Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài tiểu luận môn kinh tế lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.7 KB, 12 trang )

A LỜI MỞ ĐẦU
Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không
thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những
người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng
trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Lao động là một trong
bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi
của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai
trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Trong một xã hội dù lạc hậu hay hiện đại cũng cân đối
vai trò của lao động, dùng vai trò của lao động để vận hành máy móc.Lao động là một yếu tố
đầu vào của mọi quá trình sản xuất không thể có gì thay thể hoàn toàn được lao động.
Cải cách kinh tế nhiều năm qua đã đem lại những thay đổi toàn diện sâu sắc, có tính
đột phá liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo việc làm và không ngừng nâng
cao thu nhập, mức sống cho người lao động. Thị trường lao động được công nhận về mặt
hợp pháp và đang trong quá trình hình thành, phát triển, sức lao động trở thành một loại
hàng hóa. Người lao động được tự do tìm việc làm và người sức dụng lao động được quyền
thuê mướn lao động. Thị trường lao động nước ta đang từng bước có mối quan hệ hội nhập
với thị trường lao động khu vực, quốc tế, tạo thêm khả năng tăng cầu lao động và năng cao
thu nhập của người lao động
Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao động ở Việt
Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thế
nhưng, do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao động Việt Nam
đang bộc lộ nhiều yếu điểm lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng nhất là mất cân bằng giữa
cung và cầu, năng suất lao động thấp. Trong khi chúng ta dư thừa sức lao động ở nông thôn
thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ trung cao cấp lại thiếu hụt lao động
trầm trọng.
Với Việt Nam là một nước đang phát triển và muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
thì cần đề cao vai trò của lao động trong phát triển kinh tế. Những lý do trên là cơ sở của đề
tài: “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động ở Việt Nam hiện nay ”.


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ NGUỒN CUNG LAO ĐỘNG


1.1 Khái niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhắm biến đổi các vật chất tự
nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản xuất, con
người sử dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục
vụ cho lợi ích con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là
cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ quá
trình sản xuất nào.
1.2 Khái niệm về thị trường lao động.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những
người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống thị
trường vì lao động là hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất và kết quả của quá trình trao đổi
trên TTLĐ là việc làm được trả công.Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một
bên là người có sức lao động và một bên là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số
lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng.
1.3 Khái niệm về nguồn cung lao động
Cung lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật
nhà nước có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động, những người ngoài độ
tuổi lao động(trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn cung lao động được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các trường đại học,
cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung này có thể từ những người đang
tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức … và, nó được bổ sung thường xuyên từ
đội ngũ những người đến độ tuổi lao động. Ở Việt Nam tổng cục thống kê quy định nguồn
lao động là những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi nữ từ 15- 55 tuổi) và
người trên tuổi lao động đang làm việc. Cung về lao động phụ thuộc vào qui mô,cơ cấu dân
số của một nước, chất lượng của nguồn lao động (Trình độ văn hóa, cơ cấu ngành nghề, sức


khỏe… phong tục, tập quán xã hội của một nước và chính sách phát triển nguồn nhân lực
của nước đó.)

Cung lao động được hiểu là số lượng lao động( LS) mà người lao động có khả năng và
sẵn sàng cho doanh nghiệp thuê theo các mức tiền công( W) khác nhau trong một khoảng
thời gian nhất định.
LS= f(W)
- Lượng cung lao động là số lượng lao động mà người lao động có khả năng và
sẵn sàng cho doanh nghiệp thuê ở một mức tiền công nào đó trong một khoảng
thời gian nhất định.
- Tương tự như quy luật cung hàng hóa hay dịch vụ trên thị trường hàng hóa, nếu
người lao động được trả công lao động càng cao thì khả năng và tính sẵn sàng làm
thuê càng cao. Mức thu nhập sẽ thu hút người lao động.

Đường cung đối với lao động:
Mức lương
(đồng/giờ)

W2

W1

q1

q2

Lương lao động

Ở mức lương W1, lượng cung ứng lao động là q1( điểm A), tại mức tiền lương W2
công nhân sẽ muốn làm việc nhiều hơn mỗi tuần, nghĩa là cung cấp một lượng lao động
nhiều hơn là q2( điểm B).



