỏi GV phải có những PP truyền
thụ đến HSSV những tri thức của môn Chính trị một cách
khoa học, làm cho HSSV nhận thức được tính khoa học của
những tri thức đó, tránh làm cho HSSV cảm thấy sự áp đặt sẽ


dẫn đến nhàm chán, không có hứng thú, động lực trong học
tập, nghiên cứu môn học.
Các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều
xây dựng trên cơ sở những quy luật khách quan. Vì vậy, muốn
tạo được niềm tin cho HSSV cần phải làm cho họ thấy rõ cơ
sở khoa học của đường lối, chính sách, những truyền thống
quý báu của dân tộc và của giai cấp công nhân Việt Nam.
Trên cơ sở đó khích lệ lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
phấn đấu góp sức thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu mà
Đảng, Nhà nước ta đã đề ra trong mỗi HSSV.
-Nguyên tắc thực tiễn trong dạy học môn Chính trị


Theo Triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ
hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội”. Các hoạt
động cơ bản của thực tiễn bao gồm: hoạt động sản xuất vật
chất, hoạt động cải tạo xã hội, thực nghiệm khoa học. Thực
tiễn là sự tương tác giữa chủ thể và khách thể. Chính trong
quá trình tương tác đó, khách thể buộc phải bộc lộ ra các
thuộc tính của mình nhờ vậy chủ thể mới có được hiểu biết

về khách thể ấy. Mặc khác, chính nhu cầu của hoạt động
thực tiễn thúc đẩy con người phải tìm hiểu sự vật, hiện
tượng tiến tới xây dựng lý luận về nó. Như vậy, thực tiễn là
điểm xuất phát, là cơ sở đồng thời là động lực cho sự phát
triển lý luận. Có thể thấy, không có thực tiễn thì không có
nhận thức nói chung và lý luận nói riêng. Sau khi xuất hiện
trên cơ sở của hoạt động thực tiễn, lý luận quay trở lại chỉ
đạo thực tiễn và trở thành cơ sở lý luận cho hoạt động thực
tiễn đó.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: Thực tiễn
là vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật; đối
với bất kỳ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao”, đều phải
suy nghĩ kĩ càng xem nó có phù hợp với thực tế hay không?
Nếu chỉ tuân thủ theo sách vở một chiều thì thiếu tính thực
tiễn vì tri thức sách vở mà tách rời hoạt động thực tiễn thì
chỉ là tri thức phiến diện, không hoàn chỉnh. Đồng thời
thực tiễn sẽ xác định hay phủ nhận sự đúng đắn của những
quan điểm lý thuyết. “Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn là thực tiễn mù quáng, lý luận mà không có thực tiễn là
lý luận suông”.
V.I.Lênin cho rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức vì
nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của
tính hiện thực trực tiếp”. Mọi tri thức trong quá trình thực
tiễn, hoạt động trí tuệ con người được phát triển cho đến
lúc có lý luận và bản thân lý luận ra đời chính vì nó cần
thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.



C.Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn
toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phỉa chứng
minh chân lý”. Thông qua thực tiễn, những lý luận của
chân lý sẽ được bổ sung, nhận thức lại, vì vậy giá trị của lý
luận phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Nguyên tắc tính thực tiễn đòi hỏi DH môn Chính trị
tại các trường cao đẳng nghề phải đảm bảo liên hệ với thực
tiễn sản xuất, đời sống hay chính là thực tiễn nguyên lý DH
là học phải đi đôi với hành, DH trong nhà trường phải gắn
liền với xã hội hay gắn liền với lao động công ích của SV;
đồng thời phải tính đến đặc điểm, điều kiện thực tiễn của
DH cũng như năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi SV.


