Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

(khóa luận) kinh nghiệm quốc tế với việc xây dựng pháp luật quản lý tài nguyên môi trường biển, hải đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.45 KB, 26 trang )

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỚI VIỆC XÂY
DỰNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN
MÔI TRƯỜNG BIỂN, HẢI ĐẢO

0


I. GIỚI THIỆU CHUNG
Trên thế giới, hiện nay quản lý tổng hợp biển và hải đảo chủ yếu được
áp dụng cho vùng bờ biển (bao gồm cả vùng bờ các hải đảo) vì vùng bờ biển
là khu vực có nhiều tài nguyên, có nhiều tổ chức, cá nhân cùng khai thác, sư
dụng. Ngoài ra, vùng bờ biển còn chịu tác động mạnh mẽ của các hoạt động
của con người trong lục địa. Thí dụ, các chất nhiễm bẩn được xả ra trên các
lưu vực sông sẽ được dòng chảy tràn hay các dòng kênh, mương, sông, suối
nhỏ tải ra sông và dòng sông tải ra biển với kết quả là gây ô nhiễm biển, đặc
biệt là vùng bờ. Với nhiều hoạt động khai thác, sư dụng của con người, tài
nguyên vùng bờ dễ bị suy thoái. Với các hoạt động khai thác, sư dụng tài
nguyên và xả thải chất nhiễm bẩn, môi trường và các hệ sinh thái vùng bờ rất
dễ bị tổn thương. Ngoài ra, hiện tượng nhiều tổ chức/cá nhân cùng khai thác,
sư dụng tài nguyên vùng bờ làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn, dẫn tới gia tăng
suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường biển.
Khái niệm vùng bờ biển ở các quốc gia khác nhau rất khác nhau. Một
số quốc gia coi vùng bờ biển là khu vực có phần đất ven biển và phần biển
ven bờ với chiều rộng khoảng 3 hải lý tính từ đường cơ sở. Một số quốc gia
khác lại coi vùng bờ biển là khu vực có phần đất ven biển và phần biển ven
bờ với chiều rộng bằng lãnh hải…Đã có một số nước đang cố gắng mở rộng
phạm vi quản lý tổng hợp ra hết vùng biển đặc quyền kinh tế như Canada,
Hàn Quốc, Nhật Bản.
Khái niệm quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
(đặc biệt là quản lý tổng hợp vùng bờ) đã được đề xuất và áp dụng từ lâu trên
thế giới. Vào năm 1972, Hoa Kỳ đã ban hành Luật Quản lý vùng bờ, với nội


dung chính là quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường. Chương trình nghị
sự 21 thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát
triển tại Rio de Janerio 1992 đã thừa nhận quản lý tổng hợp vùng bờ biển là
một cách tiếp cận thích hợp cho phát triển bền vững và kêu gọi các quốc gia
có biển áp dụng phương thức này để giải quyết những vấn đề ở các vùng bờ
1


biển tại thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai. Hội nghị Thượng đỉnh
Trái đất về Môi trường và Phát triển tại Johannesburg 2002 lại một lần nữa
khẳng định tầm quan trọng của quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển
và hải đảo.
Phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái có mục đích khắc phục những bất cập trong
quản lý theo ngành và lãnh thổ về biển và hải đảo bằng các công cụ để điều
phối, phối hợp giữa các ngành trong khai thác, sư dụng tài nguyên và bảo vệ
môi trường biển và hải đảo. Phương thức quản lý này chú trọng đến việc duy
trì tính toàn vẹn về chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái, trong đó con người
là một phần của hệ sinh thái và con người thông qua các hoạt động khai thác tài
nguyên đã tác động, làm suy thoái các hệ sinh thái. Do vậy, quản lý tổng hợp
và thống nhất tài nguyên, môi trường biển và hải đảo theo cách tiếp cận hệ sinh
thái có vai trò điều chỉnh hoạt động của con người để bảo vệ tính toàn vẹn về
chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái, duy trì và cải thiện năng suất của hệ
sinh thái, qua đó, bảo đảm tài nguyên biển được quản lý, khai thác, sư dụng
hiệu quả, tiết kiệm, môi trường biển và hải đảo được bảo vệ; hài hòa được lợi
ích của các bên liên quan cùng khai thác, sư dụng tài nguyên, bảo vệ môi
trường. Tính tổng hợp trong quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
được thể hiện trên 3 phương diện:
- Tổng hợp theo tính hệ thống: mỗi vùng biển được hiểu là một hệ
thống tài nguyên thống nhất, được quản lý theo phương thức không cắt rời,

chia nhỏ hay xem xét các thành phần của nó một cách riêng biệt để đảm bảo
tính toàn vẹn; đồng thời, xem xét vùng biển là hệ thống tương tác giữa tự
nhiên và xã hội, giữa các yếu tố sinh học và phi sinh học.
- Tổng hợp theo chức năng: mỗi vùng biển là một hệ thống nhiều chức
năng, cần được xem xét sư dụng cho phù hợp với các chức năng đó và trong
giới hạn chịu tải của hệ thống, tiểu hệ thống trong khu vực.

2


- Tổng hợp về phương thức quản lý: phương thức quản lý theo chiều
dọc (các cấp) và chiều ngang (các bên liên quan) để đảm bảo tính đa ngành,
đa cấp; đồng thời, phải có cơ chế liên kết chặt chẽ giữa các chính sách quản lý
và hành động quản lý.
Gần đây, phương thức quản lý tổng hợp dựa trên cách tiếp cận hệ sinh
thái đã ngày càng trở nên phổ biến và đã được thể chế hóa bằng luật và các
khung chính sách tại rất nhiều quốc gia có biển với mức độ phát triển từ trung
bình tới cao như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada,
Australia, Indonexia, Nam Phi,…. Phương thức này được các quốc gia áp dụng
để mong muốn làm giảm tình trạng ô nhiễm môi trường và suy thoái nguồn tài
nguyên biển sau nhiều thập kỷ bị khai thác quá mức và thiếu sự quản lý chặt
chẽ, hiệu quả.
Kinh nghiệm thu thập được từ các nước khác nhau trên thế giới về việc
thể chế hóa phương thức quản lý tổng hợp dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái
được phân tích, tổng kết để phục vụ xây dựng Luật Tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo được trình bày trong báo cáo này.
Báo cáo này được soạn dưới dạng so sánh các quy định cụ thể về
những vấn đề khác nhau trong các chương, điều trong dự thảo Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo và những quy định trong pháp luật của
các nước khác trên thế giới hoặc các điều ước quốc tế để làm cơ sở cho việc

