Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đặc điểm lí luận văn học macxít thế kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.33 KB, 11 trang )

Cùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam
cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học
hiện đại.
Tuy nhiên, sự phát triển của lí luận văn học mácxít ở Việt không thể tách rời những
thành tựu của các nền lí luận văn học mácxít trên thế giới. Nó là bộ phận của một
hệ thống. Ở mỗi nước, sự phát triển của lí luận văn học mác xít đều có những sắc
thái riêng, nhưng nếu nhìn trong hệ thống, chúng ta sẽ thấy có những đặc điểm
chung. Việc chỉ ra những đặc điểm đó sẽ soi sáng nhiều vấn đề còn tồn tại bên
trong hệ thống (và ngoài hệ thống), giúp chúng ta có cái nhìn khách quan, khoa học
hơn về những thành tựu và cả những hạn chế của toàn bộ hệ thống cũng như từng
bộ phận. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không thể đề cập hết toàn bộ sự
phát triển của hệ thống lí luận văn học mác xít ở tất cả các nước. Để làm rõ những
đặc điểm cơ bản, chúng tôi sẽ nghiên cứu các mô hình lí luận mác xít với những
tác gia, tác phẩm tiêu biểu có liên hệ với đời sống lí luận văn học ở Việt Nam như
là bộ phận của một hệ thống đã góp phần làm nên những đặc điểm đó.
Nói đến tính hệ thống của mĩ học và lí luận văn học mác xít không có nghĩa là chỉ
thừa nhận sự thống nhất tuyệt đối của mọi quan điểm tạo nên hệ thống đó. Bên
trong mỗi hệ thống triết học hay mĩ học đều có những khác biệt nhất định do mỗi
nhà triết học hay mĩ học đều có hệ thống riêng của mình. Ở mỗi hệ thống riêng này
đều có những hạn chế không tránh khỏi.
Trên cơ sở triết học Marx-Lenin và những ý kiến của Marx-Engel-Lenin bàn về
văn học, có thể nói từ những năm 1870 đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thời
gian sau đó, cho đến hết thế kỷ XX, lí luận văn học mác xít, từ những nước có
truyền thống mĩ học đến những nước không có truyền thống đó, đã hình thành và
phát triển với nhiều sắc thái đa dạng. Sự đa dạng này không chỉ thể hiện ở từng
nước với những mô hình lí luận văn học khác nhau trên cùng một vấn đề, mà còn
thể hiện ngay trong cách xây dựng từng mô hình lí luận với những quan điểm khác
nhau. Trước hết chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề mối quan hệ giữa văn bản (văn
học) và hiện thực, hay như các nhà lí luận văn học ở Việt Nam vẫn thường nói là
mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Đây là một trong những vấn đề cơ bản mà
lí luận văn học mác xít đã nói đến nhiều. Tuy nhiên về vấn đề này lí luận văn học


mác xít đã cho thấy những quan điểm tương đồng và khác biệt. Bắt đầu bằng mối


liên hệ giữa các quan điểm của chủ nghĩa thực chứng với các quan điểm của
Plêkhanốp, khi Plêkhanốp phát triển lí thuyết của H. Taine bằng việc hợp nhất các
quan điểm lí luận của Taine với một số phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Marx.
Plêkhanốp đã gắn quyết định luận của H. Taine với đấu tranh giai cấp, với các quan
điểm mác xít về hình thức của các mối quan hệ giữa người với người. Ông lí giải
điều đó bằng khái niệm tinh thần đạo đức và đồng nhất nó với tâm lí giai cấp. Như
vậy, văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống, cái hiện thực mà, theo
Plêkhanốp, nội dung đấu tranh giai cấp quy định.
Với sự xuất hiện của G. Lukacs, lí luận văn học mác xít đã có thêm những công
trình lí luận quan trọng nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Tiếp
thu những thành tựu triết học và mĩ học tư sản, Lukacs đã có cái nhìn sâu hơn, toàn
diện hơn vào một số vấn đề lí luận văn học, nhất là vấn đề mối quan hệ giữa văn
học và hiện thực. Những năm ba mươi của thế kỷ XX là thời kì phát triển quan
trọng của mĩ học Lukacs, khi ông bắt đầu xây dựng hệ thống các quan điểm mĩ học
của mình về phản ánh nghệ thuật trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xuất phát từ phản ánh luận của Lenin, Lukacs nhấn
mạnh quan điểm văn học phản ánh hiện thực "bằng các hình thức của đối tượng":
Ông khẳng định văn học nghệ thuật như là ý thức của sự phát triển nhân loại, và
cũng như Plêkhanốp, ông luôn trung thành với quan điểm văn học nghệ thuật
không tách rời đời sống xã hội. Tuy vậy, so với Plêkhanốp, Lukacs đã xác lập được
hệ thống quan điểm mĩ học của mình về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực
qua đặc trưng của phản ánh nghệ thuật. Trong khi Plêkhanốp cho rằng "muốn
hiểu nghệ thuật phản ánh cuộc sống như thế nào thì cần phải hiểu cơ cấu của cuộc
sống đó"(1) thì Lukacs nhấn mạnh đến thế giới riêng của sáng tạo nghệ thuật, ông
cho rằng mọi tác phẩm nghệ thuật có giá trị đều tạo ra "thế giới riêng", các nhân
vật, tình huống đều hoàn toàn khác với thực tế hàng ngày, thậm chí không giống
với bất kì nhân vật tình huống nào của tác phẩm khác. Lukacs chỉ ra rằng sự say

