Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Chứng minh rằng chính sách và pháp luật của nước ta hiện nay về thương mại là chính sách và pháp luật mang tính hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.54 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của
lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng
trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và
tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về
kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị
của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc
của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có
nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU,
AFTA và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Theo
xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là
vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như
sau này. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ
thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách tuy nhiên việc hội
nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình lâu dài và hết sức phức tạp đòi
hỏi nhà nước sử dụng mọi khả năng, biện pháp, cách thức và công cụ hiện có.
Trong đó có một công cụ hết sức quan trọng đó là pháp luật. Suy cho cùng thì sự
thay đổi chuyển sang tiến trình hội nhập của đất nước cũng chính là sự thay đổi,
phát triển và điều chỉnh hệ thống pháp luật của nhà nước. Pháp luật là do nhà
nước ban hành, phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị, được đặt ra để
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Kể từ khi đất nước ta tiến hành đổi mới và hội
nhập (tính từ năm 1986) đến nay, trong lĩnh vực kinh tế chúng ta đã chứng kiến
sự phát triển và thay đổi của hệ thống pháp luật về kinh tế nói chung và hệ thống
chính sách và pháp luật về thương mại nói riêng. Sự thay đổi, phát triển và hoàn
thiện đó đã góp phần quan trọng đưa nước ta hội nhập thành công và đạt được
những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội như hiện nay.
Để làm rõ hơn vấn đề này, bản thân tôi xin chọn đề tài “Chứng minh
rằng chính sách và pháp luật của nước ta hiện nay về thương mại là chính
sách và pháp luật mang tính hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài nghiên cứu


của mình.
Mặc dù bản thân có nhiều cố gắng thực hiện nhưng với sự hiểu biết còn
hạn chế thì không thể không có thiếu sót mắc phải. Em kính mong nhận được
những ý kiến đánh giá của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn và
đem lại những kinh nghiệm cho bản thân em trong những bài viết sau.

1


PHẦN NỘI DUNG
I. ĐƯỜNG LỐI CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ.
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu của nền kinh tế thế giới,
từ thấp đến cao, từ quy mô hẹp đến quy mô ngày càng rộng lớn hơn, đặc biệt là
trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa
đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ. Trước đây, tính chất xã hội hóa của quá trình sản xuất chủ
yếu mới lan tỏa bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá
trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế
quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh
tế quốc gia. Qua đó quan hệ về tư liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể,
dần hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn
lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn.Tình hình này càng đòi hỏi
sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Bởi lẽ các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình
độ quản lý... Ngày nay một mặt do trình độ phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi
phạm vi biên giới quốc gia, lan tỏa ra các quốc gia khu vực và thế giới nói
chung. Mặt khác, tự do hóa thương mại cũng trở thành xu hướng tất yếu, được

xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mỗi quốc gia. Chính vì vậy
hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều
chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương
mại tạo điều kiện cho việc điều chuyển các nguồn lực và hàng hóa tiêu dùng
giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. Không ngừng trao
đổi hàng hóa và dịch vụ, mở rộng sự phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực kinh tế, khoa học – kỹ thuật .....là một nhu cầu không thể thiếu được của đời
sống kinh tế và là một tất yếu khách quan của thời đại, dù đó là nước lớn hay
nước nhỏ, nước công nghiệp phát triển hay kém phát triển, nước theo chế độ tư
bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để
phát triển, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ
trong và ngoài khu vực.Về lâu dài cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn
đề của quốc gia đều phải tính đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu
để đảm bảo được lợi ích phát triển tối ưu của quốc gia.Việt Nam cũng không
nằm ngoài quá trình này. Trong điều kiện hội nhập, quốc gia dù giàu có hoặc
phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của
mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị
2


trường thế giới. Đó là vấn đề mang tính quy luật. Tuy nhiên để hội nhập có hiệu
quả, cần phải có quan điểm nhận thức đúng đắn, nhất quán, cơ chế chính sách
phù hợp, tận dụng tốt cơ hội, không bỏ lỡ thời cơ, giảm thách thức, hạn chế rủi
ro trong quá trình tiến lên của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là thuật ngữ xuất hiện trong vài thập kỷ trở lại
đây nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu về thuật ngữ này. Có ý kiến cho
rằng hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến
hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa
phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các

lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Loạt ý kiến khác cho rằng hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế,
thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Mặc dù còn
nhiều quan niệm khác nhau nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến và
được nhiều nước chấp nhận như sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền
kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu,
trong đó mối quan hệ giữa các quốc gia thành viên có sự ràng buộc theo những
quy định chung của khối. Nói cách khác đây là quá trình các quốc gia thực hiện
mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào cách định chế kinh tế và tài chính
quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do thương mại, đầu tư và các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác1.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu gồm: Đàm
phán cắt giảm thuế quan; Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan; Giảm bớt các
hạn chế đối với dịch vụ; Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế; Điều
chỉnh các chính sách thương mại khác; Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo
dục, y tế.....có tính chất toàn cầu. Hội nhập là kết quả chính trị có chủ đích rõ
ràng nhằm hình thành một tập hợp khu vực để thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị
trường cho sản phẩm, dịch vụ nước mình. Do đó hội nhập là hoạt động chủ quan
của con người, ở đây là các chính phủ nhằm lợi dụng sức mạnh của thời đại để
tăng cường sức mạnh dân tộc mình.
2. Đường lối chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước
trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc. Đảng ta đã đưa ra chủ trương
tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật,
tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội
đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác”. Tại Đại hội lần thứ VII
(năm 1991), Đảng ta đề ra phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”,
1


/>
3


đánh dấu cột mốc quan trọng khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế trong thời kỳ mới, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối
ngoại song phương và đa phương sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
tan rã. Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), với mục tiêu: “Xây dựng một nền
kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”, Nghị quyết của Đảng đã đề cập
đến việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước, tiếp tục đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản
trong nhận thức về nhu cầu cần tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại
hội IX (2001) của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.2
Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị khóa
IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại
hội X (2006), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Giai đoạn
này cũng đánh dấu một trong những sự kiển nổi bật về hợp tác kinh tế quốc tế
khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1/2007.
Tại Đại hội lần thứ XI (2011), Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại của đất
nước trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế”. Để cụ thể hóa chủ trương này, ngày
10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập
quốc tế, trong đó tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế quốc tế của đất nước đã
chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập toàn diện trên các mặt: Kinh
tế; chính trị, khoa học công nghệ và giáo dục, đào tạo.
Gần đây, ngày 5/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban

hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia
các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Nghị quyết 06-NQ/TW xác
định hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; Hội nhập trong
các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh
tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là
lực lượng đi đầu.
Từ khi nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO (năm 2007) đến
nay, tiến trình chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ngày
càng sâu rộng, đạt được nhiều kết quả, khá toàn diện trên các lĩnh vực. Hội nhập
kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển
2