đánh giá việc tiếp thu và vận dụng các kinh nghiệm của các nước khác vào
xây dựng Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo ở Việt Nam.
Các luật được tham khảo để xây dựng báo cáo này là Luật quản lý vùng
bờ, luật quản lý môi trường biển của Hàn Quốc, Công ước Liên hợp quốc về
Luật Biển 1982, Công ước Marpol về phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển
do tàu gây ra, Công ước về Ngăn chặn ô nhiễm môi trường biển do các hoạt
động nhận chìm, Luật quản lý các khu vực biển của Trung Quốc, Luật Bảo vệ
môi trường biển của Trung Quốc, Luật Kiểm soát ô nhiễm biển của Đài Loan,

3


Luật phòng chống ô nhiễm và thiên tai biển của Nhật Bản, Luật quản lý vùng
bờ và các đảo nhỏ của Indonesia, Luật quản lý vùng bờ của Mỹ và Luật quản
lý tổng hợp vùng bờ của Nam Phi…
II. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG XÂY DỰNG LUẬT TÀI
NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BIỂN, HẢI ĐẢO
Về tên của luật
Phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
là phương thức quản lý mới, phương thức này khác với phương thức quản lý
theo chuyên ngành đang phổ biến ở nước ta và các nước trên thế giới. Do là
phương thức quản lý mới nên khi thể chế hóa phương thức này, hầu hết các
nước đều đặt tên cho luật là Luật quản lý tổng hợp và tủy theo phạm vi điều
chỉnh mà đặt tên luật khác nhau. Do tính chất phức tạp của vùng bờ, nhiều
nước phân chia quản lý tổng hợp biển thành quản lý tổng hợp vùng bờ và
quản lý tổng hợp vùng biển. Hàn Quốc đặt tên là Luật quản lý vùng bờ,
Indonesiacủa đặt tên là Luật quản lý vùng bờ và các đảo nhỏ, Hoa kỳ đặt tên
là Luật quản lý vùng bờ, Nam Phi đặt tên là Luật quản lý tổng hợp vùng bờ

Ngoài quản lý tổng hợp vùng bờ, nhiều nước đã xây dựng luật quản lý

vùng biển như như Hàn quốc, Nhật Bản đang xây dựng Luật quản lý tổng hợp
vùng đặc quyền kinh tế, Trung Quốc đã xây dựng và ban hành Luật quản lý
các khu vực biển…
Chương 1. Quy định chung
Chương này quy định các vấn đề chung mà luật sẽ giải quyết và bao
gồm 8 điều, từ điều 1 tới điều 8.
1. Chính sách của Nhà nước về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
Phần này nêu rõ những chính sách của Nhà nước về các nội dung quản
lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, cụ thể là về điều tra cơ

4


bản, khai thác, sư dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên và môi trường, bảo vệ
môi trường biển và hải đảo, tuyên truyền giáo dục về tài nguyên, môi trường
biển, hợp tác quốc tế và phối hợp trong quản lý tài nguyên, môi trường biển.
Luật pháp quốc tế (thí dụ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982)
và pháp luật quản lý tổng hợp biển và hải đảo của các nước, thí dụ Luật Biển
Canada, Luật Quản lý vùng bờ biển của Hàn Quốc, Luật quản lý vùng bờ và
các đảo nhỏ của Indonesia, Luật quản lý vùng bờ của Mỹ và Luật quản lý
tổng hợp vùng bờ của Nam Phi đều có quy định về nội dung này.
2. Nguyên tắc, nội dung quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo
Các nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải
đảo được quy định trong điều này nhấn mạnh vấn đề quản lý tổng hợp tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo theo cách tiếp cận hệ sinh thái, các công
cụ của quản lý tổng hợp phải điều phối hoạt động khai thác, sư dụng tài
nguyên để không vượt quá sức chịu tải của hệ thống tài nguyên, phục vụ phát
triển bền vững. Các nội dung của điều này đều được quy định trong pháp luật
quản lý tổng hợp biển của các nước, thí dụ Công ước Liên hợp quốc về Luật

Biển năm 1982, Luật Biển Canada, Luật Quản lý vùng bờ biển của Hàn Quốc
(Điều 3), Luật quản lý vùng bờ và các đảo nhỏ của Indonesia, Luật quản lý
vùng bờ của Mỹ và Luật quản lý tổng hợp vùng bờ của Nam Phi, Luật quản lý
môi trường biển của Hàn Quốc, Luật Bảo vệ Môi trường biển của Đài Loan
và một số luật khác.
Điểm khác giữa quy định trong dự thảo Luật và quy định trong các luật
của các nước khác là luật các nước khác không tổng hợp các nội dung quản lý
nhà nước tổng hợp, thống nhất tài nguyên, môi trường biển và hải đảo vào
một điều mà trình bày trong các phần khác nhau của luật.
Chương 2. Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo
vệ môi trường biển và hải đảo

5


Chương này quy định về Chiến lược khai thác, sư dụng bền vững tài
nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo và có 3 điều, từ Điều 9 đến Điều
11. Chiến lược khai thác, sư dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường
biển và hải đảo là một chính sách rất quan trọng để đảm bảo tài nguyên biển,
hải đảo được khai thác, sư dụng hợp lý, nên được hầu hết các nước thể chế
hóa trong luật pháp. Thí dụ, quy định tương tự như Chiến lược này có trong
Luật Biển Canada (Phần 2, từ Điều 28 tới Điều 30). Các quy định về nguyên
tắc, căn cứ, nội dung, trách nhiệm lập, thẩm quyền phê duyệt và thực hiện
Chiến lược khai thác, sư dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển
và hải đảo được thể hiện trong pháp luật của nhiều nước, nhưng được thể hiện
trong nhiều phần khác nhau của luật, riêng Luật Biển Canada quy định cụ thể
trong Điều 28 tới Điều 30 của Luật.
Chương 3. Điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo
Chương này quy định về điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài

nguyên, môi trường biển và hải đảo, bao gồm 10 điều, Điều 12 tới Điều 21.
Điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý tổng hợp tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo. Nó giúp đánh giá hiện trạng tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo làm cơ sở cho việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch khai
thác, sư dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Các thông tin,
dữ liệu, luận cứ khoa học mà điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển cung
cấp là những cơ sở để xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật
quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển và hải đảo.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học
về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, pháp luật quốc tế (như Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982) và luật pháp, chính sách của các nước
tiên tiến đều quy định về việc quản lý các hoạt động điều tra cơ bản, nghiên