Cũng giống như các yếu tố khác của xã hội, nguồn cung lao động cũng có tính hai
mặt đó là số lượng và chất lượng của cung lao đông.
Cung lao động về giác độ số lượng bao gồm : Dân số đủ 15 tuổi trở lên và có việc
làm, những người ngoài độ tuổi lao động(trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các
ngành kinh tế quốc dân.
Cung lao động về giác độ chất lượng cơ bản được đánh giá ở trình độ chuyên môn
tay nghề ( trí lực ), sức khỏe (thể lực ) và ý thức kỷ luật của người lao động.
1.4 Vai trò của nguồn lao động đối với phát triển xã hội.
Lịch sử loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển
kinh tế-xã hội. Ngay cả khi khoa học công nghệ đạt được trình độ phát triển cao, chi phối
mọi lĩnh vực đời sống, thì cũng không thể thay thế vai trò nguồn lực lao động, nhân tố của
sự sáng tạo và sử dụng công nghệ
Lao động chính là nhân tố quyết định việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
khác. Khi phân tích các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia
đều khẳng định các nguồn lựuc chủ yếu là lao động , tài nguyên, vốn, khoa học, 5 công
nghệ. Tuy nhiên, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, nguồn lao động chính là nhân
tố quyết định việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại. Không dựa trên nền tảng
phát triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hoá, kĩ thuật, kinh nghiệm quản
lý… thì không thể sử dụng các nguồn lực khác, thậm chí là lãng phí, làm cạn kiệt và huỷ
hoại chúng. Lao động là một bộ phận của các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất. Chi
phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của nguồn lực lao đọng trong hàng hoá,
dịch vụ. Như vậy, chi phí nguồn lực lao động trở thành nhân tố cấu thành mức tăng trưởng
của kinh tế. Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động tham gia tiêu dùng các sản
phẩm và dịch vụ xã hội, tạo cầu cho nền kinh té. Điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn lao động
với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung, vừa tạo cầu cho nền kinh tế. Bên cạnh
nhận thức vai trò của nguồn nhân lực lao động với phát trỉen kinh tế, cần thấy rõ ảnh hưởng
của trình độ phát triển kinh tế đối với nguồn lao động. Lượng của cải vật chất do nền kinh tế
tạo ra là cơ sở để phát triển nguồn lực lao động. Một quốc gia có năng suất lao động cao, của



cải nhiều, ngân sách dồi dào sẽ có những điều kiện về vật chất, tài chính để nâng cao dinh
dưỡng, phát triển văn hoá, giáo dục, chăm sóc y tế…nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Mặt khác, việc phát triển kinh tế làm xuất hiện ngành nghề mới, công việc mới… đòi
hỏi nguồn lực lao động phải không ngừng hoàn thiện.
Đối với Việt Nam thì nguồn cung lao động là lực lượng không thể thiếu trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong hoàn cảnh hiện nay khi
mà công nghệ chưa phát triển đến mức cao nhất, tài nguyên khoáng sản nhiều song không
được khai thác một cách hợp lý thì yếu tố con người đóng vai trò then chốt trong mọi lĩnh
vực hoạt động phát triển đất nước. Từ sau đồi mới nguồn lao động chính là nhân tố chính
đưa đất nước lên một tầm cao mới, sự sáng tạo và sử dụng các tư liệu sản xuất một cách hợp
lý của con người đã đưa Việt Nam vươn tới trường quốc tế chỉ trong vòng hơn 20 năm.
CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CUNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến cung lao động ở Việt Nam.
1.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến cung về số lượng người lao động
Các nhân tố tác động đến cung lao động được xem xét ở hai khía cạnh : số lượng và
chất lượng cung lao động.
1.1.1 Dân số:
Quy mô lực lượng lao động của mỗi quốc gia phụ thuộc vào quy mô dân số của quốc
gia đó. Quy mô dân số càng lớn sẽ tạo nguồn nhân lực sẵn sàng cung cấp sức lao động cho
xã hội càng lớn. Tốc độ tăng dân số quyết định quy mô dân số, và quyết định quy mô nguồn
lao động sau khoảng thời gian 15 năm sau. Tốc độ tăng dân số lại được quyết định bởi tỷ lệ
tăng tự nhiên dân số ( tỷ lệ sinh so với tỷ lệ chết) và di dân thuần tuý. Quy định giới hạn
dưới của độ tuổi lao động cũng tác động đến quy mô lực lượng lao động tiềm năng của quốc
gia (số người đủ tuổi lao động trở lên sẽ phụ thuộc vào quy định giới hạn này ). Nâng cao
hay hạ thấp giới hạn này sẽ tạo nên lực lượng lao động tiềm năng giảm đi hay tăng lên. Mặt
khác, cơ cấu dân số trẻ hay già, sẽ cho ta đội ngũ lao động đủ tuổi lao động trở lên ít hay
nhiều. Điều đó quyết định cung lao động nhỏ hay lớn.