mê của người tiếp nhận là sự say mê hoàn toàn vào đặc trưng của cái "thế giới
riêng" của tác phẩm, do tác phẩm đã phản ánh hiện thực trung thực hơn, hoàn
thiện hơn, sinh động hơn cái mà người tiếp nhận có được về hiện thực. Thế giới
riêng của tác phẩm chỉ là cái tưởng như, như thể tác phẩm văn học, nghệ thuật
không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan, như thể người tiếp nhận không
hình dung ra "cái thế giới riêng" đó của tác phẩm chỉ là sự phản ánh hiện thực.
Lukacs viết: "Nghịch lí ảnh hưởng của tác phẩm là ở chỗ chúng ta trao mình cho


một hiện thực dâng sẵn bên ta, ta coi nó là hiện thực và tiếp nhận nó, mặc dù ta vẫn
biết chính xác rằng nó không phải là hiện thực mà chỉ là hình thức đặc biệt của sự
phản ánh hiện thực"(2). Lukacs còn nhấn mạnh một luận điểm có ý nghĩa khoa
học, đó là chân lí nghệ thuật tồn tại không phụ thuộc vào sự tương xứng hay không
với chân lí khách quan theo tinh thần "nghệ thuật không đòi hỏi người ta phải thừa
nhận các tác phẩm nghệ thuật là hiện thực" mà Lenin từng nói. Như vậy, chỉ đề cập
đến những quan điểm của Lukacs về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực thể
hiện trong công trình Nghệ thuật và chân lí khách quan viết năm 1934, chúng ta đã
thấy đối tượng nghiên cứu của nhà lí luận văn học mác xít này không phải là lí
luận văn học chung chung mà là văn học hiện thực, là tiểu thuyết. Lí luận văn học
của G. Lukacs không phải là lí luận mô tả mà là lí luận đánh giá. Dựa vào mô hình
phản ánh, ông diễn đạt những phán xét về các giá trị cơ bản, độc lập với việc một
tác phẩm văn học có hiện thực hay không. Tuy không dành cho chủ thể sáng tạo
cái vai trò rõ ràng, nhưng khi nhấn mạnh sự phản ánh thế giới của tác phẩm văn
học, Lukacs cũng không phủ nhận sự hiện hữu của người sáng tác, thậm chí nhiều
lần ông nhắc đến sự vĩ đại của người nghệ sĩ thể hiện qua việc phản ánh trung thực
đời sống xã hội.
Trong một công trình nghiên cứu so sánh hai nhà mĩ học mác xít là C.Caudwell
(Anh) và G.Lukacs (Hungary)(3), chúng tôi đã nêu lên những điểm tương đồng và
khác biệt trong các quan điểm của hai nhà mĩ học này về đặc trưng của phản ánh
nghệ thuật mà cũng chính là về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, mặc dù cả