6


cứu khoa học biển. Luật cơ bản về chính sách biển Nhật Bản, Luật Biển
Canada nêu rõ những nội dung điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo. Luật quản lý môi trường biển của Hàn
Quốc, Luật Phòng chống ô nhiễm môi trường và thiên tai biển Nhật Bản cũng
quy định các nội dung điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển. Các chính
sách biển của nhiều nước, thí dụ Mỹ, đều quan tâm tới việc quản lý thống
nhất các hoạt động điều tra cơ bản để tránh chồng chéo, lãng phí, tăng hiệu
quả cho hoạt động điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển. Các văn bản
dưới luật của Mỹ cũng quy định rõ vấn đề quản lý thống nhất đội tàu nghiên
cứu khoa học biển do các trường đại học, các viện nghiên cứu và các cơ quan
chính phủ (như Cơ quan Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ) quản lý và
đăng ký các hoạt động nghiên cứu khoa học có sư dụng đội tàu để đảm bảo
đội tàu được sư dụng với hiệu suất cao nhất. Các vấn đề về chương trình điều

tra cơ bản quốc gia, cấp phép cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động điều tra cơ
bản, nghiên cứu khoa học trong vùng biển quốc gia, quyền, nghĩa vụ của tổ
chức, cá nhân thực hiện điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo được quy định trong luật và văn bản dưới luật của
nhiều quốc gia có biển.
Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm quốc tế và xem xét nguồn lực (bao
gồm cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa
học biển và hải đảo), các quy định về quản lý các hoạt động điều tra cơ bản,
nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo trong chương
này của dự thảo Luật được soạn thảo.
Chương 4. Quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ
Chương này quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ và bao
gồm 12 điều, từ Điều 22 đến Điều 33.
Vùng bờ và đại dương Việt Nam chứa đựng nhiều tài nguyên thiên
nhiên như hải sản, dầu khí, hệ sinh thái biển… tất cả đều thuộc hệ thống tài

7


nguyên chia sẻ, không thuộc riêng một ngành nào. Chính vì tiềm năng đa
ngành nên nhiều ngành kinh tế cùng khai thác, sư dụng trên một không gian
bờ và đại dương. Vì vậy, vấn đề quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ là một
vấn đề rất quan trọng để khai thác, sư dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi
trường là một vấn đề rất quan trọng, được các nước tiên tiến và các cộng đồng
quốc tế thừa nhận, áp dụng và thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật.
Mỹ là quốc gia tiên phong trong việc áp dụng quản lý tổng hợp biển và vùng
ven biển. Luật Quản lý Vùng Ven biển (CZMA) được Mỹ thông qua năm
1972 nhằm tăng cường sự tham gia và phối hợp của các bên liên quan trong
việc đưa ra các chương trình liên quan đến vùng ven biển và cân bằng giữa
các nhóm cạnh tranh về lợi ích ở vùng ven biển. CZMA cho phép các tiểu

bang xây dựng kế hoạch quản lý vùng ven biển, trong số xác định quyền sư
dụng tài nguyên đất và nước trong phạm vi vùng ven biển của bang, do vậy
mỗi bang có thể điều chỉnh chương trình quản lý vùng ven biển phù hợp với
bối cảnh và nhu cầu của bang mình.
Để thực hiện CZMA, chính phủ liên bang cung cấp hỗ trợ tài chính cho
các bang xây dựng và duy trì các chương trình quản lý vùng ven biển. Vụ
Quản lý Tài nguyên Vùng Ven biển & Đại dương thuộc Cơ quan Khí quyển &
Đại dương Quốc gia Mỹ chịu trách nhiệm đánh giá các chương trình quản lý
vùng ven biển của các bang.
Chính phủ khuyến khích công chúng tham gia và góp ý vào quá trình
đánh giá này nhằm đảm bảo các bang thực hiện các chương trình một cách
hiệu quả nhất. Vụ Quản lý Tài nguyên Vùng Ven biển & Đại dương cũng đã
xây dựng và thực hiện một số công cụ đánh giá hiệu quả việc thực hiện quản
lý vùng ven biển như quy hoạch chiến lược, hệ thống đánh giá việc thực hiện
CZMA, sáng tạo về hiệu quả quản lý các khu bảo tồn biển.
Đức là một trong nước đầu tiên xây dựng và thông qua chiến lược quốc
gia quản lý tổng hợp vùng biển vào năm 2006 dựa trên khuyến nghị của EU
2002/413/EG. Chiến lược phân tích thực trạng kinh tế, xã hội, sinh thái, pháp
8


luật về biển và vùng ven biển làm cơ sở cụ thể hoá các bước hỗ trợ quy trình
quản lý tổng hợp cũng như việc thực hiện các nguyên tắc quản lý tổng hợp cơ
bản. Đa số các nguyên tắc cơ bản về quản lý tổng hợp đã được thực hiện
thông qua các công cụ pháp lý hiện có, song chiến lược đã đẩy mạnh việc sưa
đổi các công cụ pháp lý hướng tới hoàn thiện quy trình quản lý tổng hợp
thông qua việc thành lập một văn phòng quản lý tổng hợp vùng ven biển.
Ngoài ra, Chính phủ vùng liên bang Đức cũng đã sưa đổi một số công cụ pháp
lý trên theo luật chung của EU, lồng ghép đánh giá môi trường chiến lược,
khung quản lý tài nguyên nước vào luật và quy chế quốc gia, chiến lược quốc

gia.
Hiện nay quản lý tổng hợp vùng ven biển là nội dung được đưa vào
chương trình đào tạo tại nhiều trường đại học ở Đức. Ngoài các khoá đào tạo
đại học và sau đại học về quản lý nhà nước và vùng ven biển, các module
quản lý tổng hợp vùng ven biển được lồng ghép vào các chương trình đào tạo
các khoá học về quản lý môi trường, bảo tồn và sư dụng tài nguyên thiên
nhiên.
Tại Hà Lan, các nguyên tắc về quản lý tổng hợp biển và vùng ven biển
được thực hiện trong hai chính sách, đó là chiến lược không gian quốc gia
(năm 2005) và chính sách thứ ba về các vùng ven biển (năm 2000). Theo đó,
quản lý tổng hợp vùng ven biển tại Hà Lan dựa trên phương pháp tiếp cận ưu
tiên. Vấn đề về an toàn lũ lụt và quản lý xói lở giữ vai trò quyết định và được
chính phủ Hà Lan ưu tiên hàng đầu trong khi đó các vấn đề khác như phát
triển kinh tế, bảo tồn thiên nhiên, quy hoạch không gian đóng vai trò thứ yếu.
Tuy không có một chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp vùng ven biển
nhưng Hà Lan cho rằng khung thể chế chính sách hiện tại của Hà Lan đã thể
hiện được các nguyên tắc quản lý tổng hợp vùng ven bờ theo khuyến nghị của
EU. Sự tham gia và tham vấn của các bên liên quan ở mọi cấp, bao gồm cả
cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ là thành công rất lớn trong quản lý
vùng ven biển của Hà Lan.
9