Tính thực tiễn trong hoạt động DH môn Chính trị tại
các trường cao đẳng nghề phải gắn liền với nguyên lý về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đóng vai trò quan
trọng quyết đính đến sự thành công của quá trình DH.
Trong hoạt động DH môn Chính trị, nếu GV chỉ dừng lại ở
những luận điểm khoa học chung chung mà không gắn với
thực tiễn cuộc sống dễ đi đến chủ nghĩa duy lý, giáo điều,
không thể tạo ra ở mỗi SV niềm tin vào sự đúng đắn của
những luận điểm đó, bài giảng không thuyết phục. Ngược
lại, nếu GV sa đà vào thông tin, sự kiện cụ thể mà không
hướng vào việc dùng lý luận để khái quát, lý giải những sự
kiện sẽ là sự coi thường lý luận, rơi vào chủ nghĩa kinh
nghiệm, điều đó sẽ làm cản trở việc hình thành và phát
triển tư duy lý luận, tư duy khoa học của SV.



Do đó, quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực
tiễn, trong đó tính thực tiễn phải trở thành nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động nhận thức và hoạt động DH, chỉ đạo
thực tiễn quá trình DH về mục đích, hình thức tổ chức và
PPDH, PP kiểm tra, đánh giá để thữ hiện tốt các nhiệm vụ
DH và mục tiêu đào tạo. Vì vậy, đảm bảo tính thực tiễn
được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình DH, quyết định
chất lượng DH môn Chính trị tại các trường cao đẳng nghề
và đáp ứng được mục tiêu GD.
- Nguyên tắc phát huy tính tự giác, tích cực của SV
trong dạy học môn Chính trị
Nguyên tắc phát huy tính tự giác và tích cực của SV xuất
phát từ quy luật của nhận thức. Con người nhận thức thế giới
khách quan trong quá trình tác động tích cực đối với thiên
nhiên, trên cơ sở thực tiễn sản xuất xã hội. Lý luận nhận thức
Mác – Lênin đã khẳng định: “Nhận thức khoa học là một quá
trình tích cực, do đó việc phản ảnh nhận thức, truyền thụ tri
thức và việc học tập cũng phải diễn ra một cách tích cực và
tự giác”.


Tích cực là nét quan trọng của nhân cách, là một đức
tính quý báu của con người. Theo Kharlamốp “Tính tích cực
là trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa là người hành
động. Vậy tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của
người học, đặc trưng bởi khát vọng học tập cố gắng trí tuệ và
nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức”.
Tích cực trong học tập nghĩa là hoàn thành một cách

chủ động, tự giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng
kiến và đầy hào hứng những hành động trí óc và chân tay
nhằm nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỷ xảo, vận dụng chúng
vào trong quá trình học tập và thực tiễn.
Quá trình DH môn Chính trị bao gồm hai hoạt động
dạy và học. Tính tích cực của quá trình DH này không chỉ
liên quan đến những hoạt động tích cực của GV mà còn liên
quan đến sự cố gắng của mỗi SV. Tính tích cực của SV phụ
thuộc rất nhiều vào tính tích cực của PPDH của GV. Việc DH
chỉ có hiệu quả và chất lượng cao khi có sự cộng tác chặt
chẽ, hợp lý giữa GV và SV trong đó người GV giữ vai trò chủ
đạo, SV giữ vai trò tích cực, tự lực làm sao để quá trình DH
là sự hoạt động tương đồng và phối hợp của GV và SV cả về
mặt trí tuệ lẫn thực hành một cách mãnh liệt và lôi cuốn.