/>
4


kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; Thúc đẩy hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao thu nhập và mức
sống của người dân.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình lâu dài và phức tạp trải qua
nhiều giai đoạn, quá trình trong đó việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật nhất là pháp luật về dân sự, kinh tế giữ vai trò quan trọng, thiết yếu. Nhận
thức được tầm quan trọng đó, ngày 24/5/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 48 – NQ/TW Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 trong đó có nội dung về
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế: “Tiếp tục ký kết, gia
nhập các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín
dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường... Đồng thời, đẩy
mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm

pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên.
Ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc
lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; khẩn trương rà soát, hoàn
thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với ASEAN,
tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào
năm 2020.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hoà giải) phù
hợp với tập quán thương mại quốc tế. Tham gia các điều ước quốc tế đa phương
về tương trợ tư pháp, nhất là các điều ước liên quan tới việc công nhận và cho
thi hành các bản án, quyết định của toà án, quyết định trọng tài thương mại”.
Những quan điểm chỉ đạo của Đảng nêu trên là phương hướng quan trọng
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Đến nay Việt Nam đã cơ bản xây dựng và hoàn thiện được
hệ thống pháp luật đồng bộ, các chính sách và pháp luật về thương mại được
đánh giá là chính sách và pháp luật mang tính hội nhập kinh tế quốc tế.
II. SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM VÀO CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI SONG PHƯƠNG VÀ ĐA PHƯƠNG VỀ THƯƠNG MẠI.
1. Việc đàm phán và ký kết các hiệp định Thương mại tự do (FTA):
Theo quan niệm truyền thống, hiệp định thương mại tự do (FTA) là một
thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do
hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm
thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
giữa các thành viên. Sự ra đời, phát triển của FTA gắn liền với quá trình phát
triển của thương mại thế giới. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, nhìn chung
5


buôn bán trên thế giới phát triển tự do. Bối cảnh thế giới sau chiến tranh, nhất là
sau cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 và tiếp đến cuộc chiến tranh thế giới thứ

hai đã tác động mạnh đến hoạt động thương mại quốc tế. Để khôi phục nền kinh
tế, nhiều quốc gia đã xác lập các hàng rào thuế để bảo vệ thị trường nội địa trước
sự xâm nhập của hàng hóa bên ngoài có khả năng cạnh tranh cao hơn. Các quốc
gia gần gũi về địa lý thực hiện các thỏa thuận trong giao dịch thương mại, tạo
các ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế, thúc đẩy thương mại tự do, hợp tác
kinh tế và đầu tư. Để đẩy mạnh quá trình hội nhập hóa, Việt Nam đã tích cực và
chủ động đàm pháp ký kết FTA với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Tính đến
nay, Việt Nam đã phê chuẩn 10 FTA song phương và đa phương với các đối tác
trong khu vực và trên thế giới, bao gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA) và 5 FTA ASEAN +1 (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New
Zealand; 4 FTA song phương giữa Việt Nam với Nhật Bản (VJEPA), với Hàn
Quốc (KVFTA), với Chile (VCFTA) với Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEUFTA).
Việt Nam cũng đã kết thúc đàm phán FTA với EU (EVFTA), cùng ASEAN ký
FTA với Hong Kong vào tháng 11/2017. Ngoài ra, còn có một số FTA khác Việt
Nam đang trong quá trình đàm phán3.
Việc thực thi các FTA nói trên đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh
tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá
trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực,
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tranh thủ vốn
đầu tư, công nghệ tri thức, kinh nghiệm quản lý, tạo thêm nhiều việc làm, thu
nhập cho người dân.
2. Việc tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1 tháng 1
năm 1995 và là một bước phát triển toàn diện của Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT). WTO quản lý các Hiệp định thương mại do các Thành
viên ký kết, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT),
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPs). Các quy định và thủ tục của WTO tạo ra một khuôn khổ cho việc
trao đổi hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Các nguyên tắc và quy định được
các Thành viên đàm phán thông qua các cuộc thảo luận chính thức và không

chính thức khác trong các diễn đàn khác nhau của WTO và các vòng đàm phán
thương mại đa phương định kỳ như Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển hiện
nay (DDA). Nhận thức rõ những tác động của WTO sẽ đem lại cho Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tháng 1/1995 Việt Nam nộp đơn xin gia
nhập WTO, trải quan 12 năm đàm phán đến ngày 11/01/2007 Việt Nam được
WTO chính thức kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ chức này. Khi gia nhập
3

/>
6


WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước
thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ,
không bị phân biệt đối xử; việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch
các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt
Nam ngày càng được cải thiện;Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành
viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để
đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có
điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp; việc hội nhập vào
nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho
tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Việc trở thành thành viên chính thức của WTO (năm 2007) đánh dấu bước
tiến lớn, là dấu mốc quan trọng của nước ta trên con đường hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước. Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, đạt được nhiều kết
quả, khá toàn diện trên các lĩnh vực.
3. Việc hoàn tất đàm phán, thông qua và phê chuẩn Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Ngày 8/3, tại Santiago, Chile, 11 quốc gia, gồm: Úc, Brunei, Canada,

Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam
đã chính thức ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương gọi tắt là CPTPP. Đây là kết quả đạt được của các nước bên lề Diễn đàn
Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra ở Đà Nẵng vào tháng 11
năm 2017. Ngày 12/11/2018, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã biểu quyết
thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP hay TPP-11) cùng các văn kiện liên quan do đó Việt
Nam là nước thứ 7 thông qua Hiệp định. Như sau sau ngày 30/12/2018 thì
CPTPP sẽ chính thức có hiệu lực thi hành.
Hiệp định TPP gồm 30 Chương và 9 Phụ lục điều chỉnh nhiều vấn đề từ
thương mại truyền thống đến các vấn đề ít truyền thống hơn như mua sắm của
các cơ quan Chính phủ, thương mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước và mở rộng
ra cả các vấn đề được coi là phi truyền thống trong đàm phán, ký kết các FTA
như lao động, môi trường, chống tham nhũng trong thương mại và đầu tư. Mặc
dù các nước thành viên CPTPP đã quyết định tạm hoãn áp dụng một số nhóm
nghĩa vụ được coi là có mức độ cam kết cao nhưng về tổng thể, Hiệp định
CPTTP vẫn được đánh giá là một FTA chất lượng cao và toàn diện với mức độ
cam kết sâu nhất từ trước đến nay. Việc tham gia và sớm phê chuẩn Hiệp định
CPTPP giúp nước ta thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng; khẳng định vai trò và vị thế địa - chính trị quan
7


trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á - Thái Bình
Dương, thực sự nâng cao vị thế của nước ta trong khối ASEAN, trong khu vực
cũng như trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình chính trị-an
ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó
lường, tham gia CPTPP vừa giúp Việt Nam có điều kiện nâng cao nội lực để ứng
phó, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh.

Hiệp định CPTPP khi đi vào triển khai sẽ góp phần tăng cường sự đan xen lợi
ích, làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành viên
CPTPP, đặc biệt là các nước thành viên có quan hệ đối tác chiến lược với nước
ta. Cùng với việc tham gia vào tổ chức Thương mại thế giới thì việc tham gia
CPTPP là cột mốc đáng nhớ, đánh dấu sự hội nhập sâu rộng rộng trong các quan
hệ kinh tế quốc tế đối với nước ta.
III. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
MANG TÍNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
1. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế và vai trò của pháp luật đối
với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội.
Nó là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, nó
cũng là công cụ có hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, chứa
đựng những chuẩn mực chung được số đông trong xã hội ủng hộ.
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa con người và xã
hội, liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các
loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Cũng có thể hiểu,
kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các
mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy
cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
Là một trong những yếu tố của thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật
cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế - yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng. Trong đó,
kinh tế giữ vai trò quyết định đối với pháp luật. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại
và phát triển của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng có tính độc lập tương đối
và có sự tác động mạnh mẽ tới kinh tế.
Với đặc điểm riêng biệt của mình, pháp luật là phương tiện quan trọng
nhất để nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Pháp luật có khả
năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách thống nhất,

nhanh chóng và có hiệu quả trên quy mô rộng lớn nhất. Nhờ vào pháp luật, nhà
8


nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình. Trong tổ chức và quản lý kinh
tế, pháp luật lại càng có vai trò to lớn. Nó góp phần tích cực vào việc tổ chức,
quản lý và điều tiết nền kinh tế, cụ thể ở một số điểm quan trọng sau:
- Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình
thức sở hữu, chính sách tài chính…, qua đó góp phần vào việc sắp xếp, cơ cấu
các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng trưởng và ổn định, cân đối nền kinh tế.
Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị chi
phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, nhân tố
sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để đường lối, quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng
phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước,
dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Thông qua pháp luật, Nhà
nước hoạch định các chính sách kinh tế, trật tự hóa các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các tổ chức và cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế phát triển
theo những mục đích mong muốn. Chính sách kinh tế của nước ta hiện nay được
xác định trong điều 15 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Nhà
nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức
tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Chính sách kinh tế của Nhà nước ta luôn hướng tới mục đích làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng ngày càng tốt hơn

nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.Thông qua pháp luật, nhà nước ta xác
định các hình thức sở hữu trong xã hội, từ đó tác động tới quan hệ sở hữu, đặc
biệt là sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản xuất xã hội. Đối
với nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay, pháp luật cũng đã có những
điều chỉnh mang tính định hướng phù hợp với hoàn cảnh kinh tế đất nước.
Chẳng hạn, việc quy đinh về các hình thức sở hữu trong xã hội được thể chế
trong chương II Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Việc thừa
nhận kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
của nước ngoài dưới nhiều hình thức, bên cạnh việc củng cố, khẳng định vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thông qua pháp luật là một bước đi
phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn đổi mới. Trước tình hình hội
nhập với quốc tế, việc điều chỉnh trong pháp luật đã giúp nước ta phá bỏ được
9


nhiều trở ngại trong tiến trình phát triển nền kinh tế của đất nước cũng như trong
các quan hệ hợp tác kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
- Pháp luật thể chế hóa các chính sách kinh tế của nhà nước, điều chỉnh
các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự và thủ tục ký kết các hợp đồng kinh tế,
trình tự và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các chủ thể. Thông qua các quy định đó, việc tổ chức và
quản lý nền kinh tế của Nhà nước mới có hiệu quả, giúp cho kinh tế tăng trưởng
trong sự ổn định, cân đối. Nó biến các nhu cầu sản xuất, kinh doanh thành quyền
pháp định và thậm chí cao hơn là quyền Hiến định. Nhu cầu kinh doanh cũng
như sản xuất trong nền kinh tế là nhu cầu mang tính xã hội, vì vậy, việc biến
những nhu cầu xã hội này thành quyền Hiến định hay pháp định là tiền đề để
thúc đấy kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, việc thể chế kinh tế thông qua pháp luật đóng vai trò
quan trọng trong việc định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức
và hoạt động của nền kinh tế. Nó góp phần đồng bộ hoá hệ thống thị trường,

từng bước hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền kinh tế thị trường
nước ta. Không chỉ vậy, pháp luật còn tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế
những khuyết tật của kinh tế thị trường. Bên cạnh những mặt tích cực là tạo ra
cơ chế năng động, sáng tạo và hiệu quả thì cũng tồn tại những mặt tiêu cực như
chạy theo lợi nhuận mà quên đi mục tiêu xã hội, phân hóa giàu nghèo… thông
qua hệ thống pháp luật, hệ thống các chính sách mà nhà nước ta có thể điều
chỉnh, hạn chế các mặt tiêu cực đó.
2. Sự phát triển và thay đổi của Luật thương mại Việt Nam là sự phát
triển và thay đổi nhằm đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Luật Thương mại đầu tiên đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 10 tháng 5 năm 1997, có hiệu lực từ ngày
01 tháng 01 năm 1998. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao nhất từ trước đến nay quy định thống nhất về hoạt động thương mại trên
lãnh thổ Việt Nam. Qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Thương mại năm 1997 đã có
những tác động tích cực đến đời sống kinh tế – xã hội của Việt Nam, từng bước
đưa hoạt động thương mại vào nề nếp, khuyến khích và phát triển hoạt động
thương mại hợp pháp, ngăn chặn và xử lý các hành vi bất hợp pháp gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường thương mại. Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế
- xã hội và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì Luật thương mại 1997 bộc lộ
những hạn chế, kìm hãm quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta, trong đó
phải kể đến một số lý do sau:

10


- Thứ nhất: Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nhiều hiệp định song phương và điều ước
quốc tế đa phương đã và đang được ký kết hoặc gia nhập, trong đó đặc biệt là
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ (BTA). Thời điểm đó, Việt Nam cũng

đang thực thi các cam kết trong ASEAN và đẩy mạnh việc đàm phán gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với mục tiêu sớm trở thành thành viên
của tổ chức này. Do đó, việc thu hẹp sự không tương thích giữa pháp luật
thương mại của Việt Nam và pháp luật thương mại quốc tế là một ưu tiên hàng
đầu. Một số nội dung của Luật Thương mại năm 1997 chưa phù hợp, không thể
hiện kịp thời các quy định của BTA và WTO, thiếu cơ sở pháp lý cho việc thực
hiện các cam kết trong BTA nói riêng và qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung (ví dụ cùng một số quy định mang tính phân biệt đối xử chưa hợp lý,
thiếu quy định liên quan đến một số vấn đề quan trọng như quyền kinh doanh
xuất nhập khẩu, xuất xứ hàng hóa, qúa cảnh hàng hóa). Bên cạnh đó, quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động mua bán hàng hoá, trong đó có mua
bán hàng hóa quốc tế, theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 cũng chưa
tương thích với điều ước và tập quán thương mại quốc tế đã được thừa nhận
rộng rãi trên thế giới như Công ước Viên năm1980 về mua bán hàng hoá quốc
tế, tập quán theo Incoterms về nghĩa vụ của bên bán hàng, bên mua hàng, về thời
điểm chuyển rủi ro.
- Thứ hai: Sau khi Luật Thương mại năm 1997 ban hành, nhiều văn bản
quy phạm pháp luật mới được ban hành và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự
phát triển của hoạt động thương mại. Do đó, nhiều chế định của Luật Thương
mại năm 1997 đã trở nên không phù hợp (ví dụ sự chồng chéo với Luật Doanh
nghiệp về địa vị pháp lý của thương nhân, không tương thích với Pháp lệnh
Trọng tài Thương mại về khái niệm hoạt động thương mại …).
Luật Thương mại năm 1997 có những nội dung không đáp ứng được quá
trình vận động của thực tiễn thương mại, ví dụ như các quy định liên quan đến
chính sách thương mại. Phải khẳng định rằng việc có những điều về chính sách
thương mại trong Luật Thương mại năm 1997 là một bước đột phá trong việc
chuyển hướng các chính sách thương mại của Việt Nam khi nền kinh tế của
chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, việc quy định những chính
sách thương mại trong Luật cũng thể hiện sự bất cập là làm cho chính sách trở
nên cứng nhắc, khó có thể điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với điều kiện kinh tế

– xã hội của từng thời kỳ trong khi Luật lại không thể chế hóa cụ thể các chính
sách đó.
Chính vì vậy Luật thương mại 1997 cần phải được sửa đổi để phù hợp với
thực tiễn phát triển của đất nước và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
mạnh mẽ của nước ta. Trên cơ sở đó Luật thương mại 2005 được tiến hành xây
11


dựng để thay thế Luật thương mại 1997 trên cơ sở quán triệt sâu sắc những
nguyên tắc chỉ đạo sau đây:
(1) Bảo đảm thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng
chính sách, pháp luật thương mại tạo điều kiện phát triển thị trường hàng hóa và
dịch vụ là vấn đề trọng tâm.
(2) Tôn trọng và phát huy quyền tự do hoạt động thương mại của cá nhân,
pháp nhân.
(3) Phù hợp với các nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự, trong đó nguyên tắc
tôn trọng tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được xác định là nền tảng của
hoạt động thương mại.
(4) Phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về thương mại,
trong đó Luật Thương mại điều chỉnh những nguyên tắc, định chế chung của
thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ.
(5) Bảo đảm sự phù hợp với các điều ước quốc tế về thương mại mà Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập và pháp luật, tập quỏn thương mại quốc tế.
(6) Bảo đảm tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước
nhưng không gây cản trở cho hoạt động thương mại hợp pháp trên thị trường.
Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hũa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 thỏng 6 năm 2005.
Ngày 27 thỏng 6 năm 2005, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 10/2005/L/CTN công
bố ban hành. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006.