Kinh nghiệm quốc tế về các vấn đề cụ thể về quản lý tổng hợp tài
nguyên, môi trường vùng bờ được nghiên cứu, chọn lọc để quy định trong dự
thảo Luật được trình bày dưới đây.
1) Vùng bờ và hành lang bảo vệ bờ biển
Luật của Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia đều quy định ranh giới
vùng bờ, bao gồm phần biển ven bờ và phần đất ven biển. Một số luật như
Luật quản lý vùng bờ của Hàn Quốc, Luật Nhật Bản quy định rõ hành lang

bảo vệ bờ biển. Các luật của các nước nói chung đều quy định về khu vực sát
biển, nơi không được phép có những hoạt động phát triển nếu không có giấy
phép đặc biệt. Mục đích của các quy định này là nhằm duy trì hành lang bảo
vệ bờ biển, tạo sự liên tục của hệ sinh thái dưới biển và trên bờ để bảo vệ các
hệ sinh thái biển và ven bờ.
2) Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên
vùng bờ
Một trong những công cụ quan trọng nhất của quản lý tổng hợp tài
nguyên, môi trường vùng bờ là Quy hoạch tổng thể khai thác, sư dụng bền
vững tài nguyên vùng bờ. Bằng cách sư dụng quy hoạch này, người quản lý
có thể điều phối, phối hợp các hoạt động của các ngành, các cấp để đảm bảo
tài nguyên vùng bờ được khai thác, sư dụng bền vững. Do tính quan trọng của
Quy hoạch, luật pháp của hầu hết các quốc gia tiên tiến có biển trên thế giới
đều thể chế quy hoạch này bằng luật pháp và chính sách. Thí dụ, luật của
nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, Canada, dự thảo luật
của Thái Lan đã có các quy định cụ thể, chi tiết về nguyên tắc, căn cứ lập quy
hoạch, nội dung, kỳ quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch, trách nhiệm lập, thẩm
quyền phê duyệt quy hoạch. Ngoài ra, với phương châm đảm bảo dân chủ
trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch, luật pháp hoặc văn bản dưới luật
của các nước nêu trên đều quy định về lấy ý kiến và công bố quy hoạch, cũng
như tổ chức thực hiện quy hoạch.

10


Để xây dựng Quy hoạch tổng thể khai thác, sư dụng bền vững tài
nguyên vùng bờ, cần phân vùng sư dụng biển. Vấn đề này được quy định tại
các luật và văn bản dưới luật liên quan tới quản lý tổng hợp vùng bờ của tất cả
các nước. Do vậy, đây cũng là một nội dung cần quy định trong dự thảo Luật.
Các quy định trong dự thảo Luật về Quy hoạch tổng thể khai thác, sư

dụng bền vững tài nguyên vùng bờ được xây dựng trên cơ sở tham khảo các
luật nêu trên và áp dụng vào điều kiện thực tế ở Việt Nam với mong muốn
đảm bảo các quy định trong dự thảo Luật có thể triển khai một cách hiệu quả
trong thực tế.
3) Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ
Để thực hiện tốt việc quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ,
cần xây dựng và thực hiện tốt Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên, môi
trường vùng bờ. Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng
bờ cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể khai thác, sư dụng bền vững tài nguyên
vùng bờ, xác định các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện trong từng giai đoạn để
triển khai công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ trên thực
tế. Do tầm quan trọng của Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên, môi
trường vùng bờ, Luật quản lý vùng bờ và các đảo nhỏ của Indonesia, Luật
quản lý vùng bờ của Hàn Quốc, luật Biển Canada, Luật quản lý tổng hợp
vùng bờ của Hoa Kỳ đều nhấn mạnh nội dung này. Các hướng dẫn về quản lý
tổng hợp vùng bờ của một số tổ chức quốc tế như Đối tác quản lý môi trường
biển Đông Á (PEMSEA) cũng quy định cụ thể về các vấn đề này. Trên cơ sở
tham khảo các quy định trong luật pháp của các nước nêu trên cũng như các
hướng dẫn về quản lý tổng hợp vùng bờ của một số tổ chức quốc tế, nhóm
soạn dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã cụ thể hóa các
quy định trong Luật về Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường
vùng bờ. Các quy định cũng đã được xây dựng trên cơ sở bàn bạc về tổ chức,
thể chế, các nguồn lực của Việt Nam với mục đích đảm bảo Chương trình
quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ khả thi và được thực hiện
11


một cách hiệu quả.
Chương 5 Tài nguyên hải đảo
Chương này quy định về quản lý tài nguyên hải đảo và bao gồm 3 điều,

Điều 34 tới Điều 36.
Theo Công ước Luật biển Liên hợp quốc 1982, các đảo thuộc chủ
quyền của một quốc gia được coi là lãnh thổ quốc gia và có chế độ pháp lý
giống như đất liền. Các đảo có thể được phân thành các đảo lớn và đảo nhỏ.
Các đảo nhỏ chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển nên điều kiện tự nhiên của
toàn đảo cũng được coi như điều kiện tự nhiên tại vùng bờ của các đảo lớn, và
vùng bờ trên đất liền. Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên tại phần giữa đảo
giống với đất liền hơn nên chỉ phần bờ của đảo chịu ảnh hưởng trực tiếp của
biển. Như vậy, có thể thấy toàn bộ các đảo nhỏ và phần bờ các đảo lớn có
tương tác mạnh mẽ với biển. Tuy rằng khu vực giữa các đảo lớn (như Phú
Quốc) có điều kiện tự nhiên giống trên đất liền, dòng chảy tràn do mưa và các
dòng suối trên đảo sẽ dễ dàng và nhanh chóng vận chuyển chất thải và các
chất rưa trôi bề mặt xuống biển và làm ô nhiễm môi trường biển. Vì vậy, nếu
không được quản lý chặt chẽ, việc khai thác, sư dụng tài nguyên trên đảo sẽ
có tiềm năng làm suy thoái tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường trên đảo và
vùng biển xung quanh.
Với các lý do trên, các nước đều quan tâm đến quản lý tài nguyên, môi
trường các đảo. Một thí dụ về xây dựng và thực thi pháp luật về quản lý tổng
hợp tài nguyên, môi trường đảo là Hàn Quốc. Trước 2008, Hàn Quốc không
có chính sách riêng biệt và cụ thể để quản lý đảo. Các đảo có người do Bộ
Nội vụ quản lý hành chính. Nhận thức tầm quan trọng của việc quản lý các
đảo không người, năm 2008, Hàn Quốc đã ban hành Luật quản lý các đảo nhỏ
không người với nội dung cơ bản là quản lý tài nguyên, môi trường, xây dựng
quy hoạch quản lý đảo với kỳ quy hoạch 10 năm. Mục đích chính của luật này
là quản lý môi trường và tài nguyên các đảo, chủ yếu tập trung vào bảo tồn.

