Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.73 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
--------------------------

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

ĐỀ TÀI: QUẢN LÝ THU THUẾ THU NHẬP DOANH
NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ NINH BÌNH

Hà Nội, năm 2018


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế thu nhập doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định
nguồn thu ngân sách nhà nước và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước (NSNN)
và là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khuyến khích sản xuất phát
triển. Do vậy, tất cả các quốc gia đều quan tâm và đưa ra nhiều biện pháp quản lý và thu
thuế nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước. Ở các nền kinh tế phát triển, nguồn
thu từ thuế chiếm một tỷ trọng lớn trong thu ngân sách, còn với nước ta, thuế là nguồn
thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước. Do đó, việc nuôi dưỡng nguồn thu cùng với công
tác quản lý thu thuế là nhiệm vụ quan trọng với ngành thuế hiện nay. Thực tế việc xác
định thu nhập chịu thuế là căn cứ quan trọng để xác định thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với người nộp thuế, tuy nhiên, không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng xác định
đầy đủ, chính xác thu nhập chịu thuế, đúng theo các qui định của pháp luật. Điều này
không phải là vấn đề cá biệt với các doanh nghiệp ở nước ta trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường hiện nay.
Thực tế, trong công cuộc đổi mới kinh tế gắn với phát triển kinh tế thị trường,
với các sắc thuế đang áp dụng ở Việt Nam hiện nay, thì thuế thu nhập doanh nghiệp
không chỉ là loại thuế đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, nó còn là một


công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường. Thực tế, thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế khó quản
lý và dễ bị thất thu lớn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý thuế thu nhập doanh
nghiệp vừa đảm bảo thu ngân sách, thực hiện công bằng giữa các chủ thể kinh doanh,
vừa kích thích phát triển sản xuất kinh doanh đang là một vấn đề thu hút sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước.
Sau 19 năm thực hiện Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp đến nay, Chi cục thuế
thành phố Ninh Bình đã triển khai thực hiện tốt Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật
Quản lý thuế, các quy định của Trung ương về quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tuy vậy, công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp hiện còn nhiều bất cập trong cơ
chế chính sách, nội dung ban hành chính sách đôi lúc chưa phù hợp với thực tế làm
cho cán bộ công chức thực thi nhiệm vụ lúng túng trong việc xử lý giải quyết, các quy
trình quản lý thuế còn nhiều vướng mắc, quy trình ban hành không theo kịp với quy
định sửa đổi, bổ sung về chính sách thuế, đặc biệt trình độ nghiệp vụ chuyên môn của


một số cán bộ, công chức ngành chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, ý thức
tuân thủ pháp luật thuế, chấp hành nghĩa vụ thuế của người nộp thuế còn thấp. Một số
hiện tượng tiêu cực còn phổ biến như: Doanh nghiệp bỏ ngoài sổ sách nhiều khoản thu
nhập (thu nhập chính từ sản xuất kinh doanh, thu nhập khác); hạch toán tăng tài sản
không đúng quy định; Đưa thêm nhiều khoản chi phí khác để hạch toán vào giá trị tài
sản nhằm làm tăng chi phí, giảm thu nhập chịu thuế nhằm mục đích trốn thuế; Nhiều
doanh nghiệp đăng ký ngành nghề thuộc đối tượng được ưu đãi nhưng không thực
hiện kinh doanh đúng đăng ký; đăng ký địa bàn hoạt động nhưng sau đó di chuyển địa
bàn khác; đầu tư mở rộng, nhưng không tách riêng phần lợi nhuận tăng thêm do đầu tư
mở rộng tính ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trên tổng lợi nhuận của Doanh
nghiệp, do đó đã gây thất thu lớn.
Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp, cải tiến
qui trình, thủ tục, cũng như đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, thuế để
làm tăng thêm hiệu lực, hiệu quả của công cụ quản lý thuế nói chung, thuế thu nhập