Trong tác phẩm Hướng dẫn đào tạo GV Đức. Tác giả
A.Đixtervec đã viết: “Không thể ban cho hoặc truyền đạt đến
bất kỳ một người học nào sự phát triển và giáo dục. Bất cứ ai
muốn được phát triển và giáo dục cũng phải phấn đấu bằng
sự hoạt động của bản thân mình. Anh ta chỉ có thể nhận được
từ bên ngoài sự kích thích mà thôi… Vì thế sự hoạt động tự
lực là phương tiện và đồng thời là kết quả của sự giáo dục”.
- Nguyên tắc hệ thống, nhất quán và lôgic trong dạy
học môn Chính trị
Các môn học được giảng dạy trong nhà trường luôn là
những môn khoa học được xây dựng bởi hệ thống các kiến
thức mang tính khoa học, lôgic cao. Vì vậy, việc phải đảm
bảo tính hệ thống, nhất quán và lôgic là một nguyên tắc cơ
bản, một đòi hỏi nghiêm ngặt trong mọi quá trình DH. Việc

đảm bảo nguyên tắc trong DH môn Chính trị này cho phép
đảm bảo được tính khoa học trong nội dung môn học. Hơn
nữa, yêu cầu mỗi GV DH môn Chính trị phải đảm bảo tính hệ
thống, nhất quán trong nội dung chương trình cũng như nội
dung kiến thức môn học là định hướng cơ bản cho việc thực
hiện nội dung DH cũng như là cơ sở cho việc quản lý, đánh
giá chuyên môn của các cấp quản lý…


Môn Chính trị được giảng dạy tại các trường cao đẳng
nghề là một hệ thống kiến thức khoa học đồ sộ về chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam… Hệ thống kiến thức đó được xây dựng
dựa trên PP luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý giải
các quy luật và các mối quan hệ một cách nhất quán theo một
hệ thống kiến thức lôgic chặt chẽ.
DH môn Chính trị tại các trường cao đẳng nghề theo
nguyên tắc trên xuất phát từ đặc điểm cấu trúc của nội dung
môn học đồng thời còn xuất phát từ PP nghiên cứu, PP trình
bày khoa học của môn học.
- Nguyên tắc hiệu quả và vừa sức trong dạy học môn
Chính trị


DH là một quá trình trong đó chủ yếu là sự chuyển giao
những tri thức của môn học đến với SV thông qua sự giảng
giải, hướng dẫn nghiên cứu, TL của GV. Quá trình chuyển
giao này chỉ thực sự có hiệu quả khi GV đảm bảo được việc
cung cấp những thông tin một cách dễ hiểu nhất, phù hợp với
trình độ nhận thức của SV. Theo quan điểm của lý luận DH

hiện đại, DH hiệu quả và vừa sức có nghĩa là những yêu cầu,
nhiệm vụ học tập được đặt ra phải phù hợp với đối tượng, sao
cho SV có thể hoàn thành được với sự nổ lực cao nhất về trí
tuệ và thể lực của bản thân người học.
Tính hiệu quả và vừa sức trong DH môn Chính trị có tác
dụng thúc đẩy SV tin vào khả năng của bản thân và đạt kết
quả tốt trong việc lĩnh hội những kiến thức đã được truyền
thụ. Tuy nhiên, nếu DH những vấn đề quá đơn giản hoặc quá
trừu tượng, phức tạp, khó hiểu sẽ kìm hãm sự hứng thú học
tập của HSSV.
-MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY ƯU THẾ
CỦA PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY
HỌC MÔN CHÍNH TRỊ TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
PHÚ YÊN


- Chuẩn bị bài giảng sử dụng PPTLN trong dạy học
môn Chính trị
- Xác định mục tiêu bài giảng, mục đích thiết kế bài
giảng sử dụng PPTLN trong dạy học môn Chính trị
Đối với mỗi phần nội dung kiến thức trong chương trình
môn học đều có mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, thái độ cụ
thể. GV muốn tổ chức thảo luận hiệu quả cần căn cứ vào từng
phần nội dung kiến thức và mục tiêu cụ thể của mỗi phần đó
để xây dựng kế hoạch, dự kiến các bài sẽ sử dụng PPTLN và
các chủ đề tương ứng. Mỗi một bài trong chương trình môn
học bao hàm những vấn đề khác nhau, đó là nội dung về khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật, đường lối, sách lược của
Đảng… với những mục tiêu, yêu cầu riêng. GV cần dựa vào
đó để thiết kế hoạt động và giao nhiệm vụ nghiên cứu, nhiệm