hai đều là những nhà mĩ học mác xít. So sánh tác phẩm Ảo ảnh và hiện thực của
C.Caudwell với tác phẩm Đặc trưng mĩ học của G.Lukacs, ta thấy sự đa dạng trong
các quan điểm của họ, trước hết trong việc xác định đối tượng của phản ánh nghệ
thuật. Theo Caudwell thì đối tượng của phản ánh nghệ thuật là "hiện thực bên
trong" của con người, còn "hiện thực bên ngoài" là đối tượng của phản ánh khoa
học. Caudwell viết: Nghệ thuật thể hiện sự tự do của con người trong cái thế giới
nhận thức, bởi vì cả hai (khoa học và nghệ thuật -T.Đ.D) đều nhận ra một cách có
ý thức tính tất yếu của thế giới, và cả hai đều biết làm thay đổi thế giới của mình.
Nghệ thuật có thể thay đổi thế giới cảm xúc, tức là thế giới hiện thực bên trong,
còn khoa học thay đổi thế giới của các hiện tượng, tức là thế giới hiện thực bên
ngoài" (4). Còn Lukacs thì cho rằng nghệ thuật cũng như khoa học đều phản ánh
cùng một hiện thực. Lukacs gắn bó với yêu cầu về chủ nghĩa hiện thực, về tính
chân thực của sự phản ánh; còn Caudwell nhấn mạnh tính chân thực lịch sử của


thái độ và tư tưởng của nhà văn, tức là nhấn mạnh vai trò của chủ thể sáng tạo.
Liên quan đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực, cần nói thêm rằng giữa Ernst Fischer, R.
Garaudi và G. Lukacs cũng có những quan điểm khác nhau. Không phải ngẫu
nhiên mà khi bàn về chủ nghĩa hiện thực, hoặc về các sáng tác của Franz Kafka, R.
Garaudi đã không cùng chung quan điểm với G. Lukacs, còn Ernst Fischer thì mặc
dù rất kính trọng Lukacs, vẫn xem ông là người bảo thủ!
Có thể nói lí luận văn học mác xít đã nghiên cứu nhiều đến mối quan hệ giữa văn
học và hiện thực; đến xuất xứ, nguyên nhân và các yếu tố khác liên quan tới sự ra
đời của văn học nghệ thuật. Phương thức tiếp cận văn học theo hướng này là mô
hình phát sinh mà một trong những biến thể hiện đại của nó đã gắn liền với tên tuổi
của nhà lí luận xã hội học, gốc Rumani là Lucien Goldman. Xuất phát từ quan
niệm cho rằng nghĩa khách quan của một tác phẩm văn học hay triết học nhiều khi
ngay cả tác giả của nó cũng không ý thức được (Hume và Descartes đều tin ở Chúa
Trời nhưng các công trình triết học của họ đều toát lên sự ngờ vực, duy lí) việc tiếp
cận tiểu sử tác giả để nghiên cứu các mối liên hệ giữa tác phẩm văn học và cuộc

đời tác giả theo L. Goldman, cần phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các mối liên kết
giữa cấu trúc tác phẩm và cấu trúc thuộc về ý thức của cái nhóm xã hội mà tác giả
là thành viên. Cách hình dung này của Goldman phản ánh ảnh hưởng của G.
Lukacs, người cho rằng hiện thực và tư duy tạo nên sự thống nhất biện chứng trong
đó tất cả đều liên kết với nhau. Các quan điểm của L. Goldman trong cuốn sách
quan trọng nhất của ông, Chúa trời ẩn náu (1955)(5) đều có cơ sở từ những quan
điểm của Lukacs trong cuốn Lịch sử và ý thức giai cấp. Goldman cho rằng nguồn
gốc của các tác phẩm có thể tìm thấy trong ý thức và trong cách ứng xử xã hội. Tác
phẩm văn học không thể hiện cái tôi của tác giả mà thể hiện cái giai cấp xã hội mà
nó lệ thuộc. Lucien Goldman nhấn mạnh rằng cấu trúc ý thức của một tác phẩm có
thể tìm về với ứng xử xã hội, nhưng ứng xử xã hội lại không phải là ý muốn của
từng cá thể mà là do hành động thống nhất của hai hoặc nhiều cá thể qui định,
giống như một vật nặng được nâng bởi nhiều người. Do đó, theo Goldman, các tác
phẩm văn học là những sản phẩm tập thể của các nhóm xã hội. Từng nhóm xã hội
riêng biệt đều trang bị cho mình cái hình thức có đẳng cấp cao nhất của tư tưởng
mà Goldman gọi là cái nhìn thế giới. "Cái nhìn thế giới" là sự thể hiện của các
nhóm xã hội mà tư duy, cảm xúc và ứng xử của họ đều hướng tới sự hệ thống hóa
các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên.