Luật Thương mại năm 2005 gồm 9 chương, 324 điều (Luật Thương mại
năm 1997 có 6 chương, 264 điều), trong đó có 96 điều trong Luật Thương mại
năm 1997 được bãi bỏ, 149 điều được sửa đổi và 143 điều được bổ sung mới. bố
cục của Luật Thương mại năm 2005 gần như đã được thay đổi hoàn toàn so với
Luật Thương mại năm 1997. Sự đổi mới đó chủ yếu là do việc mở rộng phạm vi
điều chỉnh của Luật, không chỉ điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa mà
còn điều chỉnh cả các hoạt động cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại. Các
nhóm hoạt động thương mại cùng tính chất được tập hợp trong chương riêng
như Chương IV "Xúc tiến thương mại" hay Chương V "Các hoạt động trung
gian thương mại".
Nhìn chung nội dung của Luật thương mại 2005 so với Luật thương mại
1997 đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và thể hiện những nội dung mới của
luật thể hiện rõ xu hướng hội nhập nền kinh tế quốc tế của Việt Nam, tiêu biểu
như như các quy định về:

12


Về phạm vi điều chỉnh: phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm
2005 được mở rộng phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, theo hướng Luật
Thương mại xác định hoạt động thương mại theo nghĩa rộng và đưa ra quy định
khung cho các hoạt động này. Đối với các hoạt động mua bán hàng hóa và các
hoạt động thương mại gắn liền và phục vụ trực tiếp cho mua bán hàng hóa, Luật
Thương mại năm 2005 đưa ra những chế định cụ thể. Những hoạt động thương
mại khác chưa được quy định cụ thể trong Luật Thương mại năm 2005 sẽ được
các luật chuyên ngành quy định.
Về đối tượng áp dụng: Luật Thương mại năm 2005 được áp dụng đối với
thương nhân hoạt động thương mại, tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên
quan đến thương mại. Riêng đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh thì căn cứ vào những

nguyên tắc của Luật này, Chính phủ sẽ có quy định cụ thể sau. Đối tượng áp
dụng của Luật Thương mại 2005 không chỉ dừng lại ở các thương nhân hoạt
động thương mại tại Việt Nam mà còn cả những thương nhân có hoạt động
thương mại tại nước ngoài (mà các bên thỏa thuận áp dụng Luật này hoặc luật
nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định áp dụng Luật này).
Đối tượng áp dụng của Luật này còn được mở rộng ra đối với những đối
tượng không phải là thương nhân khi có hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm
mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.
Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Điều 6).
Về những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại: Luật Thương
mại năm 2005 quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại phù
hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng như thực tiễn hoạt động
thương mại tại Việt Nam. Một trong những điểm mới của Luật Thương mại năm
2005 là đã xác định rõ ràng vị trí của Luật Thương mại năm 2005 trong hệ thống
pháp luật. Cụ thể là, trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật
Thương mại năm 2005 được xác định là luật chuyên ngành, còn trong mối quan
hệ với các luật quy định các hoạt động thương mại đặc thù thì Luật Thương mại
năm 2005 được xác định là luật chung.
Về thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam: Luật
Thương mại năm 2005 xác định các hình thức và quyền hoạt động thương mại
của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Luật Thương mại năm 2005 đã dành
13


hẳn một mục trong Chương I để quy định về quyền, nghĩa vụ của văn phòng đại

diện, chi nhánh, doanh nghiệp thương mại có vốn đầu tư nước ngoài và thẩm
quyền cấp phép cho các chủ thể này. So với Luật Thương mại năm 1997, Luật
Thương mại năm 2005 bổ sung thêm 2 hình thức hiện diện thương mại bao gồm
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài bên cạnh hình
thức chi nhánh, văn phòng đại diện. Sự bổ sung này là phù hợp với quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết như BTA.
Tất cả các nội dung mang tính quy định chung nêu trên được cụ thể hóa
trong các quy định thuộc các chương tiếp theo của Luật thương mại 2005, tạo
điều kiện thuận lợi để các hoạt động thương mại trong nước và quốc tế phát triển
và phù hợp với các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết và các hiệp định thương
mại chúng ta đã tham gia. Sau khi luật Thương mại 2005 được ban hành, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 187/2013/NĐ – CP ngày 20/11/2013 Quy định chi
tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các
hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Đây
là những căn cứ pháp lý quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động
ngoại thương, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động xuất, nhập khẩu góp phần
đưa nước ta hội nhập sâu với thế giới trong lĩnh vực thương mại. Trải qua thời
gian hơn 12 năm thi hành Luật thương mại 2005, đến nay chúng ta thấy rằng
Hoạt động ngoại thương trong thời gian qua diễn ra sôi động và có những đóng
góp lớn cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế. Công tác quản lý nhà nước về ngoại thương đã chặt chẽ, thông
suốt, minh bạch và hiệu quả hơn, song quá trình hội nhập mạnh mẽ của nền kinh
tế khiến cho chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực này bộc lộ
một số điểm chưa hoàn chỉnh, cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể là:
Thứ nhất, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan
chưa thể hiện rõ yêu cầu hội nhập, công tác quản lý nhà nước về ngoại thương
chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Do đó, bên cạnh việc đẩy mạnh tự do hóa
thương mại, quản lý nhà nước về ngoại thương phải bảo đảm hiệu quả, chặt
chẽ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp hợp lý, phù hợp với các
cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ hai, những bất cập của hệ thống pháp luật ngoại thương hiện hành và
những yêu cầu về hoàn thiện pháp luật về ngoại thương bao gồm:
(i) Sự trùng lắp, chồng chéo: Có quá nhiều các văn bản quy phạm pháp
luật cùng quy định quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương dẫn đến tản
mát, thiếu sự đồng bộ, thống nhất về cùng một biện pháp; một số văn bản có quy
định về cùng một vấn đề nhưng khác nhau về nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền,
biện pháp xử lý. Do vậy, cần quy định thống nhất hoạt động quản lý nhà nước về
14


ngoại thương theo hệ thống các biện pháp quản lý, nguyên tắc, thẩm quyền áp dụng
trong đó bao gồm việc pháp điển hóa các quy định hiện đang được quy định ở cấp
Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng nhưng
xét thấy cần thiết phải quy định rõ các nguyên tắc, thẩm quyền trong Luật.
(ii) Sự minh bạch chưa cao: Việc có quá nhiều văn bản cùng quy định
hoạt động ngoại thương dẫn đến sự thiếu minh bạch, rủi ro cho tổ chức, cá nhân
trong áp dụng chính sách quản lý hàng hóa (ví dụ như không có danh mục hàng
hóa cấm thống nhất mà mỗi luật và các văn bản hướng dẫn có quy định về
cấm..). Bên cạnh đó, nhiều biện pháp quản lý ngoại thương được quy định ở
hình thức văn bản dưới luật thiếu minh bạch, hạn chế, cản trở quyền tự do kinh
doanh của tổ chức, cá nhân theo tinh thần Hiến định.
(iii) Tính ổn định, dự báo còn thấp: Luật Thương mại 2005 được xây
dựng và ban hành trong bối cảnh đất nước ta đang đàm phán gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), quy định quản lý nhà nước về ngoại thương có tính
chất khung, chủ yếu được quy định ở Nghị định của Chính phủ, Thông tư của
các Bộ về một số biện pháp quản lý nhà nước cụ thể đối với hoạt động ngoại
thương (việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu,
các biện pháp chỉ định cửa khẩu, thương nhân, các biện pháp hỗ trợ hoạt động
ngoại thương, giải quyết tranh chấp trong ngoại thương ...). Việc không có quy
định cụ thể các biện pháp quản lý ngoại thương tại Luật dẫn đến tính ổn định,

tính dự báo của các biện pháp này chưa cao. Do đó, Luật cần phải quy định rõ
ràng hệ thống, nguyên tắc, thẩm quyền áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước
về ngoại thương, các quyền, nghĩa vụ mà thương nhân kinh doanh xuất khẩu,
nhập khẩu phải thực hiện với Nhà nước cũng như hiện thực hóa tinh thần “cơ
quan Nhà nước chỉ được thực hiện những gì pháp luật cho phép”.
Ngoài ra, còn một số các quy định quản lý nhà nước về hoạt động ngoại
thương đang hiện hữu trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật nhưng đã
đủ điều kiện để luật hóa theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật như 03 Pháp lệnh liên quan đến các biện pháp phòng vệ thương mại,
hoạt động thương mại biên giới, quyền hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch
vụ của thương nhân, thương nhân không có hiện diện tại Việt Nam...
Thứ ba, sau khi Luật Thương mại 2005 và các văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành được ban hành, Việt Nam đã trở thành thành viên của
WTO cùng nhiều các hiệp định thương mại tự do khác (như Liên minh kinh tế Á
Âu, Cộng đồng kinh tế ASEAN, EVFTA, TPP…). Do đó, Luật phải được hoàn
thiện để phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thúc đẩy
quá trình hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới.