vụ thảo luận phù hợp cho SV.
Dạy học môn Chính trị có sự liên hệ giữa các nội dung
kiến thức với nhau, quá trình nhận thức phải đi từ thấp đến
cao, từ những vấn đề lý luận đến thực tiễn mới có thể hiểu
nắm được vấn đề. Ví dụ, ở phần nội dung kiến thức về khái
niệm, phạm trù của phép biện chứng duy vật (Bài 2) GV cần


giảng giải để SV nắm được bản chất vấn đề sau đó mới tiến
hành thảo luận nhằm giúp SV dễ hình dung, khắc sâu kiến
thức. Với các nội dung kiến thức về nguyên lý, quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật (Bài 2), bao gồm hai nguyên
lý và ba quy luật cơ bản phản ánh quy luật vận động và phát
triển phổ biến của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan, vì vậy, đòi hỏi GV có nhiệm vụ định hướng, điều khiển
SV tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề từ trừu tượng đến cụ thể, từ
khái niệm đến nội dung, và nhất là giúp SV hình thành khả
năng phát hiện, phân tích mối quan hệ giữa chúng và ý nghĩa
đối về lý luận và thực tiễn.
Từ mục tiêu cụ thể của các chương, mục nội dung kiến
thức, GV vận dụng PPTLN phù hợp, khi nào kết hợp với
thuyết trình, khi nào kết hợp với dạy học tình huống, giao
nhiệm vụ đọc tài liệu cho SV trước khi thảo luận.*
- Xây dựng vấn đề thảo luận.
Đây là bước quan trọng trong việc tổ chức TLN. Trong
một bài học có nhiều nội dung, mỗi nội dung có nhiều vấn
đề/chủ đề. GV trước hết phải biết chia nhỏ các nội dung cơ
bản thành nhiều vấn đề TLN hoặc nhiều nhiệm vụ học tập cần



thảo luận và phân bổ một cách hợp lý qua mỗi buổi học, thậm
chí từng giờ học. Các vấn đề/chủ đề thảo luận cần phong phú,
tường minh. Chủ đề thảo luận phải chứa đựng mâu thuẫn về
lý luận hoặc có tính thực tiễn, thời sự giúp làm sáng tỏ phần
nội dung lý thuyết.
Hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận và cập nhật
được các thông tin về đời sống, văn hóa, chính trị…từ nhiều
nguồn khác nhau, GV có thể dựa vào đó để xây dựng hệ thống
vấn đề cho SV thảo luận, so sánh và phân tích. Đó có thể là
các tình huống thực tiễn gắn liền với đời sống sinh hoạt, học
tập, làm việc của SV. Vì vậy, GV nên tăng cường các vấn đề
gợi mở cho SV tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, chứ
không bó hẹp về đánh giá kiến thức, kích thích khả năng đánh
giá, bình luận và sáng tạo trong xử lí vấn đề cho SV.
Những cuộc thảo luận đạt được hiệu quả cao là dựa vào
các câu hỏi có tính suy luận logic. GV đặt cần câu hỏi để gợi
ý và kiểm tra nhận thức, bổ sung kiến thức của SV, ngược lại
GV cũng khuyến khích học viên đặt câu hỏi để nghiên cứu,
tìm hiểu và đi đến khái quát vấn đề thảo luận. Các câu hỏi
thường được thiết kế theo trình tự hợp lý từ thấp đến cao, từ
cơ bản đến gợi mở kích thích sự sáng tạo và nghiên cứu của


học viên. Các câu hỏi thường đi từ mức độ: biết – hiểu – vận
dụng và theo các tiêu chí sau: Ngắn gọn, dễ hiểu, có trọng
tâm, liên quan đến nội dung thảo luận, kích thích tư duy sáng
tạo và huy động kiến thức, kinh nghiệm mà SV đã tích lũy.
. Vấn đề lựa chọn TLN phải đáp ứng những yêu cầu sau
đây:
Chủ đề TLN phải phù hợp với mục tiêu học tập đang