doanh nghiệp nói riêng trở nên rất cấp thiết đối với Chi cục thuế thành phố Ninh
Bình. Đề tài "Quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa trên địa bàn thành phố Ninh Bình" được lựa chọn làm luận văn thạc sĩ của học
viên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp không phải là vấn đề nghiên cứu mới vì
thế trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều tác giả đã có rất nhiều luận văn
thạc sĩ và công trình nghiên cứu như các báo cáo khoa học, các bài đăng trên các báo,
tạp chí, giáo trình...đã nghiên cứu về vấn đề này. Đây là nguồn tài liệu tham khảo
phong phú trong việc nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ của trường Đại học Đà Nẵng năm 2012 của tác giả Trần Phan
Quốc Hưng “Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp tại Cục thuế tỉnh Gia Lai” Tác giả
đưa ra được nhữnghạn chế trong công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp và đưa
ra các giải pháp như: Hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương pháp
quản lý , thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ , áp dụng rộng rãi công
nghệ thông tin để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát cho được tất
cả các đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất,
bảo đảm thu đúng, thu đủ và kịp thời các khoản thu vào NSNN.


Luận văn thạc sĩ của trường Đại học kinh tế -Đại học quốc gia Hà Nội năm
2015 của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Mai “Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi
cục thuế huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc” Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân
tích, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục
thuế huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó kết hợp với lý luận quản lý Nhà
nước về thuế thu nhập doanh nghiệp để chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của quá trình
này. Từ đó đề xuất một số giải pháp có thể thực hiện được để tăng cường công tác
kiểm soát thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Oanh (2015) về “Quản lý thu thuế thu nhập doanh

nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” đã nêu được
các vấn đề cơ bản về thuế thu nhập doanh nghiệp, phân tích đánh giá thực trạng công
tác thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh, đưa ra được các vấn đề việc tổ chức triển khai thu thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với DNNVV trên địa bàn của cơ quan thuế và năng lực, trình độ của cán bộ
thuế còn hạn chế, công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý và cưỡng chế nợ thuế còn nhiều
yếu kém. Từ đó đưa ra những nhóm giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối
với DNNVV trên địa bàn: Nhóm giải pháp về kê khai nộp thuế, nhóm giải pháp về
tuyên truyền hỗ trợ, nhóm giải pháp về thanh tra, kiểm tra, nhóm giải pháp về quản lý
nợ thuế.
Như vậy, hiện nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Quản lý thu
thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn
thành phố Ninh Bình” nên đề tài không bị trùng lặp, kế thừa và có chỗ đứng trong
khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ vừa và
trên địa bàn thành phố Ninh Bình, góp phần tăng nguồn thu ngân sách nhà nước cho
tỉnh Ninh Bình.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về thuế thu nhập doanh nghiệp và quản lý thu thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.


- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; từ đó
đưa ra những ưu điểm và hạn chế, đồng thời xác định nguyên nhân của thực trạng làm
cơ sở cho việc đề xuất giải pháp.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ vừa và trên địa bàn thành phố

Ninh Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chủ yếu là các nội dung quản lý thu thuế thu
nhập đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở thành phố Ninh Bình.
* Phạm vi nghiên cứu:
-Về nội dung
Nghiên cứu công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa, trong đó tập trung vào quản lý kế hoạch thu, kê khai thuế; quản lý
thu nộp thuế;quản lý thanh tra, kiểm tra xử lý nợ đọng, hoàn thuế trong thu thuế; kế
hoạch quyết toán thuế và lập báo cáo lên cấp trên.
- Về không gian
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đăng ký mã số thuế tại chi cục thuế thành
phố Ninh Bình và địa bàn thành phố Ninh Bình.
- Về thời gian
- Phân tích số liệu trong giai đoạn 2014-2017
- Đề xuất, kiến nghị giai đoạn 2018-2020
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập dữ liệu
Thu thập tài liệu tại cơ quan thuế thành phố Ninh Bình; thu thập qua mạng
Internet thông qua website của Chi cục thuế thành phố Ninh Bình và Cục thuế tỉnh
Ninh Bình và các bài nghiên cứu khoa học, giáo trình hay luận văn khóa trước, cùng
các bài báo điện tử viết về thực trạng thu thuế thu nhập doanh nghiệp tại thành phố
Ninh Bình.
* Phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu
Phương pháp thống kê, so sánh:


- Lấy kết quả thu thuế thu nhập doanh nghiệp so sánh qua các năm
- Dựa theo kết qua thu thuế thu nhập doanh nghiệp so với tổng thu cho NSNN

của thành phố.
- Kết quả thu thuế thu nhập doanh nghiệp so với tổng số doanh nghiệp đăng ký
mã số thuế trên địa bàn thành phố Ninh Bình.
Phương pháp phân tích:
Phân tích tình hình thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Ninh Bình, phân tích theo thời gian và theo không
gian. Sử dụng phần mềm hỗ trợ (qua phương tiện công nghệ thông tin) để xử lý dữ
liệu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp với doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Ninh Bình.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lý thu thuế
thu nhập doanh nghiệp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Ninh
Bình.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA ĐỊA
PHƯƠNG
1.1. Tổng quan về thuế thu nhập doanh nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1.1. Khái niệm
Trên thế giới hiện nay chưa có một định nghĩa chung cho loại hình doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tùy thuộc vào hình thức pháp lý, đặc điểm kinh tế - kỹ
thuật, trình độ phát triển của các quốc gia, mặt bằng giá trị sức lao động, giá trị tài sản,
thiết bị hay mục đích xếp loại doanh nghiệp trong từng thời kỳ mà các quốc gia có những

tiêu chí khác nhau để xác định DNNVV. Vì vậy, định nghĩa thế nào là DNNVV chỉ mang
tính chất tương đối. Tuy nhiên, hai tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lượng lao
động và quy mô nguồn vốn nhưng nó thường xuyên thay đổi để phù hợp với các giai đoạn
phát triển của mỗi quốc gia. Theo Ngân hàng thế giới thì DNNVV được phân loại tiêu
như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNNVV của Ngân hàng thế giới
Stt
1
2
3

Phân loại
DN cực nhỏ
DN nhỏ
DN vừa

Số lao động (người)
10
< 50
< 300

Số vốn (USD) Doanh thu (USD)
< 100.000
< 100.000
< 3.000.000
< 3.000.000
< 15.000.000
< 15.000.000
Nguồn: Ngân hàng thế giới


Tại Việt Nam, từ năm 1998 trở về trước các DNNVV được phân loại theo hai
nhóm là: doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Đến năm 1998
thì các DNNVV được định nghĩa là doanh nghiệp có quy mô vốn kinh doanh dưới 5
tỷ đồng và số lượng lao động bình quân năm ít hơn 200 người (Công văn
681/1998/CP – KTN). Tuy nhiên, các tiêu thức này chủ yếu mang tính chất quy ước
hành chính để phục vụ cho việc quản lý và vận dụng chính sách hỗ trợ phát triển.
Ngày 23/11/2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP nhằm hỗ
trợ phát triển DNNVV. Theo đó DNNVV được định nghĩa là “Doanh nghiệp nhỏ và
vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người”. Tuy nhiên, định nghĩa này chỉ quan tâm đến số vốn và quy mô


lao động chưa quan tâm đến hình thức sở hữu, loại hình doanh nghiệp,…Vì vậy, ngày
30/6/2009 Chính phủ đã ban hành định nghĩa mới về DNNVV trong Nghị định số
56/2009/NĐ-CP. Theo Nghị định này, “DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh
doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy
mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên)”
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNNVV theo Nghị định 56/2009/NĐ - CP
Quy mô

DN siêu

DN nhỏ

nhỏ

Tổng


Lao động

vốn (tỷ

(người)
Số lao động
I. Nông, lâm,
thủy sản
II. Công nghiệp
và xây dựng
III. Thương mại
và dịch vụ

đồng)

Lao động
(người)

< 10

< 20

10 - 200

< 10

< 20

< 10


< 10

DN vừa
Tổng
vốn

Lao động
(người)