15


Thứ tư, cơ chế quản lý ngoại thương hiện hành đang tạo ra những rào cản
về thủ tục hành chính, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy,
Luật cần được xây dựng trên nguyên tắc và theo quan điểm chỉ đạo là cải cách
thủ tục hành chính, duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi theo hướng hệ thống
hóa, hài hòa hóa các thủ tục hành chính có liên quan.
Thứ năm, các biện pháp hỗ trợ phát triển hoạt động ngoại thương cần
những cơ sở pháp lý ở mức cao nhằm thể hiện quan điểm hỗ trợ ngoại thương
của Nhà nước nhằm tận dụng tối đa các ưu thế, ưu đãi trong các khuôn khổ
thương mại song phương, đa phương mà Việt Nam là thành viên.

Từ những vấn đề đặt ra nêu trên, ngày 12 tháng 6 năm 2017, Quốc hội
khóa 14 đã ban hành Luật quản lý ngoại thương gồm 8 Chương, 113 Điều, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 quy định về biện pháp quản lý ngoại
thương, phát triển hoạt động ngoại thương; giải quyết tranh chấp về áp dụng
biện pháp quản lý ngoại thương.
Luật quản lý ngoại thương được ban hành cho thấy một bước tiến quan
trọng của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ đây hoạt động
quản lý ngoại thương có tính định hướng rõ ràng, phù hợp với quan điểm của
Đảng, Nhà nước, ổn định, minh bạch, thống nhất, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế. Điều đó thể hiện qua những định hướng cơ bản của luật cụ thể như sau:
(1) Luật quản lý ngoại thương đã thể chế hóa chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về quản lý, phát triển hoạt động ngoại thương
Luật Thương mại và nhiều đạo luật có liên quan đến hoạt động quản lý
ngoại thương cung hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã phản ánh được
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn vừa qua đối với
hoạt động ngoại thương. Theo đó, hệ thống pháp luật về ngoại thương về cơ bản
đã phục vụ tốt công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua,
đồng thời góp phần thực hiện chủ trưởng của Đảng về đẩy mạnh xuất khẩu, chủ
động về nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Do đó,
Luật Quản lý ngoại thương trước tiên được xây dựng trên nền tảng chính sách
ngoại thương tương đối ổn định của chúng ta trong thời gian qua, đồng thời phải
phản ánh được những thay đổi trong chủ trương, chính sách ngoại thương của
Đảng, Nhà nước trong thời kỳ mới.
(2) Luật quản lý ngoại thương là đạo luật chủ đạo điều chỉnh hoạt
động quản lý ngoại thương thông qua việc đảm bảo quy định bao quát tất cả
biện pháp quản lý ngoại thương; quy định cơ chế mở cho việc sử dụng, ban
hành các biện pháp quản lý ngoại thương mới trong thương lai để đảm bảo
tính linh hoạt trong việc xây dựng chiến lược ngoại thương và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này
16



Với mong muốn khắc phục tình trạng tản mát, thiếu thống nhất hiện nay
của hệ thống pháp luật ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương được xây dựng
với định hướng trẻ thành một đạo luật chủ đạo trong quản lý điều hành hoạt
động ngoại thương. Các biện pháp quản lý ngoại thương hiện hành được thể
hiện trong quy định của Luật, các biện pháp quản lý ngoại thương mới cũng
được tính đến và được quy định hợp lý. Ngoài ra, tính biến động nhanh chóng
của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trên thị trường đặt ra yêu cầu về tính linh
hoạt trong công tác quản lý ngoại thương, vì vậy Luật Quản lý ngoại thương đã
có các quy định mang tính chất mở làm cơ sở pháp lý cho việc ban hành các
biện pháp, chính sách quản lý ngoại thương trong từng giai đoạn cụ thể. Theo
đó, Luật Quản lý ngoại thương đã có các quy định nhằm tạo hành lang pháp lý
cho Chính phủ, các Bộ ngành liên quan ban hành các quy phạm pháp luật liên
quan đến các biện pháp quản lý ngoại thương mới khắc phục được tình trạng
thiếu cơ sở pháp lý cho việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật
của Chính phủ và các bộ, ngành trong thời gian qua.
(3) Việc ban hành Luật quản lý ngoại thương đã hoàn thiện, nâng cao
hiệu lực pháp lý về các biện pháp phòng vệ thương mại để thực thi có hiệu
quả các biện pháp này
Các biện pháp phòng vệ thương mại là công cụ hữu hiệu và hợp pháp mà
Việt Nam có thể sử dụng để vừa bảm đảm sự cạnh tranh lành mạnh của hàng
hóa nhập khẩu trong thị trường nội địa, hạn chế nhập siêu, đồng thởi bảo vệ nền
sản xuất non trẻ trong nước cũng như lợi ích người tiêu dùng. Do đó, việc hoàn
thiện, nâng cao hiệu lực pháp lý và thực thi hiệu quả các biện pháp này là yêu
cầu cấp thiết, phù hợp với chủ trương của Đảng đã đề ra tại văn kiện Đại hội lần
thứ XII.
(4) Hoàn thiện, bổ sung các quy định liên quan đến biện pháp phát
triển hoạt động ngoại thương để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam, doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Sức cạnh tranh của hàng hóa không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của
hàng hóa đó mà còn chịu tác động rất lớn từ mức độ hiệu quả của các chính
sách, biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương mà Nhà nước và doanh
nghiệp áp dụng. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu, thông tin về thị trường,
nguồn hàng, xuất xứ, hệ thống chính sách, pháp luật,… liên quan đến sản xuất,
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa là vô cùng quan trọng, quyết định đến lợi thế
cạnh tranh của các loại hàng hóa. Có thể nói, các biện pháp phát triển hoạt động
ngoại thương mặc dù hiện nay đang được nhiều cơ quan, tổ chức chính phủ, phi
chính phủ thực hiện nhưng tính pháp lý, tính hệ thống và tính liên kết chưa cao,
do đó chưa trở thành một biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy ngoại thương phát
17


triển. Luật Quản lý ngoại thương sau khi được ban hành đã giải quyết được yêu
cầu này.
(5) Luật quản lý ngoại thương đã hệ thống hóa, pháp điển hóa đến mức
có thể các quy định pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương hiện hành,
nội luật hóa các điều ước quốc tế trong chừng mực nhất định
Với tư cách là một đạo luật chủ đạo quy định về các biện pháp quản lý
ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương đã đáp ứng được các yêu cầu: (1) hệ
thống hóa được các quy định chủ yếu về quản lý hoạt động ngoại thương hiện
đang tồn tại ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; (2) thực hiện công tác
pháp điển hóa – có chính sửa, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện
hành đảm bảo phù hợp hơn và (3) nội luật hóa đến mức có thể các điều ước quốc
tế trong lĩnh vực kinh tế mà Việt Nam là thành viên. Luật Quản lý ngoại thương
là văn bản pháp lý điều chỉnh bao trùm lĩnh vực quản lý hoạt động ngoại
thương, tạo tiền đề cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật ngoại thương
thống nhất, hiệu lực thực thi cao.
Tự do hóa thương mại, mặc dù vẫn là xu thế không thể đảo ngược của các
quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, chính sách thương mại quốc tế của các nước