phải thực hiện trong bài học đó.
Điều kiện phải có là HSSV phải được cung cấp tài liệu
và hướng dẫn đọc tài liệu từ trước.
Khi đặt vấn đề để SV tiến hành TLN, GV cần phải tự
đánh giá xem liệu vấn đề mình đặt ra có thể dạy bằng PPTLN
hay không? Có tiềm năng xảy ra tranh luận hay không? Có đủ
cơ sở để đi đến thống nhất hay không? Có mang lại hào hứng
và lợi ích hay không? Nếu tất cả đều có câu trả lời là có thì có
thể đưa vấn đề đó ra để tổ chức TLN.
Có chủ đề có thể TL ngay ở lớp, có chủ đề GV phải yêu
cầu HSSV chuẩn bị trước ở nhà để vấn đề TL sẽ được mở
rộng và đi vào chiều sâu hơn.


Chủ đề TLN nên tập trung vào vấn đề chính của bài học.
Chủ đề TLN cũng có thể bắt đầu từ các luận điểm, các tình
huống, câu chuyện nhưng thường được cụ thể hóa qua các câu
hỏi chủ chốt. Việc lựa chọn và diễn đạt vấn đề còn phải phù
hợp khả năng nhận thức của HSSV, không quá đơn giản
nhưng cũng không nên quá khó đối với HSSV.
Tốt nhất nên lựa chọn được vấn đề TLN hấp dẫn, dễ chia
sẻ, dễ huy động được nhiều ý kiến khác nhau, có tính chất
kích thích tính tích cực chủ động làm việc của HSSV. Lưu ý,
câu hỏi TL nên là câu hỏi mở, không bao giờ là một câu hỏi
đóng.
- Chuẩn bị bài giảng cho TLN
Nghiên cứu đối tượng thảo luận: việc phân tích các đặc
điểm về người học giúp GV xác định những vấn đề sau: Xác
định trình độ, khả năng tư duy của người học; Đặc điểm tâm
sinh lý của người học; Lựa chọn phương pháp thảo luận; Lựa

chọn nội dung thảo luận.
Xác định mục tiêu thảo luận: GV cần phải xác định
mục tiêu rõ ràng vì mục tiêu định hướng cho nội dung chuyên
môn và chi phối PPDH, cách thức tổ chức giờ học. Vì thế, xây


dựng mục tiêu thảo luận cần căn cứ vào nội dung sau: Mục
tiêu và nội dung của môn học; trình độ của người học (phù
hợp, vừa sức).
Phạm vi kiến thức TLN: là yếu tố quan trọng nhất để
đảm bảo buổi thảo luận đạt hiệu quả là việc lựa chọn chủ đề
hay nội dung. Bất cứ nội dung nào GV cũng nên thiết kế cho
hữu ích và phù hợp với đối tượng thảo luận. Vì vậy, khi chọn
nội dung thảo luận GV cần lưu ý những vấn đề sau: Nội dung
gợi ra sự tranh luận, mang tính thời sự; Bám sát mục tiêu bài
giảng, chuyên ngành và mục tiêu đào tạo;
Xác định thời gian thảo luận: GV cần phân bố thời
gian hợp lý căn cứ vào nội dung thảo luận, đối tượng học và
mục tiêu thảo luận. Ngoài ra, khi phân bố thời gian thảo luận
GV cần cân nhắc thời lượng vừa đủ cho: Thời gian đặt những
câu hỏi; Thời gian tìm hiểu và thống nhất ý kiến; Thời gian
thuyết trình; Thời gian thông tin phản hồi; Thời gian tổng kết
và thống nhất thông tin.
- Tổ chức dạy học sử dụng PPTLN trong dạy học
môn Chính trị tại Trường Cao đẳng Nghề Phú Yên
- Kỹ thuật chia nhóm thảo luận