1.1.2 Tỷ lệ tham gia lao động:

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quyết định cung lao động về số lượng. Tạo việc
làm càng nhiều và thu hút nguồn nhân lực càng lớn, tức là làm cho tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động càng gần tới 100% chính là tạo ra cung lao động càng lớn. Tuy nhiên, phần lớn
những người có việc làm (làm công việc được trả tiền công) đều được tính trong lực lượng
lao động mà không cần biết họ làm việc bao nhiêu giờ trong ngày hoặc trong năm. Thời gian
làm việc của những người lao động khác nhau có thể không giống nhau. Vì thế, cung về số
lượng lao động và cung về thời gian lao động có thể khác nhau. Quy mô của lực lượng lao
động chưa nói lên được mức độ tham gia và cường độ tham gia lao động.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cung thời gian làm việc:
1.2.1 Lợi ích, sở thích, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình
Thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần:
Để thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần, con người có nhu cầu lao động thật sự. Lao động
đã sáng tạo ra con người và cũng là nhu cầu trong sự tồn tại của nó. Con người phụ thuộc vào các tiềm
lực sản xuất của mình về các sản phẩm chủ yếu và kiểu cách tiêu dùng.
- Do áp lực về tâm lý- xã hội
Lao động được coi là hình thể của sự tôn kính và qua lao động đã tạo nên một tập thể
bè bạn và sự hiểu biết lẫn nhau.
Lao động tạo nên sự thăng bằng về mặt tâm lý cho con người. Để thỏa mãn nhu cầu
về tâm lý, con người sẵn sàng lao động. Khi người lao động yêu thích công việc của mình và
làm việc với niềm tự hào, kiêu hãnh, họ có thể làm việc ngay cả khi không có thu nhập
- Do áp lực về kinh tế
Con người luôn có khao khát vật chất, tạo nên áp lực về kinh tế để tang cung lao động.
Khi muốn tăng mức tiêu dùng thì cần phải có thu nhập. Để trang trải cho khoản tiêu
dùng đó thì tất cả mọi người đều thấy cần thiết phải có việc làm, đôi khi họ dùng cả thời gian
ngỉ ngơi của mình để làm việc, sử dụng có giá trị thời gian đó.


- Phạm vi thời gian.
Trong một ngày người ta có thể làm việc và ngỉ ngơi, nhưng con người không thể
làm việc 24h mà phải nghỉ ngơi, giải trí.

Nghỉ ngơi là một hoạt động không làm việc mà có giải trí, một phần ta cần nghỉ ngơi
để hồi phục khả năng lao động, mặt khác cũng phải dành thời để tiêu dùng những loại hàng
hóa mà mình mua sắm.
⇒ Nghỉ ngơi là chi phí cơ hội của người lao động và ngược lại.
Đồ thị lựa chọn giữa lao động và nghỉ ngơi :
Lợi ích cận biên

A

của nghỉ ngơi

B
C

0





20

24

Giờ nghỉ ngơi

Tại điểm C: người C dành chọn 24h trong ngày để nghỉ ngơi.
Tại điểm A: là một trạng thái cực đoan, làm việc mà không nghỉ ngơi.
Tại điểm B: là sự lựa chọn thực tế khi biết kết hợp giữa lao động và nghỉ ngơi. Một
ngày có 24h thì người B lựa chọn 4h nghỉ ngơi và 20h làm việc.

Hệ số co giãn công về lao động:





: phần trăm thay đổi về lượng lao động cung ứng.
%: phần trăm thay đổi về mức lương.
: hệ số co dãn của cung về lao động.
1.2.2. Sở thích khác nhau của người lao động quyết định số giờ làm việc khác nhau.


Sở thích khác nhau của người lao động quyết định số giờ làm việc khác nhau: có
người thích làm nhiều, kiếm nhiều tiền nhưng cũng có người thích dành thời gian nghỉ ngơi
nhiều hơn.
1.2.3. Nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình
Nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình cũng quyết định đến cung thời gian làm việc trên thị
trường. Nghề nghiệp có điều kiện làm việc thuận lợi, có cơ hội nổi tiếng, dễ chịu, thoải mái,
hứng thú sẽ làm người người lao động tích cực làm việc nhiều hơn. Hoàn cảnh gia đình thiếu
thốn, phải nuôi nhiều người, còn đang độc thân hay có gia đình…đều có ảnh hưởng quyết
định thời gian tham gia làm việc nhiều hay ít.
1.2.4. Tiền lương, thu nhập không lao động cũng tác động tới thời gian làm việc.
Ảnh hưởng thay thế: tiền lương tăng khi giữ nguyên thu nhập không lao động làm
tăng số giờ làm việc. Ảnh hưởng thu nhập: tiền lương tăng,giữ nguyên thu nhập không lao
động thì số giờ làm việc giảm.
Quan hệ giữa số giờ làm việc và tiền lương:
+Mức tiền lương tăng lên sẽ làm tăng số giờ làm việc nếu ảnh hưởng thay thế trội hơn
ảnh hưởng thu nhập.
+Mức tiền lương tăng lên làm giảm số giờ làm việc nếu ảnh hưởng thu nhập trội
hơn ảnh hưởng thay thế.