thời gian vừa qua đang chứng kiến các xu thế có phần trái ngược nhau. Một mặt
các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đẩy mạnh việc tự do hóa thương mại thông
qua việc ký kết, gia nhập các hiệp định thương mại tự do song phương và khu
vực trong bối cảnh vòng đàm phán Doha trong khuôn khổ WTO đang rơi vào bế
tắc. Mặt khác, khủng khoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008 đã đặt
ra mối lo ngại về xu hướng quay lại các chính sách bảo hộ thị trường nội địa của
một số quốc gia trên thế giới. Trong đó đáng kể nhất là việc sử dụng các biện
pháp bảo hộ trá hình dưới các hình thức như chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ và
đặc biệt là các hàng rào kỹ thuật được sử dụng như là một trong những biện
pháp hữu hiệu để ngăn cản hàng nhập khẩu. Dường như việc vừa tự do hóa
thương mại vừa sử dụng các biện pháp được coi là hợp pháp để bảo hộ thị
trường nội địa là điểm nhấn trong chính sách thương mại của nhiều quốc gia trên
thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Việc áp dụng các rào cản thương mại đối với hàng nhập khẩu không phải
bao giờ cũng vì mục đích bảo hộ, các rào cản này trong nhiều trường hợp là cần
thiết để bảo vệ các lợi ích quốc gia về mặc sức khỏe cộng đồng, môi trường
sống, cân bằng cán cân thanh toán… Đặc biệt vấn đề tự do hóa thương mại hiện
nay luôn được gắn chặt với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường sống.
Điều này có nghĩa là các quốc gia đều tính đến sự cân bằng lợi ích giữa phát
triển một chính sách thương mại tự do và lợi ích bảo vệ môi trường và sức khỏe
của cộng đồng.
18


Do đó, các đặc điểm quan trọng này trong chính sách thương mại của các
nước trên thế giới sẽ được phản ánh trong Luật Quản lý ngoại thương. Một mặt,
Luật Quản lý ngoại thương sẽ tạo ra một cơ chế linh hoạt trong việc ứng phó với
các hàng rào đối với hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài. Mặt khác, Luật Quản
lý ngoại thương có tính đến mục tiêu bảo vệ thị trường nội địa, bảo vệ các lợi
ích quốc gia về môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Như vậy, bối cảnh thương mại quốc tế đòi hỏi chúng ta cần tăng cường sử
dụng biện pháp quản lý ngoại thương hiện có cũng như sử dụng các biện pháp
quản lý ngoại thương mới để đảm bảo điều hành một cách linh hoạt và hiệu quả
động ngoại thương. Trong bối cảnh hoạt động ngoại thương và thực trạng quản
lý nhà nước về ngoại thương hiện nay, việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý
ngoại thương đã giải quyết được những yêu cầu đó.
IV. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VỚI YÊU CẦU CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG
MẠI TỰ DO (FTA) THẾ HỆ MỚI.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại được tiến
hành đồng thời bởi các thỏa thuận theo hướng đa phương và các thỏa thuận theo
hướng song phương. Song sự bế tắc của vòng đàm phán Đô-ha cũng tạo động
lực để các quốc gia có xu hướng quay sang kí kết các FTA, dẫn đến sự gia tăng
mạnh mẽ của các FTA trong những thập niên gần đây. FTA thúc đẩy thương mại
tự do, hợp tác kinh tế và đầu tư, ưu việt hơn WTO ở khả năng dễ đạt đồng thuận
và lĩnh vực bao quát rộng hơn so với WTO… Trong tiến trình đó, nếu như các
FTA thế hệ đầu tập trung vào tự do hóa thương mại hàng hóa hữu hình, thông
qua cắt giảm thuế quan và cùng nhau thỏa thuận loại bỏ các rào cản phi thuế
quan, thì các FTA giai đoạn hiện nay còn chứa đựng cả các nội dung, yêu cầu
mới mà trong khung khổ GATT/WTO chưa có quy định. “Phạm vi cam kết của
FTA này còn bao gồm những lĩnh vực, như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động
đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan,
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu
chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề
dân chủ, nhân quyền hay chống khủng bố... Các FTA với các nội dung mới như
vậy chính là thế hệ thứ ba, mà hiện nay thường được gọi là “FTA thế hệ mới”.
Không nằm ngoài khuôn khổ của các FTA thế hệ mới, Việt Nam đã kí kết Hiệp
định Thương mại với các đối tác kinh tế như đã phân tích ở phần trên. Có thể
nói, hội nhập đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội cũng như thách thức không

nhỏ đối với hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam, đồng thời, đặt ra không ít
yêu cầu tổng thể cũng như cụ thể hoàn thiện pháp luật thương mại.
1. Những rào cản đối với thương nhân và hiện diện của thương nhân.
19


Gần 15 năm thi hành Luật thương mại 2005 cho thấy những rào cản cho
hội nhập xuất phát một phần từ những khái niệm, nội hàm không còn phù hợp
với thực tiễn hiện nay, cụ thể: Thứ nhất, khái niệm thương nhân được đề cập tại
Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005 không còn hợp lí và cần sớm điều
chỉnh. Khái niệm thương nhân hiện đã không bao quát được nhiều hoạt động ở
khu vực “phi chính thức” cũng nhằm mục đích sinh lợi nhưng hoạt động thường
xuyên như buôn bán ô tô, bất động sản. Yêu cầu thương nhân phải “có đăng kí”
kinh doanh cũng không hợp lí bởi quy định này cũng đang bỏ sót các chủ thể
hoạt động thương mại nhưng không đăng kí (thường gọi là thương nhân thực tế
hay thương nhân khuyết tư cách). Để làm rõ thêm khái niệm về thương nhân
Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP giải thích khái niệm cá nhân hoạt động
thương mại như “Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán
không có địa điểm cố định”, “Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật
dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định”; “Bán quà vặt là hoạt động bán
quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc không có địa điểm cố định”.
Xem xét về bản chất thì khái niệm về thương nhân trong Luật thương mại của
Việt Nam đang nói về yếu tố hình thức nhiều hơn nội dung hoạt động và tôn chỉ
của thương nhân. Ngoài ra, chính những bất cập trong khái niệm về thương nhân
dẫn đến thực tế là Luật Thương mại chỉ điều chỉnh đối với giao dịch có ít nhất 1
bên là thương nhân, còn những trường hợp khác thì theo sự điều chỉnh của Bộ
luật Dân sự và các luật chuyên ngành khác. Điều này dẫn đến một số mâu thuẫn
của Luật Thương mại với quy định của Bộ luật Dân sự về phạt vi phạm hợp
đồng; mẫu thuẫn với quy định của Luật Trọng tài Thương mại về phạm vi điều
chỉnh. Như vậy, bản thân pháp luật thương mại có sự mâu thuẫn đối với các luật

khác trong cùng hệ thống pháp luật quốc gia, chưa nói đến việc tham chiếu với
các quy định của các FTA thế hệ mới càng trở lên khó khăn hơn cho việc đàm
phán, kí kết, thi hành các FTA hay nội luật hóa các quy định của FTA trong lĩnh
vực thương mại.
Thứ hai, quy định về sự hiện diện của thương nhân tại Việt Nam không
còn phù hợp với xu hướng trong các FTA thế hệ mới. Nghị định 07/2016/NĐ-CP
hướng dẫn Luật Thương mại về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân
nước ngoài tại Việt Nam quy định: Trường hợp việc thành lập Văn phòng đại
diện, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài hoạt động trong các ngành được
quy định tại văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành thì thực hiện theo quy
định của văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đó. Đồng thời, quy định
cũng cho phép thương nhân nước ngoài được thành lập Văn phòng đại diện, Chi
nhánh của mình tại Việt Nam theo cam kết của Việt Nam trong các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc dẫn chiếu quyền thành lập hiện diện
thương mại sang điều ước quốc tế là không khả thi bởi theo Luật điều ước quốc
20