12


Hàn Quốc đã thực hiện điều tra về điều kiện tự nhiên, địa hình, cảnh quan, hệ

sinh thái làm cơ sở để bảo tồn. Trên cơ sở đó, xác định các hình thức quản lý
cho các đảo. Hàn Quốc chia đảo thành 4 loại: loại bảo tồn, loại nưa bảo tồn,
loại phát triển có điều kiện và loại phát triển. Trong luật cũng có các phần quy
định về các đảo đặc biệt dùng xác định các ranh giới quốc gia trên biển. Về
quy hoạch quản lý, việc điều tra các đảo này được thực hiện thường xuyên.
Tổng cục Khí tượng Thủy văn Biển Hàn Quốc thuộc Bộ Đại dương và Nghề
cá điều tra thường xuyên các đảo này. Các đảo được dùng là điểm để xác định
các vùng biển là rất quan trọng, cần được chú ý bảo vệ.
Vấn đề quản lý tổng hợp tại Hàn Quốc ban đầu thực hiện tại vùng bờ
biển và các đảo có người. Hiện nay, quản lý tổng hợp được áp dụng cho cả
các đảo không người.
Để quản lý các hải đảo, Trung Quốc và Indonesia đã ban hành luật về
quản lý các hải đảo. Các quy định về quản lý đảo, đặc biệt là các đảo nhỏ và
các đảo không người tập trung chủ yếu vào tài nguyên, môi trường. Yêu cầu
quản lý khai thác tài nguyên hải đảo, việc phân loại các đảo, xác định chế độ
khai thác, sư dụng tài nguyên, việc lập và quản lý hồ sơ các hải đảo được quy
định trong các luật quản lý hải đảo của Hàn Quốc, Trung Quốc và Indonesia.
Điều 14 và Điều 15 của Luật Bảo vệ hải đảo của Trung Quốc đề cập
đến việc xây dựng, hoàn thiện chế độ điều tra, thống kê hải đảo, kế hoạch
điều tra thống kê tổng hợp hải đảo; triển khai điều tra, đánh giá nguồn tài
nguyên thiên nhiên của đảo. Điều 1 của luật này đề cập đến bảo vệ hệ thống
sinh thái các đảo và vùng biển xung quanh các đảo, tranh thủ khai thác, sư
dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tại các đảo, duy trì, bảo vệ quyền
lợi biển của đất nước, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển bền vững. Luật Bảo
vệ hải đảo của Trung Quốc phân các đảo thành 3 loại: đảo có cư dân sinh
sống, đảo không có cư dân sinh sống và đảo sư dụng cho mục đích đặc biệt.
Điều 23 của luật này quy định việc khai thác, xây dựng tại các đảo có cư dân
sinh sống cần tuân thủ các quy định của pháp luật, pháp quy liên quan đến
13



quy hoạch của thành thị, nông thôn, bảo vệ môi trường, quản lý đất đai, quản
lý sư dụng vùng biển, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và rừng v.v… để
bảo vệ hệ thống sinh thái hải đảo và các vùng biển xung quanh. Theo luật của
Trung Quốc, các đảo không có cư dân có thể được khai thác, sư dụng; cần xin
phép ban ngành chủ quản về biển của chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị,
thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời nộp những giấy tờ như báo cáo
luận chứng các công trình, các phương án khai thác sư dụng cụ thể, được các
bộ ngành chủ quản về biển, các ngành hữu quan và các chuyên gia thẩm tra,
đưa ra ý kiến thẩm tra, chính quyền nhân dân của tỉnh, khu tự trị và thành phố
trực thuộc phê duyệt.
Trên cơ sở tham khảo các quy định của nước ngoài và xem xét các điều
kiện của Việt Nam, dự thảo Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã đề
xuất các quy định về quản lý tài nguyên hải đảo như trong dự thảo Luật.
Chương 6 Bảo vệ môi trường biển và hải đảo
Chương này quy định về vấn đề bảo vệ môi trường biển, hải đảo và bao
gồm 21 điều, từ Điều 37 đến Điều 57.
Do tính chất đặc thù của biển là không gian liên thông và lan truyền
nhanh của ô nhiễm, các nước phát triển ven biển nói chung đều có các luật
riêng về quản lý môi trường, bảo vệ môi trường hay kiểm soát ô nhiễm môi
trường biển.
Hiện nay, Việt Nam có Luật Bảo vệ Môi trường. Tuy nhiên, luật này chỉ
quy định các vấn đề rất chung về bảo vệ môi trường biển. Các quy định về
bảo vệ môi trường trong luật này tuy về mặt nguyên tắc có thể áp dụng cho
biển, nhưng do tính chất đặc thù của biển, việc áp dụng này có rất nhiều khó
khăn và không có hiệu quả cao vì những quy định trong Luật Bảo vệ Môi
trường chưa xem xét hết tính đặc thù của biển. Ngoài Luật Bảo vệ Môi
trường, trong hệ thống pháp luật của Việt Nam còn có Luật Biển Việt Nam và
một số luật ngành có đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học
14