1.2.5. Những chính sách của Nhà nước.
Các chính sách Nhà nước sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên cung lao động trên
thị trường. Thay đổi chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp, hay chính sách
tín dụng thuế… đều tác động đến khả năng tham gia thị trường lao động của những người
chưa tham gia làm việc, tăng giảm số giờ làm việc của những người đang làm việc và đều
tác động đến cung lao động trên thị trường.
1.3. Một số yêu tố khác ảnh hưởng tới chất lượng của nguồn cung lao động Việt
Nam hiện nay.
1.3.1. Giáo dục và trình độ lao động
Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm nâng cao
kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời.


Giáo dục phổ thông ( giáo dục cơ bản ) nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản để
phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học vừa giúp người học có kiến
thức đồng thời còn giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào
tạo nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì. Yêu
cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào.
Vai trò của giao dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động được phân tích qua nội
dung sau.
Thứ nhất, giáo dục là cách thức để tích lũy vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ
giúp con người sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công mới do đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế dài hạn.
Thứ hai, giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc với
năng suất cao là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững.
Vai trò của giáo dục thường được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ tiêu “ tỷ suất lợi
nhuận cho giáo dục”. Về lý thuyết, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư giáo dục cũng giống như lợi
nhuận đầu tư vào bất kỳ một dự án nào khác. Đó là tỷ lệ phầm trăm của lợi nhuận từ đầu tư
ở một mức độ giáo dục nhất định với tổng các chi phí khác. So sánh chỉ số này giữa các cấp
giáo dục có thể giúp cho việc đánh giá lợi ích kinh tế của đầu tư giáo dục ở cấp nào hiệu quả

hơn.
Kết quả nghiên cứu của các nước cho thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào cấp tiểu học
là cao hơn các cấp khác. Chẳng hạn, tỷ suất lợi nhuận chung của thế giới ( đầu thập niên 90)
ở cấp tiểu học là 18.4%, ở cấp trung học là 13.2%, đại học là 10.9%. Các số liệu tương ứng
của Việt Nam là 10.8%, 3.8%, 3.0%. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục tiểu học và giáo dục
cơ bản có hiệu quả hơn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Do vây chính sách giáo
dục của các nước đang phát triển cũng tập trung nhiều và ưu tiên nhiên hơn cho giáo dục
tiểu học.
Thứ ba, giáo dục giúp cho việc cung cấp kiến thức và những thông tin để người dân,
đặc biệt là phụ nữ có thể sử dụng những công nghệ nhằm tăng cường sức khỏe, dinh dưỡng.
Chẳng hạn tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống, tỷ lệ dinh dưỡng trẻ em tăng lên, cùng với học


vấn của cha mẹ, đặc biệt là của người mẹ vì biết sin hoạt vệ sinh hơn, hay biết cách sử dụng
những thức ăn giầu chât dinh dưỡng hơn.... Với ý nghĩa trên giáo dục còn góp phần vào việc
bổ sung cho các dịch vụ y tế (giảm nhu cầu về những dịch vụ y tế)
1.3.2. Sức khỏe người lao động
Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không
phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật. Sức khỏe có tác động tới chất
lượng của lao động cả hiện tài và tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại
những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng
tập trung cao trong khi làm việc.
Sức khoẻ là một vấn đề rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dân số nói
chung và chất lượng lao động nói riêng, nó là một trong chiến lược phát triển con người ở
mỗi quốc gia trên Thế giới. Khi nói tới sức khoẻ bao gồm 2 khía cạnh : sức khoẻ tinh thần và
thể lực con người, chúng ta thường nói “ Có sức khoẻ là có tất cả”, Bởi sức khoẻ giúp con
người làm việc tốt và chủ động tham gia vào các hoạt động đời sống kinh tế xã hội, cộng
đồng. Vì vậy, muốn phát triển đất nước, trước hết phải quan tâm tới yếu tố này, lấy con
người làm trung tâm .Do tầm quan trong của sức khỏe là rất lớn do đó phải tập trung về vấn
đề này ngay từ đầu. Nhà nước cần có các chính sách đặc biệt dành cho trẻ nhỏ và bà mẹ để