tế, cam kết quốc tế lại không có giá trị áp dụng trực tiếp. Trong khi đó, nếu so
sánh với Nghị định số 72/2006/NĐ-CP trước đây (hiện đã bị thay thế bởi Nghị
định 07/2016/NĐ-CP) thì lại quy định rõ hơn về việc cho phép thành lập Văn
phòng đại diện cho tất cả các lĩnh vực, và Chi nhánh trong trường hợp thương
nhân mua bán hàng hóa hoặc hoạt động liên quan trực tiếp tới mua bán hàng
hóa. Tham chiếu với cam kết quốc tế của Việt Nam thì: Về Văn phòng đại diện:
Việt Nam đã cam kết mở cửa hoàn toàn cho thương nhân nước ngoài mở văn
phòng đại diện tại Việt Nam trong cả WTO, CPTPP và EVFTA. Về chi nhánh:
Trong cả WTO, CPTPP và EVFTA, Việt Nam không cam kết cho phép thương
nhân nước ngoài thành lập chi nhánh ở Việt Nam trừ các trường hợp mở cụ thể
cho từng ngành. Riêng CPTPP Việt Nam có mức mở cửa rộng hơn, cho phép
thành lập chi nhánh trong 6 lĩnh vực liệt kê ngoài các cam kết cho phép thành

lập chi nhánh trong những ngành cụ thể trong Danh mục các biện pháp không
tương thích. Ngoài ra, trong hoạt động đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh
(BCC), góp vốn, đầu tư 100% vốn nước ngoài: thì trong cả WTO, CPTPP và
EVFTA Việt Nam không giới hạn các hình thức hiện diện thương mại này của
các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trừ trường hợp có hạn chế rõ ràng được
nêu trong Biểu cam kết hoặc trong Danh mục biện pháp không tương thích. Bởi
vậy, trong thời gian tới pháp luật thương mại cần sửa đổi vấn đề này. Cụ thể, cần
sửa Nghị định 07/2016/NĐ-CP để quy định rõ về điều kiện đối với việc thành
lập VPĐD và chi nhánh. Luật Đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP cũng
cần xem xét lược bỏ các quy định dẫn chiếu trực tiếp tới việc áp dụng cam kết
bởi các cam kết không có giá trị áp dụng trực tiếp, đồng thời quy định rõ hơn về
các trường hợp pháp luật không có quy định (phân biệt với trường hợp pháp luật
có quy định nhưng áp dụng chung cho các chủ thể, không phân biệt trong nước
hay nước ngoài.
Trong đối chiếu với các FTA thế hệ mới, có hai chủ thể trong quan hệ
thương mại đáng phải chú ý là: (1) các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (2) doanh
nghiệp nhà nước. Các FTA khác đều quan tâm đến hai chủ thể này theo hướng
tăng tính cạnh tranh, độc lập của doanh nghiệp nhà nước và tạo cơ chế thông
thoáng, ưu đãi, chính sách bảo hộ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2. Những rào cản liên quan tới hoạt động thương mại của thương
nhân
Thứ nhất, các quy định liên quan tới hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế còn nhiều bất cập. Liên quan tới quy định của Luật thương mại về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, một số bất cập đã và đang gây cản trở khá nhiều tới
việc lựa chọn áp dụng pháp luật Việt Nam trong thực tiễn thương mại, cụ thể:

21


- Quy định về thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa tại Điều 62 Luật

Thương mại: Luật quy định quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ bên bán
sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao, có thể hiểu rằng khi
hàng xuống cảng thì đã mặc nhiên coi là chuyển quyền sở hữu cho người mua
hàng, đây là một điều cực kỳ bất lợi cho bên mua và không phù hợp với thông lệ
quốc tế. Thông lệ quốc tế quy định chuyển quyền sở hữu cho người mua kể từ
khi người này nhận được các chứng từ định đoạt về hàng hóa4.
- Quy định về thời điểm chuyển rủi ro từ Điều 57 đến Điều 61 Luật
thương mại: hợp đồng có đối tượng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì
rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời
điểm giao kết hợp đồng. Quy định này cho phép xác định thời điểm rủi ro được
chuyển sang người mua trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên dưới góc độ thực tiễn
thì quy định này chưa thực sự phù hợp. Vì rủi ro có thể phát sinh kể từ thời điểm
hàng hóa không còn nằm trong tầm kiểm soát của người bán, tức là thời điểm
hàng hóa được người bán giao cho người vận chuyển và rất có thể hàng hóa bị
hư hỏng trước thời điểm kí kết hợp đồng. Về vấn đề này, pháp luật thương mại
Việt Nam nên tham khảo Công ước Viên năm 1980 trong đó quy định thời điểm
chuyển rủi ro là thời điểm hàng hóa được giao cho người chuyên chở là người
đã phát hành chứng từ xác nhận hợp đồng vận chuyển. Trừ trường hợp lúc kí kết
hợp đồng mua bán, người bán đã biết hoặc không thể không biết rằng hàng hóa
đã bị mất mát hay hư hỏng nhưng không thông báo cho người mua5.
- Quy định về chế tài trong thương mại tại Điều 292 Luật Thương mại:
buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng,
đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng là các chế tài cơ bản được ghi
nhận. Từ thực tiễn thực hiện hợp đồng thương mại, việc áp dụng các quy định về
chế tài thương mại đã nảy sinh những bất cập, thể thiện tính hạn chế của một số
điều luật hiện hành. Như đối với khái niệm chế tài “Buộc thực hiện đúng hợp
đồng”, một phần trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng
thể hiện tính không khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiện đúng hợp đồng” là khó
có thể thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. Để
nâng cao tính khả thi đối với quy định về buộc thực hiện đúng hợp đồng, nên

xây dựng lại khái niệm về chế tài này theo hướng: “Buộc thực hiện đúng hợp
đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải
chịu chi phí phát sinh”. Ngoài ra, về chế tài phạt vi phạm hợp đồng được quy
định tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, mức phạt không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm và mức phạt theo thỏa thuận được quy định
4
5

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB CAND, Hà Nội, 2017
Điều 66, 67, 68.69, 70 Công ứớc Viên 1980.

22


tại Bộ luật Dân sự năm 2015 cho các quan hệ dân sự đang tạo rủi ro cho các bên
khi lựa chọn mức phạt vi phạm. Mặc dù Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005
thì mức phạt 8% chỉ áp dụng trong hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhưng một vấn đề đặt
ra, nếu trong hợp đồng hai bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% giá trị hợp
đồng, ví dụ: hai bên thỏa thuận, mức phạt 30%, 200%… thì sẽ xử lí như thế
nào? Liên quan đến vấn đề này, có hai quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất
cho rằng, việc thỏa thuận này là vô hiệu, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem như hai
bên không có thỏa thuận. Quan điểm thứ hai cho rằng, việc thỏa thuận vượt quá
8% chỉ vô hiệu một phần đối với mức phạt vượt quá 8% còn điều khoản phạt vi
phạm hợp đồng hoàn toàn có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức
tối đa 8% yêu cầu của bên bị vi phạm, phần vượt quá không được chấp nhận 6.
Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại, các tòa án thường

chấp nhận quan điểm thứ hai, nghĩa là nếu hai bên thỏa thuận vượt quá 8% thì sẽ
áp dụng mức phạt từ 8% trở xuống để giải quyết yêu cầu bồi thường cho bên bị
vi phạm7. Điều này hoàn toàn hợp lí, bởi vì, bản chất hợp đồng là ý chí của các
bên, trong trường hợp này các bên hoàn toàn chấp nhận sẽ chịu phạt nếu vi
phạm hợp đồng, còn việc thỏa thuận mức phạt vượt quá giá trị hợp đồng là do
hai bên chưa hiểu biết đầy đủ quy định của Luật Thương mại 2005 chứ không có
nghĩa là không có điều khoản về phạt vi phạm. Thực tế, đã có những vụ án các
bên viện dẫn “mức phạt 8%” nhưng không được áp dụng vì không có căn cứ
phạt được ghi nhận trong nội dung điều khoản thỏa thuận4.
Liên quan đến vấn đề này, tôi cho rằng cần phải xem xét lại mức giới hạn
tối đa mức phạt 8%, sửa đổi theo hướng tăng giới hạn mức phạt vi phạm hợp
đồng hoặc không giới hạn mức phạt tối đa.
Về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường
thiệt hại quy định tại Điều 307 Luật Thương mại 2005, mặc dù hiểu rằng các
nhà làm luật muốn nhấn mạnh việc chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng đồng
thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại, hay nói cách khác, việc áp dụng chế
tài phạt vi phạm không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại
của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, nội dung này đã được ghi nhận trong Điều 316:
6