Các quan điểm trên của L. Goldman được ông thể hiện trong tác phẩm chính Chúa
trời ẩn náu và vận dụng vào thực tiễn nghiên cứu văn học. Công trình này nghiên
cứu các mối liên hệ giữa một nhóm xã hội và một phong trào tôn giáo, giữa triết
học của Pascal và các vở bi kịch của Racine . Ở mỗi bên Goldman đều gặp "một
cái nhìn thế giới" đặc trưng trong đó con người đang vật lộn giữa những trách
nhiệm trái ngược mà sự hòa đồng của chúng không được thế giới tạo điều kiện.
Nghiên cứu cấu trúc ý thức của cái nhìn bi kịch và cấu trúc của tác phẩm văn học,
Goldman đã mở ra sự tương đồng thuộc về hình thức của chúng. Sự tương đồng
hình thức này sau đó được ông gọi là sự đồng đẳng. Một khi cấu trúc của tác phẩm
văn học và cấu trúc ý thức của cái nhóm xã hội là "đồng đẳng" thì cái gì tạo nên

tính đặc thù của tác phẩm văn học? Theo Goldman đó là sư liên kết mà tác giả phủ
lên cấu trúc ý thức có sẵn.
So sánh những quan điểm lí luận ở mô hình phát sinh của L. Goldman với những
quan điểm ở mô hình phản ánh của G. Lukacs, chúng ta rất dễ nhận ra những
tương đồng và khác biệt. Có thể nhận thấy ảnh hưởng của những tác phẩm của
Lukacs trong thời kỳ đầu đến với chủ nghĩa Marx đối với L. Goldman, thậm chí cả
khái niệm "đồng đẳng" mà Goldman sử dụng cũng có từ Lukacs. Cả hai người đều
đặt điều kiện trực tiếp về sự tương ứng hình thức giữa tác phẩm văn học và hiện
thực xã hội. Nhưng ở Goldman, thay cho phản ánh là quá trình biểu hiện nằm ở
trung tâm. Lukacs nghiên cứu việc một tác phẩm văn học có phản ánh (hay không
phản ánh) cái tổng thể biện chứng của hiện thực và tư duy, còn Goldman thì nghiên
cứu những mối quan hệ có thể cảm nhận được giữa tác phẩm và nhóm xã hội của
tác giả. Phương pháp tiếp cận của Goldman mang tính xã hội học hơn của Lukacs,
vì Goldman trước hết nghiên cứu từng nhóm xã hội, không phải toàn bộ xã hội.
Ông quan niệm về giai cấp xã hội có phần hẹp hơn và cụ thể hơn Lukacs.
Mô hình sinh thành của Goldman cũng khác với mô hình sản xuất của
P.Macherey(6), nhà lí luận văn học mác xít người Pháp, trên những điểm cơ bản. Ở
Goldman sự thể hiện là trung tâm chứ không phải là sự sản xuất. Và những cái
nhìn thế giới là những biểu hiện của các giai cấp xã hội, các tác phẩm văn học lớn
đều gắn liền với những cái nhìn thế giới. Những cái nhìn thế giới là những hình
thức tư tưởng tổng quan mà nhờ sự liên kết chúng có thể tạo ra hình thức tư tưởng
trong văn học. Còn Macherey thì cho rằng bản thân tư tưởng tự nó hoàn toàn thỏa


mãn trong đời sống thực tiễn nhưng lại không đủ khi được xây dựng trong một văn
bản văn học, nơi luôn có những khoảng trống cần được người đọc lấp đầy...
Khi ở châu Âu, trong đời sống mĩ học và lí luận văn học mác xít đang đặt ra những
vấn đề liên quan đến chủ nghĩa hiện thực thì ở Việt Nam xa xôi đã xuất hiện Hải
Triều, một chiến sĩ cách mạng đầy nhiệt huyết trong việc truyền bá chủ nghĩa
Marx, đấu tranh cho một nền văn nghệ cách mạng. Qua các cuộc tranh luận về Duy