biển như Bộ Luật Hàng hải Việt Nam, Luật đa dạng sinh học. Tuy vậy, vấn đề
kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường biển trong các luật này vẫn mang tính
nguyên tắc với phương châm “theo quy định của pháp luật Việt Nam” và cần
được cụ thể hóa trong một hoặc một vài đạo luật riêng biệt. Như vậy, trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, chưa có luật nào quy định nào quy định cụ thể, chi
tiết về kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường biển. Hơn nữa, ngoài Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo đang được xây dựng, trong tương lai cũng
sẽ rất khó bất cứ một luật nào quy định cụ thể, chi tiết về kiểm soát ô nhiễm,
bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Như vậy, việc quy định một cách cụ thể,
chi tiết các hoạt động kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường biển và hải đảo là
nhiệm vụ của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Các quy định về phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và
hải đảo được xây dựng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, bao gồm
các quy định trong Công ước Luật Biển Liên hợp quốc về bảo vệ môi trường
biển, Công ước Marpol về phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển do tàu gây
ra, Luật Bảo vệ môi trường biển của Trung Quốc, Luật Quản lý môi trường
biển của Hàn Quốc, Luật Kiểm soát ô nhiễm biển của Đài Loan, Luật phòng
chống ô nhiễm và thiên tai biển của Nhật Bản. Những nội dung chính của dự
thảo Luật đã tham khảo kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với điều kiện của
Việt Nam, cụ thể như sau:
1) Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo
Vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo được quy định
trong 6 điều, từ Điều 37 tới Điều 42. Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là
một nội dung cực kỳ quan trọng của luật pháp liên quan tới quản lý, bảo vệ
môi trường biển, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển của tất cả các nước và
vùng lãnh thổ. Như đã nêu ở trên, các thí dụ về luật pháp các nước đề cập và
giải quyết vấn đề này là Công ước Luật Biển Liên hợp quốc về bảo vệ môi
trường biển, Công ước Marpol về phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển do

tàu gây ra, Luật Bảo vệ môi trường biển của Trung Quốc, Luật Quản lý môi
15


trường biển của Hàn Quốc, Luật Kiểm soát ô nhiễm biển của Đài Loan, Luật
phòng chống ô nhiễm và thiên tai biển của Nhật Bản. Nguyên tắc, nội dung
kiểm soát ô nhiễm môi trường biển được quy định tại nhiều luật của các nước,
như Luật quản lý môi trường biển của Hàn Quốc (Điều 7) quy định về nguyên
tắc trách nhiệm của người gây ô nhiễm; Luật biển Canada quy định về nguyên
tắc phòng ngừa trong kiểm soát ô nhiễm môi trường biển; Luật bảo vệ môi
trường biển của Trung Quốc cũng quy định về các nguyên tắc bảo vệ môi
trường biển nhưng tại các điều khác nhau. Các luật bảo vệ môi trường biển
của các nước Nhật Bản, Đài Loan, Hoa Kỳ có các nguyên tắc tương tự như
trong dự thảo Luật. Các luật liên quan tới quản lý, bảo vệ môi trường biển,
kiểm soát ô nhiễm biển của các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đều có 1 chương về các vấn đề liên quan tới nội
dung kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Một số luật liên quan tới quản lý,
bảo vệ môi trường biển, kiểm soát ô nhiễm biển Canada, Hoa Kỳ nhấn mạnh
nội dung này. Luật Bảo vệ môi trường biển của Trung Quốc (Điều 47), Luật
quản lý vùng bờ của Hàn Quốc, luật Biển Canada, Luật quản lý tổng hợp
vùng bờ của Hoa Kỳ, Luật Kiểm soát ô nhiễm biển của Đài Loan (các Điều
10, 13, 17, 18, 19, 29, 30) Luật Phòng chống Ô nhiễm biển và tai nạn hàng
hải của Nhật Bản (Điều 4), Công ước Marpol (Phụ lục 1), Dự thảo Luật quản
lý tài nguyên biển và vùng bờ của Thái Lan đều quy định rõ những vấn đề
liên quan tới thu gom, xư lý rác thải, nước thải, kiểm soát ô nhiễm môi trường
biển và hải đảo.
2) Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo
Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo là một nội dung
rất quan trọng trong luật pháp và chính sách bảo vệ môi trường biển và hải
đảo của các nước. Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo cho

phép xác định khả năng xảy ra ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, mức độ
thiệt hại do ô nhiễm môi trường biển và hải đảo gây ra để làm cơ sở cho việc
xây dựng các quy định pháp luật và chuẩn bị nguồn lực ứng phó, ngăn chặn ô
16


nhiễm môi trường, giảm thiểu thiệt hại môi trường do ô nhiễm biển gây ra,
tức là giảm rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo tới mức thấp nhất. Các
luật và văn bản dưới luật của các nước và các hướng dẫn của các tổ chức quốc
tế đều có nội dung này. Để thuận tiện cho việc đánh giá rủi ro và lập các bản
đồ rủi ro ô nhiễm môi trường biển, các nước tiên tiến đều có những quy định
về cấp rủi ro ô nhiễm môi trường biển, hải đảo.
3) Đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải
đảo
Vì quản lý tổng hợp là một quá trình lâu dài và liên tục, theo các chu
trình tiến triển, việc đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường
biển và hải đảo là một việc làm rất quan trọng, tạo cơ sở điều chỉnh các chính
sách, pháp luật hiện hành và xây dựng các quy định pháp luật mới phục vụ
bảo vệ tốt hơn môi trường biển và hải đảo. Do vậy, các luật và văn bản dưới
luật của các nước đều có quy định về vấn đề này. Thí dụ về các quy định về
vấn đề này có Luật quản lý môi trường biển của Hàn Quốc (Điều 12), Luật
Bảo vệ môi trường biển của Trung Quốc (Điều 5, Điều 14), Luật Biển Canada
(điều 52). Những nội dung trình bày trong Dự thảo Luật được tổng kết từ kinh
nghiệm nước ngoài và thực tiễn kiểm soát ô nhiễm môi trường biển ở Việt
Nam.
4) Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo
Do tính chất đặc thù của môi trường biển, ngoài báo cáo hiện trạng môi
trường quốc gia cần phải xây dựng Báo cáo hiện trạng môi trường biển. Đây
là một nội dung quan trọng của công tác quản lý, bảo vệ môi trường biển. Tất
cả các luật liên quan tới quản lý, bảo vệ môi trường biển, kiểm soát ô nhiễm

biển của các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Canada, Hoa Kỳ đều có nội dung này.
5) Ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển
Sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển là những sự cố có khả năng
17