Tòa án Nhân dân Tối cao (2009), Quyết định giám đốc thẩm số 03/2009/KDTM-GĐT ngày 09/04/2009
về vụ tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa: Tòa xác định các đương sự không thống nhất được với nhau về
mức phạt sau mỗi lần đối chiếu công nợ và mức phạt do các đương sự đưa ra là: 5%/tháng; 10%/tháng;
15%/tháng không phù hợp quy định nên tòa áp dụng mức tối đa 8% giá trị phần nghĩa vụ vi phạm hợp đồng theo
Luật Thương mại.
7
Nguyễn Thị Anh Thơ, Hệ thống giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ một số Hiệp định thương mại
tự do mà Việt Nam là thành viên, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2018.
4


23


“Một bên không bị m ất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi
phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Như vậy, theo quy
định tại Điều 316, thì chế tài buộc bồi thường thiệt hại có thể áp dụng cùng một
lúc với các chế tài khác bao gồm chế tài phạt vi phạm. Do đó, việc đặt ra một
điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại như trong Điều 307 là không cần thiết. Không những thế, nội
dung của Điều 307 lại chưa hoàn chỉnh khi quá nhấn mạnh đến căn cứ áp dụng
của điều khoản phạt vi phạm mà không đề cập đến căn cứ áp dụng của chế tài
buộc bồi thường thiệt hại nên dẫn đến những lúng túng và hiểu nhầm cho các
thương nhân khi áp dụng. Để giải quyết tình trạng như đã nêu ở trên, theo quan
điểm cá nhân, nên bỏ quy định của Điều 307.
Thứ hai, quy định về nhượng quyền thương mại chưa phù hợp thông lệ
quốc tế.
Việc Việt Nam kí kết hai hiệp định kinh tế quan trọng là TPP (nay là
CPTPP) và EVFTA đã gỡ bỏ rào cản thuế quan giữa nước ta với các quốc gia
thành viên EU và 10 nước cộng đồng kinh tế CPTPP, trong đó có những thị
trường nhượng quyền trọng điểm là Canada, Úc, Nhật. Điều này cũng làm cho
thị trường nhượng quyền của Việt Nam trở nên sôi động cho cả bên bán và bên
mua. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 lại chưa theo kịp với những thay đổi
này, khi hiện nay hai khái niệm là “nhượng quyền thương mại” và “quyền
thương mại” chưa được quy định đầy đủ và trong một vài trường hợp được quy
định không thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Quyền và nghĩa vụ
của bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong quan hệ nhượng quyền thương
mại; trình tự, thủ tục, chi phí liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại
đều là những vấn đề chưa được làm rõ, chưa hợp lí, chưa thống nhất. Đối chiếu
với các cam kết của Việt Nam tại WTO, CPTPP, EVFTA pháp luật thương mại
Việt Nam hiện nay không có hạn chế nào về hình thức hiện diện của nhà đầu tư

nước ngoài trong dịch vụ này. Bởi vậy hiện cũng không có căn cứ nào để xác
định pháp luật thương mại Việt Nam đã tuân thủ cam kết WTO về việc cho phép
nước ngoài thành lập chi nhánh kinh doanh nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam hay chưa. Từ đó cũng chưa thể coi pháp luật thương mại Việt Nam đã phù
hợp với cam kết WTO, EVFTA và CPTPP về vấn đề nhượng quyền thương mại 8.
Bởi vậy, thời gian tới cần có một khái niệm hoàn chỉnh hơn về nhượng quyền
thương mại, thể hiện được bản chất của hoạt động thương mại này, trong đó:(i)
các bên trong quan hệ độc lập với nhau về mặt pháp lí, tài chính và kinh doanh;
(ii) đối tượng của nhượng quyền thương mại là một tập hợp tài sản thương mại
vô hình thuộc quyền sở hữu của bên nhượng quyền, được gọi là quyền thương
8

Phạm Thị Hồng Đào, Thực hiện Hiệp định TPP: Cần sự hỗ trợ của nhà nước để tận dụng cơ hội của thị
trường mới.

24


mại; (iii) có sự đồng bộ, thống nhất về mặt hình thức biểu hiện đối với cách thức
tiến hành hoạt động thương mại của hệ thống nhượng quyền thương mại. Cần
phải sửa đổi khái niệm nhượng quyền thương mại theo hướng quan niệm đây là
quyền tiến hành kinh doanh trên cơ sở khai thác thương mại một tổng thể các
đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được bên nhượng quyền cấp cho bên
nhận quyền thay vì cho rằng quyền thương mại là quyền kinh doanh tổng thể các
đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời cũng cần làm rõ các yếu tố
đặc trưng của quyền thương mại - là một gói các quyền sở hữu công nghiệp, sở
hữu trí tuệ có liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biểu tượng
kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp, bí quyết kinh doanh, bằng sáng chế… đặc
biệt nhấn mạnh tới sự kết hợp trong một thể thống nhất - một gói giữa các đối
tượng này. Bổ sung quy định tại Nghị định 35/2006/NĐ-CP về chi nhánh của

doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực nhượng quyền thương
mại, theo đó cho phép việc mở chi nhánh và có thể đặt yêu cầu về cư trú đối với
Trưởng chi nhánh.
Thứ ba, cần bổ sung quy định về hoạt động quảng cáo của thương
nhân nhằm định hướng nhưng đồng thời đảm bảo sự tuân thủ pháp luật.
Điều 40 Luật Thương mại 2005 hiện nay cho phép một doanh nghiệp trong nước
được hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong hoạt động quảng cáo theo hình thức
liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Còn theo Điều 41 của Luật, Văn
phòng đại diện của doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài chỉ được xúc tiến quảng
cáo, không được trực tiếp kinh doanh dịch vụ quảng cáo khi đáp ứng các yêu
cầu về hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện của doanh
nghiệp quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam. Theo các cam kết của Việt Nam tại
WTO và EVFTA, thì Việt Nam cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dưới
hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp Việt
Nam đã được cấp phép kinh doanh quảng cáo. Theo CPTPP, Việt Nam cam kết
mở cửa đầu tư không hạn chế cho dịch vụ này. Do đó CPTPP mở cửa rộng hơn
nhiều so với WTO và EVFTA trong lĩnh vực này 9. Tuy nhiên, kết hợp với
nguyên tắc tối huệ quốc của EVFTA thì Việt Nam cũng phải dành cho nhà đầu
tư EU đối xử tương tự về thành lập hiện diện thương mại trong lĩnh vực này. Vì
vậy, để pháp luật Việt Nam tương thích với các cam kết quốc tế thì cần đưa quy
định cụ thể về điều kiện đầu tư vào lĩnh vực này vào văn bản thực thi riêng
CPTPP về đầu tư (để bảo đảm tính minh bạch về quy định mở cửa thị trường, và
chỉ áp dụng riêng đối với nhà đầu tư CPTPP).

9
Nguyễn Thị Thu Trang (chủ biên), Rà soát Pháp luật Việt Nam với các cam kết WTO, Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - EU và Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương về Mở cửa Dịch vụ cho đầu tư
nước ngoài.

25



×