Việc phân chia và làm việc nhóm thảo luận chủ yếu dựa
trên nội dung bài học và đối tượng người học. Việc dạy học

môn Chính trị thường diễn ra ở các lớp đông SV, vì vậy, có
thể linh hoạt chia nhóm tùy thuộc vào phạm vi nghiên cứu và
điều kiện phương tiện lớp học. Có thể chia nhóm như sau:
Nhóm 2-3 sinh viên ngồi cùng bàn trao đổi, thảo luận
những nhiệm vụ trong thời gian ngắn
Kết hợp các nhóm ở các dãy bàn liền kề nhau lại thành
nhóm lớn 7 – 10 SV
Nhóm “bể cá”: một nhóm thảo luận, nhóm còn lại quan
sát lắng nghe và phản hồi
Nhóm “luân phiên”: Chia sinh viên bằng số vấn đề thảo
luận trong nội dung bài học, và thảo luận theo thứ tự của
nhóm tương ứng với thứ tự vấn đề thảo luận, sau đó GV mời
cả lớp thảo luận chung và tổng kết.
Theo nhiều nghiên cứu khoa học nhận định môi trường
học tập ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, thái độ và hành vi,
động cơ học tập của sinh viên. Vì vậy, khi tiến hành thảo luận
GV cần chủ động tạo bầu không khí thoải mái bằng cách tiến


hành trao đổi ý kiến dân chủ giữa GV với SV, giữa SV với SV
và tiếp nhận và lắng nghe ý kiến lẫn nhau.
Trong TLN, nghệ thuật dẫn dắt vấn đề, duy trì không khí
tranh luận sôi nổi gây tò mò, kích thích nhu cầu tìm kiếm hay
xác minh lại nội dung, đánh giá các hiện tượng, vấn đề thực
tiễn dựa trên nội dung lý thuyết, tôn trọng ý kiến, cách giải
quyết của mỗi cá nhân, đặt ra những câu hỏi mở như vấn đề
đó đã được giải quyết thỏa đáng chưa. Đưa người học trở
thành người khám phá, tổng kết tri thức, được nhìn nhận vấn
đề một cách khách quan, từ nhiều góc độ, tranh luận nghiêm
túc, khoa học, rèn luyện văn hóa giao tiếp, ứng xử, rèn luyện

tính phản biện, bảo vệ ý kiến một cách tích cực, lịch sự chứ
không phải cố chấp bảo vệ ý kiến của mình, loại bỏ hoàn toàn
ý kiến của người khác. Trong xã hội hiện đại, giao tiếp giữa
con người với con người là vô cùng quan trọng, khả năng
tranh luận để thống nhất tìm giải pháp hoặc xử lý một vấn đề
diễn ra hàng ngày, trong nhiều môi trường khác nhau, vì vậy,
cần rèn luyện cho SV những kỹ năng căn bản để trở thành
một người hiện đại, văn minh, có khả năng thích ứng, hòa
nhập được với tập thể mà vẫn giữ được bản sắc của mình.
- Sử dụng kết hợp PPTLN với các PPDH tích cực khác


để phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của PPTLN
Trong DH, không có một PP nào là vạn năng, duy nhất
có thể chuyển tải được vấn đề nhận thức cho người học bởi lẽ
mỗi PPDH có những ưu, nhược điểm riêng, thế mạnh và hạn
chế riêng của nó. Do vậy, cần phối hợp các PP để phát huy thế
mạnh, đồng thời hạn chế nhược điểm của mỗi PP trong quá
trình DH.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu về nội dung môn Chính trị
cùng với đặc thù của mỗi PPDH cho thấy PPTLN trong DH
môn Chính trị thường được sử dụng với một số PPDH sau
đây:
Kết hợp PPTLN với phương pháp thuyết trình tích cực
Mỗi PPDH có vai trò và ưu – nhược điểm khác nhau,
không có PPDH nào là toàn năng, có thể giải quyết được tất
cả các yêu cầu, mục tiêu dạy học, do vậy, cần có sự kết hợp
các PPDH với nhau một cách linh hoạt, khoa học. Như chúng
ta biết, không thể phủ nhận vai trò của phương pháp thuyết
trình đối với các môn lý luận chính trị, cần kết hợp TLN với