tâm hay duy vật và Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh diễn ra
trong những năm ba mươi của thế kỷ, Hải Triều đã có những đóng góp kịp thời và
thiết thực cho sự nghiệp của Đảng trên lĩnh vực văn nghệ. Những quan điểm của
Hải Triều về văn học nghệ thuật thể hiện chủ yếu trong các bài viết tranh luận với
Phan Khôi, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Thiếu Sơn... Trên lĩnh vực
triết học, cuốn Chủ nghĩa Macxít phổ thông của Hải Triều xuất bản năm 1938 là
một đóng góp có ý nghĩa trong bối cảnh chính trị và đời sống học thuật của đất
nước lúc đó. Nếu các nhà lí luận văn học mác xít ở các nước châu Âu trước khi đến
với mĩ học và lí luận văn học, họ được thừa hưởng những di sản triết học và mĩ học
đồ sộ thì ở Việt Nam, các nhà lí luận văn học trước hết là những chiến sĩ trên mặt
trận văn hóa, văn nghệ, lấy việc truyền bá quan điểm văn nghệ của Đảng làm mục
đích. Đây là một đặc điểm không nên bỏ qua khi nghiên cứu sự phát triển của nền
lí luận văn học mác xít ở Việt và các nước có hoàn cảnh tương tự. Xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn của cách mạng, Hải Triều đã nhìn nhận vai trò của văn học nghệ thuật
trong đời sống xã hội theo tinh thần của Plêkhanốp. Ông viết: "Một công trình văn
nghệ hay mĩ thuật càng diễn đạt được rõ ràng cái tính cách xã hội thì lại càng có
giá trị. Nói một cách khác, nếu một tác phẩm mà có thể biểu hiện được cái tình
cảm tư tưởng phổ biến của số đông người trong một thời đại (cái số đông người đã
biết thưởng thức nghệ thuật) thì cái công trình đó sẽ được hoan nghênh"(7). Điều
đáng nói ở đây là Hải Triều đã không đơn giản hóa những quan điểm của
Plêkhanốp đến mức chỉ xem tác phẩm nghệ thuật là sự diễn dịch đời sống kinh tế,
xã hội ra ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật như trường phái xã hội học ở Nga đã làm
những năm sau Cách mạng tháng Mười. Ông viết: "Cái giá trị của nghệ thuật trong
xã hội này chỉ tương đối và hữu hạn thôi. Vì tác phẩm với giai cấp này, thời đại
này, xứ sở này thì dù cho là có giá trị, mà đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ
sở khác thì chả ra gì (8). Quan điểm này làm chúng ta nhớ lại quan điểm xem văn
nghệ luôn phát triển theo đời sống xã hội, theo lịch sử tiến hóa mà Plêkhanốp đã
từng nói khi ông phân tích những điểm chưa đúng ở cả hai phái "Nghệ thuật vị



nghệ thuật" và "Nghệ thuật vị nhân sinh" thời đó.
Như vậy, đến đây chúng ta có thể kết luận rằng cùng với những tương đồng và
khác biệt trong các quan điểm của các nhà lí luận văn học mác xít về một số vấn đề
lí luận văn học, đã làm nên sự đa dạng của một hệ thống lí luận, là sự tiếp nối và
phát triển của những quan điểm thống nhất trên cơ sở một học thuyết về chính trị,
kinh tế, xã hội xuất hiện từ thế kỷ XIX ở châu Âu. Và đây chính là điều mà tư duy
lí luận văn học mác xít hiện đại của thế kỉ mới không thể bỏ qua trong quá trình
đổi mới để có thể tiếp tục phát triển.
Trong một bài viết gần đây (9) chúng tôi đã có dịp nói về vai trò độc lập của lí luận
văn học hiện đại trong hệ thống các khoa học văn học. Tính chất độc lập của lí luận
văn học hiện đại chỉ có được nếu lí luận văn học hiện đại trong khi phát triển đồng
hành với các khoa học văn học vẫn giữ được tính chất siêu khoa học của nó, không
để bị chi phối bởi bất kỳ hệ thống những qui ước thực dụng nào khác, phi Ií luận.
Chúng tôi cũng đã nói đến nguy cơ lí luận văn học sẽ bị mờ nhạt trước các khoa
học văn học khác nếu nó không khoanh vùng được đối tượng nghiên cứu với
những vấn đề riêng, không lí giải và soi sáng được những vấn đề đó trên bình diện
lí luận. Điều quan trọng để lí luận văn học phát triển độc lập là ngoài phương pháp
nghiên cứu mới, lí luận văn học cần phải xác lập được bản chất tự nhiên của đối
tượng nghiên cứu. Sự phát triển của hệ thống lí luận văn học mác xít từ sau Cách
mạng tháng Mười cho thấy ở đâu lí luận văn học xác lập được bản chất tự nhiên
đặc trưng của đối tượng nghiên cứu thì ở đó lí luận văn học khẳng định được vai
trò độc lập của nó trong quan hệ với lịch sử và phê bình văn học. Ở phương Tây
hiện nay, vấn đề này hầu như không cần phải đặt ra vì nghiên cứu lịch sử văn học
và phê bình văn học ở phương Tây đã có sau lưng cả một truyền thống triết học và
mĩ học, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học không còn phải đối diện với tình
trạng "suy lí luận", hoặc tình trạng "khó xử" trong việc lựa chọn đối tượng và
phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học. Một khi ý thức văn học đã phân biệt
được đối tượng và cấp độ nghiên cứu của lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học thì
không cần phải đặt ra yêu cầu riêng cho mỗi ngành trong việc khẳng định vị thế
độc lập của nó.