(tỷ đồng)
20 –

201 –

100

300

10 - 200

20 – 100

201 – 300

10 - 50

10 – 50

51 – 100


Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ - CP
Như vậy, các doanh nghiệp được coi là nhỏ và vừa tại Việt Nam nếu đáp ứng
các tiêu chí sau:
- Quy mô: vừa, nhỏ và siêu nhỏ
- Vốn đăng ký: Phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp và quy mô,
- Số lượng lao động bình quân năm: Phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp và
quy mô.
- Về pháp lý: các tổ chức đã kinh doanh theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm
Cũng như các DNNVV trên thế giới, với quy mô nhỏ, DNNVV Việt Nam cũng
có những đặc điểm tương tự như ở các quóc gia khác. Ngoài ra, do đặc trưng của nền
kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nên các DNNVV ở Việt Nam có những đặc điểm sau :
- Các DNNVV thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức


doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp và các công ty tư nhân,
các hợp tác xã. Trong một thời gian dài xuất hiện sự phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần khác nhau. Điều này làm ảnh hưởng đến tâm lý, phong
cách kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay đồng thời tạo ra những điểm xuất phát
về tiếp cận nguồn lực không như nhau trong giao đất, vay vốn ngân hàng,...
- Khả năng quản lý hạn chế do các chủ doanh nghiệp thường là những cá nhân
tự đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ là những người vừa quản lý vừa
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh nên mức độ chuyên môn trong
quản lý không cao. Do phần lớn chủ doanh nghiệp thường không được đào tạo về quản
lý chính quy hoặc không qua khóa đào tạo nào. Mặc dù vậy họ lại không quan tâm đến
việc đào tạo để nâng cao năng lực quản lý.
- Là những doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây thường là những
doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các

doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình. Nguyên nhân là
do các doanh nghiệp này chưa có kinh nghiệm huy động vốn kinh doanh. Ngoài ra, các
tổ chức cung ứng vốn xem khu vực này có nhiều rủi ro nên chưa sẵn sàng cấp tín
dụng.
- Trình độ tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp thường không cao,
vì các chủ DNNVV chưa đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc
thuê lao động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính Bên cạnh đó, định kiến của
người lao động cũng như những người thân của họ về khu vực này còn khá lớn vì họ
cho rằng làm việc trong những doanh nghiệp này công việc không ổn định, tiền lương
thấp, ít cơ hội thăng tiến... dẫn đến ít thu hút được lao động có chuyên môn cao. Người
lao động ít được đào tạo, nâng cao trình độ vì kinh phí hạn hẹp nên trình độ và kỹ năng
lao động thấp.
- Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai,
nhiều DNNVV có những sáng kiến công nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính cho
việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh
nghiệp lớn mua lại với giá rẻ. Tuy nhiên các DNNVV rất linh hoạt trong việc thay đổi
công nghệ sản xuất do giá trị của dây truyền công nghệ thường thấp và họ thường có
những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công
nghệ cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt trong đổi mới công nghệ và tạo


nên sự khác biệt về sản phẩm để các doanh nghiệp này có thể tồn tại trên thị trường.
- Các DNNVV thường thuê mặt bằng với diện tích hạn chế và cách xa trung
tâm hoặc sử dụng chính những diện tích đất riêng của mình làm mặt bằng sản xuất và
kinh doanh. Vì vậy, các DNNVV rất khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh
khi quy mô doanh nghiệp được mở rộng.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém, nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV
thường là những doanh nghiệp mới hình thành, khả năng tài chính cho các hoạt động tiếp
thị không có và cũng chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị
trường của các doanh nghiệp này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng

ra các thị trường mới là rất khó khăn .
- Các DNNVV khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, do đó thường sử dụng nguồn
vốn vay từ bạn bè, người thân. Nguyên nhân là do các DNNVV thiếu tài sản đảm bảo,
sổ sách chứng từ kế toán không rõ ràng minh bạch, chưa có uy tín trên thị trường...
1.1.1.3. Vai trò
DNNVV không có được lợi thế về mặt kinh tế so với các doanh nghiệp lớn.
Song về tổng thể, các DNNVV có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và ổn định
kinh tế, chính trị và xã hội ở cả thành thị và nông thôn, trên khắp các vùng, miền của
đất nước, phát huy các nguồn nội lực đa dạng, tài năng kinh doanh, tiền vốn, tài
nguyên, lao động… tận dụng mọi cơ hội để phát triển, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Vai trò của DNNVV với phát triển kinh tế - xã hội
được khẳng định qua các mặt sau:
Thứ nhất, DNNVV đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế
Ở các quốc gia trên thế giới số lượng DNNVV thường chiếm từ 90% đến 95%
tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế và giải quyết việc làm cho khoản 2/3 lực lượng
lao động xã hội. Với số lượng lớn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thu
hút phần lớn lao động làm việc trong các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ…
DNNVV tạo ra một phần lớn sản xuất xã hội và thu nhập quốc dân.
Tại Việt Nam, các DNNVV chiếm một tỷ lệ chủ yếu trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh nên tỷ lệ đóng góp của khu vực này cho GDP là khá ổn định và đều
đặn. Theo Tổng thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam, thì hiện nay DNNVV đóng góp
gần 45% GDP của cả nước. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích kinh tế thì con số thực tế
còn lớn hơn rất nhiều, bởi vì trong thực tế, rất nhiều DNNVV ngoài Nhà nước đã không


trực tiếp đứng tên trong một số hoạt động giao dịch, họ chỉ xuất ủy thác cho doanh
nghiệp Nhà nước hoặc thực hiện các kênh khác của quy trình sản xuất.
Thứ hai, DNNVV góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, tham gia vào quá trình phân phối lại thu nhập, giúp ổn định xã hội
Các DNNVV có vai trò rất lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm, giải quyết

tình trạng thất nghiệp chính vì vậy các quốc gia đã đặc biệt chú trọng phát triển
DNNVV. Thực tiễn đã cho thấy do việc tạo lập DNNVV dễ dàng, vốn đầu tư không
lớn, phân bố rộng khắp nên rất thuận lợi để thu nhận số lượng lớn lao động giản đơn.
Bên cạnh đó, sự phát triển DNNVV ở khu vực phi đô thị đã góp phần làm giảm áp lực
di dân vào các đô thị do thu hút những lao động nông nghiệp chuyển sang công
nghiệp, dịch vụ nhưng không phải chuyển ra các vùng thành thị.
Theo thống kê chưa đầy đủ, DNNVV ở nước ta hiện nay tạo ra khoảng 51%
việc làm phi nông nghiệp nông thôn, khoảng 28-30% lực lượng lao động cả nước,
mỗi năm tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới, nhưng triển vọng thu hút lao động rất lớn
vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp
lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân.
Lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong một doanh nghiệp tư nhân chỉ có
35 triệu đồng và trong công ty trách nhiệm hữu hạn là 45 triệu đồng, trong khi
lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp Nhà nước là 87,5 triệu
đồng.
Thứ ba, là khu vực thu hút tích cực và có khả năng huy động các nguồn vốn,
nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển
Với việc tạo lập DNNVV không cần nhiều vốn, phân bố rộng khắp các vùng
lãnh thổ, thu hút vốn nhanh cho phép doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng
lao động, tiền vốn mà các doanh nghiệp lớn khó thực hiện. Bên cạnh đó, trong quá
trình hoạt động, DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn từ các nguồn nhàn rỗi như vay
bạn bè, người thân. Lao động thì thường sử dụng chủ yếu trong gia đình hoặc tuyển
dụng tại chỗ không tốn chi phí đào tạo. Thực tế cho thấy, việc tạo lập DNNVV là một
phương thức có hiệu quả để khai thác mọi nguồn lực trong nước như lao động, tiền
vốn, tài nguyên sẵn có tại địa phương phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
Ở Việt Nam, trong thời kỳ 2005 - 2010, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư
nhân là 980 nghìn tỷ đồng, chiếm 32% trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là