các PPDH khác như phương pháp thuyết trình tích cực.
Thuyết trình là PPDH mà GV dùng lời nói, cử chỉ, biểu cảm


để diễn giải nội dung kiến thức cho SV. Kết hợp TLN với
thuyết trình tích cực giúp SV học tập hứng thú và thảo luận
hiệu quả hơn thông qua việc SV được lắng nghe, trình bày ý
kiến của mình, bổ sung và hoàn thiện kiến thức, kỹ năng môn
học. Việc sử dụng kết hợp TLN với thuyết trình tích cực giúp
phát huy ưu điểm của cả hai PPDH này, bổ sung và hỗ trợ
nhau trong việc giúp hoạt động học tập diễn ra chủ động, SV
học hỏi lẫn nhau, hạn chế lối truyền thụ kiến thức thụ động,
một chiều.
Kết hợp PPTLN với PPDH nêu vấn đề
PPDH nêu vấn đề là phương pháp GV đưa ra cho SV
một hoặc một vài vấn đề để xử lý, đặt SV vào tình huống đó
GV hướng dẫn, hỗ trợ SV cách xử lý nhằm rút ra các kết luận
liên quan tới bài học. Tổ chức TLN trong quá trình xử lý vấn
đề làm tích cực quá trình nhận thức cho SV trên cơ sở phát
huy tinh thần làm việc của tập thể để tìm ra cách giải quyết tốt
nhất cho vấn đề được đưa ra. Với sự tiếp cận đa diện, đa chiều
giúp giải quyết các vấn đề một cách thuyết phục, khoa học và
hợp lí. Thông qua đó, SV hiểu về bài học rõ ràng hơn, có khả
năng vận dụng trong thực tiễn cuộc sống. Việc kết hợp sử
dụng PPTLN với PPDH nêu vấn đề thực hiện như sau:


Bước 1. Tạo tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề
có chứa mâu thuẫn bởi lẽ có mâu thuẫn thì mới có vấn đề cần
giải quyết, mới kích thích được hoạt động tư duy và hứng thú

học tập cho SV. Tình huống có vấn đề phải có tính thực tiễn,
hấp dẫn, lôi cuốn SV, kích thích trí tò mò và khả năng khám
phá tri thức của SV. Những tình huống này cần gắn với mục
đích bài học, có tính thực tiễn cao, liên quan tới cuộc sống
thường nhật con người. Cần lưu ý xây dựng tình huống vừa
sức, vì kết quả giải quyết vấn đề phụ thuộc vào năng lực SV.
GV có thể linh hoạt dựa trên các sự kiện kinh tế - văn hóa,
chính trị, các vấn đề nổi bật trong thực tiễn đời sống học tập
và sinh hoạt của SV gắn với mục tiêu bài học để lựa chọn vấn
đề để giải quyết.
Bước 2. Tổ chức TLN để các nhóm SV giải quyết vấn đề
được đưa ra. Lúc này, SV của mỗi nhóm huy động vốn kiến
thức, kinh nghiệm của mình để lựa chọn những nội dung cần
thiết có thể xử lý mâu thuẫn trong vấn đề đưa ra. Để SV xử lí
vấn đề theo nhóm giúp các em chủ động tìm kiếm thông tin,
bổ sung và hoàn thiện kiến thức bài học cũng như ghi nhớ
kiến thức sâu sắc hơn nhờ việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề.


×