Lí luận văn học mác xít thường lẩy ra những vấn đề cấp thiết nhất có khả năng
hướng văn học phục vụ kịp thời những mục đích xã hội. Như vậy nhu cầu đáp ứng


kịp thời những mục đích thực tiễn đã qui định đối tượng nghiên cứu của lí luận văn
học, làm cho lí luận văn học phải từ bỏ bản chất đặc trưng, trở nên "năng động",
xông xáo" như phê bình văn học để "nhanh chóng trả lời" những vấn đề bức xúc
của đời sống văn học!. Chính từ đây lí luận văn học đã đánh mất cái bản chất tự
nhiên đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, tự xóa đi cái ranh giới rất cần thiết khu
biệt lĩnh vực tư duy trừu tượng với các lĩnh vực tư duy cụ thể khác. Trong thực tế,
việc không phân định rõ ranh giới giữa lí luận và phê bình văn học chẳng những
không mang lại hiệu quả khoa học cao mà còn có ảnh hưởng xấu đến lợi ích của
khoa học văn học. Trước hết nó làm cho khoa học văn học không phát triển một
cách bình thường vì đối tượng của lịch sử văn học và phê bình văn học cũng bị lí
luận văn học xâm phạm, trong khi lẽ ra lí luận văn học với đối tượng và mục đích
riêng, phải là chỗ dựa cho nghiên cứu và phê bình văn học. Chúng ta biết rằng đặc
trưng của mọi công việc nghiên cứu khoa học là sự triển khai, phân tích và tổng
hợp đối tượng nghiên cứu. Muốn thực hiện được điều đó, mọi ngành khoa học đều
phải tiếp cận đối tượng trên hai bình diện là kinh nghiệm và lí luận. Chính các mối
quan hệ giữa cụ thể và trừu tượng, riêng và chung sẽ bổ sung những điểm nhìn từ
các phía khác nhau, đến một đối tượng chung nhất có tên gọi là văn học. Điều đó
nói lên sự gắn bó, liên kết giữa lí luận văn học và nghiên cứu, phê bình văn học.
Nhưng nếu hiểu sự gắn bó đó như là sự hòa trộn của ba ngành nghiên cứu này thì
thật là sai lầm về nhận thức khoa học. Ở Việt không biết từ bao giờ cụm từ lí luậnphê bình luôn đi với nhau. Và đương nhiên nhà phê bình cũng đồng thời là nhà lí
luận, và nhà lí luận cũng phải là... nhà phê bình. Khi nói đến tình trạng yếu kém
của nghiên cứu lí luận văn học người ta cũng nghĩ luôn sự yếu kém đó là của phê
binh văn học và ngược lại. Do đó không một ngành khoa học nào tự ý thức rõ về
sự yếu kém của mình. Lâu dần trong đời sống văn học ở nước ta xuất hiện hai đặc
điểm: một là người ta thậm chí không muốn chấp nhận những người làm lí luận
thuần túy, cho đó là kinh viện, trừu tượng, xa rời đời sống văn học; làm cho không

ít những nhà lí luận tự rời bỏ "lãnh địa" của mình, tham gia phê bình văn học để
nhanh chóng được "đóng góp" cho sự nghiệp văn học nước nhà! (Không phải ngẫu
nhiên mà G.Lukacs, nhà mĩ học và lí luận văn học mác xít lớn nhất thế kỉ XX, sau
năm 1945 cũng đã bị phê phán là coi thường văn học dân tộc vì không trực tiếp
tham gia vào đời sống nghiên cứu, phê bình văn học Hungary). Hai là các nhà phê
bình ít quan tâm đến lí luận văn học, nhất là những thành tựu mới của lí luận văn
học trên thế giới. Tình hình trên dẫn đến tình trạng nhiều vấn đề cơ bản của mĩ học
và lí luận văn học không được nghiên cứu từ gốc một cách triệt để nên bất kì ai, bất