gây ô nhiễm và tác hại rất lớn tới môi trường biển và hải đảo. Vấn đề ứng
phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển là một nội dung rất
quan trọng của bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Do biển là không gian liên
thông với sự tồn tại của các quá trình động lực như sóng, dòng chảy nên chất
ô nhiễm lan truyền rất nhanh trên biển và có thể có ảnh hưởng rất rộng lớn. Vì
vậy, việc ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển được
quy định tại rất nhiều luật pháp quốc tế và luật các nước. Nguyên tắc ứng phó,
khắc phục, phân cấp, trách nhiệm ứng phó, xác định thiệt hại, phục hồi môi
trường sau sự cố và trách nhiệm bồi thường sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại
trên biển được quy định trong một số văn bản luật pháp quốc tế và văn bản
pháp luật của một số nước như Công ước Marpol (Phụ lục 1), Công ước quốc
tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992 (Công ước
CLC 1992), Luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển của Đài Loan (Điều 29),
Luật Bảo vệ môi trường biển Trung Quốc (Điều 62), Quy định về kiểm soát ô
nhiễm biển do tàu của Trung Quốc (Điều 4, 19), Luật quản lý môi trường biển
của Hàn Quốc (Điều 5, Điều 7, Điều 22), Luật Bồi thường ô nhiễm dầu Hàn
Quốc (các Điều 5, 6, 7, 8, 30 và nhiều điều khác), Luật Phòng chống Ô nhiễm
biển và tai nạn hàng hải của Nhật Bản (Điều 4) và luật của nhiều nước khác
quy định nội dung này. Việc xác định và thông báo về khu vực hạn chế hoạt
động, tạm đình chỉ hoạt động đối với cơ sở gây sự cố là những nội dung quan
trọng trong ứng phó sự cố, giảm thiểu thiệt hại do sự cố gây ra, được quy định
trong luật pháp của nhiều nước.
Nội dung các quy định trong dự thảo Luật liên quan tới các vấn đề nêu

trên đã được tham khảo luật quốc tế và luật của các nước nêu trên có xem tới
thưicj tiễn của hoạt động này trong thời gian qua tại Việt Nam.
6) Nhận chìm ở biển
Nhận chìm ở biển là một nội dung không thể thiếu trong bảo vệ môi
trường biển và hải đảo. Có rất nhiều chất thải, vật thải như bùn cát nạo vét khi
xây dựng cảng, duy trì luồng tàu, tàu thuyền cũ, hỏng … không thể thải ở trên
18


bờ mà phải nhận chìm ở biển. Do vậy, việc nhận chìm ở biển là cho phép
trong luật pháp quốc tế và trong luật pháp của nhiều nước và vùng lãnh thổ.
Các công ước quốc tế quy định các vấn đề liên quan tới các hoạt động nhận
chìm ở biển là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Công ước về
ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các hoạt động đổ thải ở biển. Quy định trong luật
của các quốc gia và vùng lãnh thổ đều phù hợp với hai công ước trên. Các
quy định về yêu cầu đối với việc nhận chìm ở biển, quy định về vật, chất nhận
chìm ở biển, giấy phép nhận chìm ở biển, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân được cấp Giấy phép nhận chìm ở biển, kiểm tra, giám sát các hoạt động
nhận chìm ở biển, nhận chìm, đổ chất thải ngoài vùng biển Việt Nam gây ảnh
hưởng tới môi trường, hệ sinh thái vùng biển Việt Nam trong dự thảo Luật
được soạn thảo trên cơ sở tham khảo các quy định trong luật pháp của một số
nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Canada, Trung Quốc và phù hợp với các quy
định trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và Công ước về ngăn
ngừa ô nhiễm biển từ các hoạt động đổ thải ở biển.
Chương 7. Quan trắc, giám sát tổng hợp và hệ thống thông tin, cơ sở
dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
Chương này quy định về vấn đề quan trắc, giám sát tổng hợp và hệ
thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, bao
gồm 7 điều, từ Điều 58 đến Điều 64 và bao gồm hai mục như dưới đây.
Mục 1. Quan trắc, giám sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển

và hải đảo
Quan trắc, giám sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là
một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo. Việc quan trắc, giám sát tổng hợp sẽ giúp cung cấp
các thông tin, dữ liệu về hiện trạng tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
trước khi triển khai thực hiện và trong quá trình thực hiện công tác quản lý
tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Các thông tin, dữ liệu thu

19


được trước khi triển khai quản lý tổng hợp sẽ được sư dụng cùng các thông
tin, dữ liệu thu được từ các đề tài nghiên cứu khoa học, dự án điều tra cơ bản
trước đó để phân tích, xác định hiện trạng tài nguyên, môi trường; nhận dạng
và phân tích, xác định thứ tự ưu tiên các vấn đề cần giải quyết theo phương
thức quản lý tổng hợp. Chuỗi thông tin, dữ liệu thu được từ quan trắc, giám
sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thực hiện trong quá trình
quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo sẽ cung cấp các cơ
sở khoa học để đánh giá hiệu quả của chương trình quản lý tổng hợp tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo; trên cơ sở đó xem xét, điều chỉnh các
chính sách và quy định pháp luật hiện hành phục vụ quản lý, hoặc xây dựng
các chính sách, pháp luật mới.
Với tính chất liên thông của biển, để giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi
trường xuyên biên giới và bảo tồn các loài sinh vật biển có khả năng di
chuyển trên những vùng biển rộng, xuyên quốc gia, việc thiết lập và tham gia
các mạng lưới quan trắc, giám sát biển của đại dương khu vực hoặc toàn cầu
là rất cần thiết.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của quan trắc, giám sát tổng hợp tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo, các nước đang áp dụng phương thức
quản lý tổng hợp đối với tài nguyên, môi trường biển, hải đảo và vùng bờ đều

thể chế hóa công tác quan trắc, giám sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển
và hải đảo bằng một hệ thống chính sách, pháp luật. Các chính sách, hướng
dẫn kỹ thuật liên quan tới quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển của
các quốc gia và vùng lãnh thổ đều quy định về hệ thống quan trắc, giám sát tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo cũng như tham gia hệ thống quan trắc,
giám sát biển, đại dương của khu vực và thế giới.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá các kinh nghiệm trên thế
giới về việc thể chế hóa các quy định về hệ thống quan trắc, giám sát tổng hợp
tài nguyên, môi trường biển và hải đảo cũng như tham gia hệ thống quan trắc,
giám sát biển, đại dương của khu vực và thế giới, các quy định trong dự thảo
20


Luật về các yêu cầu quan trắc, giám sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển
và hải đảo, hệ thống quan trắc, giám sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển
và hải đảo và tham gia hệ thống quan trắc, giám sát biển, đại dương của khu
vực và thế giới đã được xây dựng.
Mục 2. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo
Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải
đảo là một trong những cơ sở hạ tầng kỹ thuật rất quan trọng của công tác
quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Hệ thống thông tin,
cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển bao gồm các cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, các phần mềm và cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
sẽ giúp những tổ chức, cá nhân làm công tác quản lý, nghiên cứu khoa học có
thể tiếp cận được các thông tin đầy đủ nhất về hiện trạng và biến động theo
thời gian của tài nguyên, môi trường biển và hải đảo để phục vụ xây dựng
các chính sách, pháp luật nhằm quản lý, khai thác, sư dụng, bảo tồn, bảo vệ
tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, ra các quyết định quản lý và thực hiện
các hoạt động nghiên cứu khoa học.