3.062 nghìn tỷ đồng (tương đương 150 tỷ USD). Theo kế hoạch phát triển KTXH thời

kỳ 2010 - 2020, để bảo đảm tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm 7% - 8% và hơn nữa,
vốn huy động của khu vực dân cư và tư nhân (chủ yếu là DNNVV) phải đạt 6.230
nghìn tỷ đồng, chiếm 35% so với tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là 17.800
nghìn tỷ đồng (tương đương 850 tỷ USD).
Thứ tư, làm cho nền kinh tế năng động hơn, góp phần to lớn đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Do yêu cầu vốn ít, quy mô nhỏ, đồng thời phần lớn lại thuộc kinh tế tư nhân,
chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình, cho nên
DNNVV có yêu cầu tự thân và cũng có nhiều khả năng cải tiến mẫu mã, thay đổi mặt
hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ,…góp phần làm cho nền kinh tế
năng động hơn, thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ
cấu lãnh thổ, phân bố dân cư…Ở nước ta, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, thuần
nông là chủ yếu đã và đang chuyển dần sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo
hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt
kinh tế, xã hội của nhiều vùng nông thôn đã có thay đổi: nhiều thị trấn, thị tứ đông
đúc, nhộn nhịp hơn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được
hình thành, đi đôi với việc bộ mặt nông thôn ngày càng phát triển như giao thông,
lưới điện,…
Thứ năm, góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, phát triển
các ngành nghề truyền thống, tăng nguồn hàng xuất khẩu
Tuy có quy mô hạn chế nhưng với số lượng lớn, DNNVV đã tạo thành mạng
lưới kinh doanh rộng khắp, với ưu thế về vốn và sự năng động sẵn có, thương mại tư
nhân (chủ yếu là DNNVV) chi phối hầu hết hoạt động bán lẻ trên thị trường. Phần lớn
DNNVV có khả năng đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các tầng lớp
dân cư và sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làm cho thị trường ngày càng
sôi động, tác động đáng kể đến quá trình sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân.
Với những ưu thế của riêng mình, DNNVV năng động đầu tư vào các ngành
nghề có nhiều lợi thế so sánh, đặc biệt là đối với các ngành nghề truyền thống ở các
địa phương, tạo ra nhiều loại hàng hóa phong phú đa dạng và cung cấp hàng hóa phục

vụ xuất khẩu, nhất là thủ công mỹ nghệ truyền thống, chế biến nông sản, thủy sản...


góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu.
Thứ sáu, là bộ phận cần thiết trong quá trình liên kết sản xuất của các doanh
nghiệp lớn, là cơ sở hình thành những doanh nghiệp lớn trong tương lai
Mối liên kết giữa DNNVV và doanh nghiệp lớn, kể cả các tập đoàn xuyên quốc
gia hình thành và phát triển trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện thầu phụ,
dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ trợ và đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh
phân phối sản phẩm, cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn, do đó góp phần hạ giá
thành, nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn. Ngược lại, các doanh nghiệp
lớn bảo đảm vững chắc cho DNNVV về thị trường, tài chính, công nghệ, tiêu chuẩn kỹ
thuật và kinh nghiệm quản lý. Thực tế trong quá trình hoạt động, từ doanh nghiệp “vệ
tinh” hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn, nhiều DNNVV đã tích lũy vốn, kinh nghiệm và
trở nên lớn mạnh, dần trở thành các công ty lớn, các tập đoàn kinh tế lớn trên thị
trường
Thứ bảy, góp phần đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân - nguồn nhân lực quan
trọng cho phát triển kinh tế - xã hội
Trong thực tế, DNNVV là nơi đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh
nhân mới phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường. Với việc dễ dàng tạo lập và khởi
sự doanh nghiệp, DNNVV là nơi sàng lọc, đào luyện các nhà quản trị doanh nghiệp
thông qua thực tiễn kinh doanh, đúc kết những kinh nghiệm về quản lý và tiếp cận thị
trường, từ đó xuất hiện lớp doanh nhân năng động, sản xuất kinh doanh giỏi.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển
của thuế. Hiện nay ở các nước phát triển, thuế TNDN giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc đảm bảo ổn định nguồn thu Ngân sách Nhà nước và thực hiện phân phối thu
nhập. Mức thuế cao hay thấp áp dụng cho các chủ thể thuộc đối tượng nộp thuế TNDN
là khác nhau, điều đó phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra

trong phân phối thu nhập của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Để hiểu rõ về thuế TNDN trước hết cần tìm hiểu về thu nhập doanh nghiệp: thu
nhập của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Tuy nhiên, trong