kì lúc nào cũng có thể lẩy ra một vấn đề nào đó không có gì là mới mẻ nhưng cũng
đủ làm "bùng nổ" những cuộc tranh luận kéo dài mà không rõ chân lí cuối cùng
thuộc về ai. Người ta tranh luận ríu rít ở trên ngọn của vấn đề, nhưng cái gốc của
nó bị bỏ qua.
Do không có được cái bản sắc riêng của đối tượng, lí luận văn học ở Việt không
thoát khỏi thế nhập nhằng trong quan hệ với phê bình văn học. Với tình trạng đó lí
luận văn học chẳng những không thể làm chỗ dựa cho nghiện cứu, phê bình văn
học, mà bản thân nó cũng tự triệt tiêu dần theo thời gian. Rốt cục người ta chỉ còn
thấy những bài viết mang tính chất tổng kết hoặc phát biểu ý kiến về tình hình văn
học hơn là các bài nghiên cứu lí luận văn học được xây dựng bằng các luận điểm lí
luận có hệ thống.
So với trình độ phát triển của lí luận văn học hiện đại của một số nước trên thế giới
mấy chục năm qua, chúng ta mới chỉ có được những thành tựu nhất định. Tính
từ Văn học khái luận (1944) của Đặng Thai Mai, sự vận động của tư duy lí luận
văn học hiện đại ở Việt luôn cho thấy những nỗ lực tiếp nhận cái mới và hội nhập
với bên ngoài. Tuy nhiên, những nỗ lực đó xuất hiện không đều và không phải lúc
nào cũng tạo ra được những cú hích thật sự, có thể tạo nên trường phái học thuật.
Điều đó có nhiều nguyên nhân mà theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân
có ở trong quan niệm của chúng ta về đối tượng nghiên cứu của lí luận văn học. Có
được quan niệm đúng về bản sắc của đối tượng thì lí luận văn học mới có thể

khẳng định được vị thế độc lập của nó bên trong hệ thống các khoa học văn học, từ
đó mới có quan niệm đúng về tính ứng dụng của lí luận văn học trong khoa học
văn học nói chung và trong đời sống văn học nói riêng.
Một đặc điểm nữa rất dễ nhận thấy trong hệ thống lí luận văn học mác xít là sự mờ
nhạt của mô hình ngôn ngữ. G. Lukacs chỉ thấy ở ngôn ngữ cái công cụ của một
nguyên tắc hình thức cao nhất mà thôi, ông không xem ngôn ngữ là thực thể của
tác phẩm. Nghiên cứu các công trình của L.Goldman, chúng ta thấy nhà lí luận này
cũng không xem cấu trúc ý thức là cấu trúc ngôn ngữ, và ngôn ngữ cũng không có
vai trò gì riêng biệt. Trong tác phẩm Chúa trời ẩn náu, ông cho rằng ngôn ngữ chỉ
thể hiện và thông báo những nội dung đặc trưng nhất định, những nội dung này
chính là những cái nhìn thế giới. Quan điểm này khác với quan điểm cấu trúc xem
bản thân nghĩa là sản phẩm của ngôn ngữ. Theo Goldman ngôn ngữ và cả văn học,


đều là công cụ thể hiện một hiện thực đang tồn tại. Chính hiện thực đã mang lại
hình thức trước cho tác phẩm văn học trong cái nhìn thế giới và trong cấu trúc của
cái nhìn thế giới, theo tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc sinh thành.
Để mô hình ngôn ngữ có được vai trò mới trong lí luận văn học mác xít, cần phải
có quan niệm mới về vai trò của ngôn ngữ trong quá trình xã hội. Ở giai đoạn cuối
cùng của chủ nghĩa hình thức Nga, trong những năm hai mươi, xuất hiện một
nhóm các nhà khoa học Xô viết chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức Nga và chủ
nghĩa Marx. Đó là các tên tuổi M. Bakhtin, P. Medvegyev, và V. Volosinov. Các
nhà lí luận này đã đưa ngôn ngữ vào trung tâm nghiên cứu vì theo họ ngôn ngữ
không thể tách rời đời sống xã hội. V. Volosinov viết Chủ nghĩa Marx và triết học
ngôn ngữ khi các nhà ngôn ngữ học duy tâm xem ngôn ngữ là hoạt động cá thể.
Bakhtin cùng các đồng nghiệp của ông đã nghiên cứu ngôn ngữ trong các tình
huống xã hội và nhận thấy rằng lời nói luôn có tính đối thoại: "Đối thoại là bản
chất của ý thức, bản chất của cuộc sống con người... Sống tức là tham gia đối
thoại: hỏi, nghe, trả lời, đồng ý v.v... Con người ra đi khi đã nói lời của mình,
nhưng bản thân lời nói ấy còn lại mãi mãi trong cuộc đối thoại không bao giờ kết