Nhận thức thấy tầm quan trọng của hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về
tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, các vấn đề liên quan tới xây dựng,
quản lý, chia sẻ thông tin của hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo được thể chế hóa trong chính sách, pháp luật và
các văn bản pháp quy của các quốc gia đang thực hiện quản lý tổng hợp tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo. Các luật liên quan tới quản lý, bảo vệ
môi trường biển và hải đảo, kiểm soát ô nhiễm biển và hải đảo của các nước
và vùng lãnh thổ, thí dụ như Luật Quản lý môi trường biển Hàn Quốc (Điều
11) quy định về mạng lưới thông tin môi trường biển, Luật Quản lý vùng bờ
Hàn Quốc (Điều 37) quy định về xây dựng và quản lý hệ thống thông tin tổng
hợp. Các luật quản lý tổng hợp hoặc các văn bản dưới luật của các quốc gia
cũng quy định rõ những nội dung liên quan tới xây dựng và quản lý hệ thống
21


thông tin tổng hợp về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Các quy định trong pháp luật và văn bản dưới luật, các chính sách quốc
gia về hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải
đảo, các vấn đề liên quan tới xây dựng, quản lý, chia sẻ thông tin của hệ thống
thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được
nghiên cứu, đánh giá và kế thừa, áp dụng vào điều kiện Việt Nam để xây dựng
các quy định trong Luật
Chương 8. Hợp tác quốc tế về tài nguyên, môi trường biển
Chương này có 3 điều từ điều 65 đến điều 67 quy định về nguyên tắc
hợp tác quốc tế về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Hợp tác quốc tế về
quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và Hợp tác quốc tế
về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo với các nước có chung Biển Đông.
Hợp tác quốc tế là một trong những nội dung quan trọng của quản lý
tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo do biển là không gian liên
thông; ô nhiễm biển có thể tác động trên diện rộng; những thay đổi của tài

nguyên, môi trường biển và hải đảo tại một khu vực có thể ảnh hưởng tới tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo tại các khu vực khác. Do vậy, các chính
sách, pháp luật liên quan tới quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo của quốc tế và của nhiều nước đều nhấn mạnh tới nội dung hợp tác
quốc tế về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Một số thí dụ về vấn đề
này là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Luật Quản lý môi
trường biển của Hàn Quốc.
Công ước Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định
cần sự hợp tác quốc tế trong một số hoạt động, cụ thể:
- Hợp tác của các quốc gia trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên
sinh vật biển: Các quốc gia hợp tác với nhau trong việc bảo tồn và quản lý
tài nguyên sinh vật ở biển cả. Các quốc gia có công dân khai thác tài nguyên
sinh vật khác nhau ở trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật
22


giống nhau thương lượng với nhau để có những biện pháp cần thiết trong
việc bảo tồn các tài nguyên đó (Điều 118).
- Hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín và nưa kín (Điều 123):
Các quốc gia ven bờ một biển kín hay nưa kín cần hợp tác với nhau
trong việc sư dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo Công
ước.:
+ Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài
nguyên sinh vật biển
+ Phối hợp trong việc sư dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của
họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển
+ Phối hợp các chính sách khoa học và nếu có thể, thực hiện các
chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét
- Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học biển (điều 242, 243 và
244), có quy định nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế; việc

tạo ra các điều kiện thuận lợi; việc công bố và phổ biến các thông tin và kiến
thức.
- Hợp tác quốc tế trong phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển (Điều
270, 271, 272 và 273), trong đó có quy định về khuôn khổ hợp tác; các
nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và quy phạm; việc phối hợp các chương
trình quốc tế; việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và cơ quan quyền lực
Trong Luật quản lý môi trường biển của Hàn Quốc tại Điều 6 có quy
định việc thúc đẩy hợp tác quốc tế liên quan đến môi trường biển, trong đó
công tác bảo tồn, quản lý môi trường biển và ngăn chặn ô nhiễm biển.
Các quy định trong chính sách, pháp luật quốc tế và các nước về hợp
tác quốc tế về tài nguyên, môi trường biển đã được nghiên cứu, áp dụng vào
điều kiện Việt Nam để xây dựng những quy định về hợp tác quốc tế về tài
nguyên, môi trường biển trong Dự thảo Luật.
23


Chương 9. Trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường
biển và hải đảo
Nội dung chính của quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo là điều phối, phối hợp các hoạt động của các ngành, các cấp chính
quyền và các bên liên quan khác trong quản lý, khai thác, sư dụng tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo. Để điều phối, phối hợp hiệu quả, cần phải phân
định rõ trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
giữa các cấp chính quyền và các ngành, quy định rõ các cơ chế điều phối,
phối hợp trong các văn bản pháp luật. Do vậy, luật pháp và chính sách về
quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đều quy định nội
dung này. Thí dụ, Luật quản lý môi trường biển, Luật quản lý vùng bờ của
Hàn Quốc quy định rất rõ trách nhiệm của chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương trong quản lý môi trường biển. Luật của nhiều quốc gia, thí
dụ như Luật Biển của vương quốc Anh (Điều 61) quy định về báo cáo định kỳ

về quy hoạch biển phục vụ quản lý biển; Luật quản lý môi trường biển của
Hàn Quốc (Điều 63) quy định về báo cáo vị trí xả thải ra môi trường. Các vấn
đề liên quan tới việc phối hợp trong quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo, thanh tra về quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo cũng được quy định trong các chính sách, pháp luật về quản lý tổng
hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và các văn bản dưới luật của các
nước.
Các quy định trong chương VII của dự thảo Luật được xây dựng trên
cơ sở thực tiễn thực hiện công tác này trong thời gia qua ở Việt Nam và tham
khảo những quy định trong luật pháp quốc tế và các nước để áp dụng trên cơ
sở bảo đảm phù hợp với điều kiện Việt Nam.
III. KẾT LUẬN
Các nội dung của các quy định trong dự thảo Luật được xây dựng trên
cơ sở nghiên cứu, tham khảo và kế thừa các quy định trong luật pháp quốc tế

24


×