có thể đảm bảo được một nguồn lao động dồi dào và chất lượng ngay từ nhỏ.
1.3.3. Yếu tố trách nhiệm và tác phong công nghiệp
Về ý thức trách nhiệm đó là thể hiện trong mối quan hệ với nhiệm vụ được giao, với
công việc phải làm. Khi được giao việc gì, bất kỳ to, hay nhỏ, khó hay dễ, đều phải dồn hết
tâm huyết làm đến nơi, đến chốn, tự giác làm. Nếu làm việc theo lối cẩu thả, dễ làm, khó bỏ,
làm cho qua chuyện, gặp sao làm vậy… là không có tinh thần trách nhiệm. Ý thức trách
nhiệm còn thể hiện không thụ động, trông chờ, ỷ lại; phải chủ động trong cộng việc được
giao.
Tác phong công nghiệp đó là là cách ứng xử, cách làm việc, cách giao tiếp trong
công nghiệp. Đó là sự thể hiện của một cá nhân hay tập thể tới công việc làm được giao, nó
biểu hiện tính trách nhiệm với công việc, có thể nói đó là một yếu tố quan trọng không kém


so với hai yếu tố ở trên. Hiện nay tác phong làm việc của người Việt Nam vẫn còn chưa tốt.
Nó được thể hiện qua sự chậm trễ hay thiếu nhiệt tinh với công việc. Ngày nay khi đất nước
đang phát triển thì việc nâng cao tính kỷ luật và tác phong làm việc là cần thiết. Việt Nam
nên học tập những nước có phong cách làm việc hiệu quả như Mỹ, Nhật Bản...Để có thể đạt
được điều này không phải là đơn giản với nước ta, cần phải có những biện pháp thích hợp cả
về khen thưởng và kỷ luật để có thể đạt được hiệu quả tốt.
1.3.4. Chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực
Quan điểm, chiến lược phát triển con người và nguồn nhân lực trong từng giai đoạn
lịch sử có tác động rất lớn tới chất lượng của nguồn nhân lực. Nhà nước có quan tâm, chăm
lo xây dựng và phát triển con người và nguồn nhân lực được thể hiện qua chiến lược phát
triển con người và nhân lực nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài…thông qua hệ thống pháp
luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người như Luật giáo dục, Luật lao động… và các chế
độ chính sách, ví dụ như các chính sách về phát triển giáo dục, kinh tế, văn hoá…
1.3.5. Hội nhập quốc tế
Quá trình hội nhập quốc tế dưới nhiều hình thức : liên doanh liên kết, xuất khẩu lao
động, đào tạo quốc tế… có tác động tích cực đến chất lượng cung lao động, giúp cho nguồn
nhân lực nâng cao tri thức, thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, trình độ quản lý.


B. KẾT LUẬN
Cung lao động tại Việt Nam chủ yếu là lao động trẻ, trình độ thấp, giá rẻ. Hiện nay
mới chỉ hơn 20% lao động tại Việt Nam được đào tạo cơ bản. Hơn nữa, trong số hơn 20%
lao động được đào tạo cơ bản này vẫn còn những bất cập. Theo đó, cơ cấu đào tạo cũng
không hợp lý gây ra tình trạng thừa thầy thiếu thợ, lực lượng công nhân kỹ thuật bậc cao
cũng rất khan hiếm. Việt Nam là quốc gia đang hội nhập quốc tế sâu rộng và nền kinh tế có


độ mở cao nhưng tỷ lệ lao động chất lượng còn thấp, khi có gần 77% lực lượng lao động
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đây là nút thắt lớn trong trục phát triển kinh tế - xã
hội và không dễ khai thông “trong một sớm một chiều” bởi lực lượng lao động giản đơn vẫn
quá đông và chưa có dấu hiệu giảm nhanh trong suốt thập kỷ qua.
Để giải quyết những tồn tại, bất cập của thị trường lao động trước cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, ông Vũ Quang Thọ, Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam cho rằng, thị trường lao động Việt Nam cần tiếp tục phát triển theo hướng
hiện đại hóa với hệ thống; khuôn khổ luật pháp, thể chế, chính sách thị trường lao động phải
từng bước hoàn thiện; nâng cao chất lượng nguồn cung lao động, khắc phục ngay tình trạng
thiếu nghiêm trọng lao động trình độ kỹ thuật cao, lao động trong một số ngành công nghiệp
mới



×