thúc"(10). Theo Bakhtin việc phổ cập tính hội thoại và phiếm thoại làm nên sự
thống nhất của ngôn ngữ chứ không phải là lời nói cá thể hay các yếu tố sáng tạo
của câu. (Chúng ta nhớ lại những quan điểm của M. Heideger về ngôn ngữ khi ông
cho rằng ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể và mỗi thông điệp của người nói phát
ra đều đòi hỏi ở người nhận nó những nỗ lực lớn để hiểu (11). Như vậy thông điệp
của lời nói còn phụ thuộc vào người đối thoại chứ không chỉ phụ thuộc vào người
nói. Quan điểm của Bakhtin về tính đối thoại nội tại của lời nói không chỉ soi sáng
những đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết mà còn giúp chúng ta có cái nhìn khoa
học hơn về tác phẩm văn học nói chung. Cơ sở lí luận văn học của trường phái
Bakhtin có ba hướng vận dụng: lí luận tác phẩm văn học; phân tích phiếm thoại; lí
luận sáng tác. Hướng thứ ba này có ý nghĩa nhất đối với lí luận văn học mácxít.
Có thể nói cách tiếp cận của Bakhtin đối với tác phẩm văn học không giống với
những mô hình lí luận văn học mácxít khác. Bakhtin không xem văn học là sự
nhận thức thực tại, mà chỉ là việc sử dụng ngôn ngữ trong thực tế. Điều này phân
biệt mô hình lí luận của Bakhtin với mô hình của Lukacs và Adorno, những người
luôn khẳng định tác phẩm văn học mang lại sự nhận thức thế giới hiện thực. Và
việc sử dụng ngôn ngữ là hoàn toàn khác so với sự biểu hiện của các tư tưởng


thông qua môi trường ngôn ngữ. Các quan điểm của Bakhtin khác xa so với quan
điểm của P.Macherey, người cũng đã ít nhiều nhận ra vai trò của ngôn ngữ.
Macherey trước hết nghiên cứu xem bằng cách nào mà văn học tạo ra được cái gì
đó nằm ngoài văn học. Điều ông quan tâm là phải chỉ ra được sự khác biệt giữa tư
tưởng xuất hiện trong một tác phẩm và sự thực hiện nó trong văn bản. Trường phái
Bakhtin không muốn thừa nhận văn học là sự phản ánh trực tiếp hiện thực, cũng
như vai trò quan trọng của tư tưởng trong văn học. Bakhtin cũng không xem văn
học là hình thức hiểu biết hay thể hiện mà chỉ là phương thức hoạt động mà thôi.
Mặc dù các nhà lí luận của trường phái Bakhtin không xuất phát từ quan điểm
ngôn ngữ của Saussure nhưng trong cách tiếp cận của họ chúng ta thấy có nhiều
yếu tố hoà đồng với quan điểm cấu trúc.

Ơ Việt Nam lí luận văn học vẫn chưa vận dụng hết những thành tựu của ngôn ngữ
học hiện đại, mặc dù trong một số bài nghiên cứu kí hiệu học, lý thuyết thông tin,
thi pháp học... các tác giả đã chú ý đến ngôn ngữ học. Những thành tựu của trường
phái Bakhtin hay sau này của Julia Kristéva không được thừa nhận ngay là do quan
niệm về sự khác biệt giữa thế giới kí hiệu và thế giới vật chất, về cấu trúc xã hội
v.v... Tuy nhiên, việc vận dụng mô hình ngôn ngữ một cách hệ thống sẽ mang lại
nhiều kết quả, chúng ta có thể đưa ngôn ngữ làm xuất phát điểm của việc nghiên
cứu xã hội học văn học với phạm vi rộng hơn, hay ở các lĩnh vực nghiên cứu khác
như ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ tiểu thuyết v.v... Nghiên cứu lí luận văn học không thể
tách rời những thành tựu của triết học và mĩ học, đó là điều người ta đã nói đến
nhiều, nhưng cần phải nhấn mạnh thêm rằng lí luận văn học hiện đại chỉ có thể
phát triển tương xứng với những đòi hỏi mới nếu nó cũng biết dựa vào những
thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại.
Hà Nội, 2001
T.Đ.D



×