thực tế không phải toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp đều là đối tượng điều chỉnh của
thuế TNDN. Thuế TNDN chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế.
Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập, nó được xác
định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi đã trừ một số khoản chi phí để
tạo ra thu nhập đó. Tuỳ theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội dung,
phương pháp xác định các khoản miễn trừ và thu nhập chịu thuế có sự khác nhau.
Vậy, thuế TNDN là gì? Theo giáo trình thuế của Học viện tài chính năm 2008
định nghĩa “ThuếTNDN là sắc thuế tính trên thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp
trong kỳ tính thuế”
Hay theo Tài liệu bồi dưỡng cho công chức mới năm 2011 của Tổng cục Thuế
định nghĩa: “Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế đánh vào thu nhập phát
sinh của cơ sở sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định thường là
một kỳ kinh doanh.”
1.1.2.2. Đặc điểm
Đặc điểm của thuế TNDN được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có
của nó. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua các giai đoạn phát triển.
Ngoài những đặc điểm chung của thuế là có tính cưỡng chế và tính pháp lý cao, là
khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp thì thuế TNDN còn có một số đặc
điểm riêng để phân biệt với các sắc thuế khác và các công cụ tài chính khác. Cụ thể
như sau:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế trực thu, đối tượng nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp là các tổ chức, doanh nghiệp, các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau đồng thời cũng là “người” phải khấu trừ theo tỷ lệ % phần thu nhập chịu
thuế.

- Thuế thu nhập doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của tổ
chức doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Thuế thu nhập doanh nghiệp được xác định
trên cơ sở thu nhập chịu thuế, nên chỉ khi các doanh nghiệp, các nhà đầu tư kinh
doanh có lợi nhuận mới phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế khấu trừ trước thuế thu nhập cá nhân. Thu
nhập mà các cá nhân nhận được từ hoạt động đầu tư như: lợi tức cổ phần, lợi nhuận do
góp vốn liên doanh, liên kết... là phần thu nhập được chia sau khi nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp. Do vậy, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có thể coi là một biện pháp


quản lý thu nhập cá nhân.
1.1.2.3. Vai trò
Thứ nhất, thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách
Nhà nước (NSNN). Điều này thể hiện ở phạm vi áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp
rất rộng rãi, bao gồm mọi cơ sở kinh doanh có thu nhập. Mặt khác, cùng với xu hướng
tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng, hiệu
quả kinh doanh ngày càng cao sẽ tạo ra nguồn thu về thuế thu nhập doanh nghiệp
ngày càng lớn cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, thuế thu nhập doanh nghiệp là một công cụ để Nhà nước thực hiện
chính sách công bằng xã hội. Thuế thu nhập doanh nghiệp được tính trên số thu nhập
còn lại sau khi đã trừ đi tất cả những khoản chi phí hợp lý theo quy định với thuế suất
ổn định cho nên những doanh nghiệp có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều. Ngược lại,
những doanh nghiệp có thu nhập thấp thì nộp thuế ít, doanh nghiệp không có thu nhập
thì không phải nộp thuế. Điều này đã tạo ra sự bình đẳng công bằng trong khả năng
đóng góp cho Ngân sách Nhà nước giữa các cơ sở kinh doanh.
Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng của Nhà nước trong
việc điều tiết các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Thông qua hệ thống
thuế suất ưu đãi, chế độ miễn, giảm thuế..., thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần
khuyến khích đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển theo định hướng của Nhà nước
nhằm đảm bảo một cơ cấu kinh tế hợp lý.

1.1.3. Nội dung cơ bản của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
Ở nước ta, trước năm 1999, các doanh nghiệp Nhà nước áp dụng chế độ thu
trích nộp lợi nhuận, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh áp dụng chế độ thuế lợi
tức theo biểu thuế lũy tiến từng phần. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được chính
thức ban hành vào tháng 5/1997, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999 và từ đó đến nay,
đã có một số văn bản sửa đổi , bổ sung về thuế thu nhập doanh nghiệp cho phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội gắn với phát triển kinh tế thị trường.
Từ năm 2008 trở về trước, thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/QH11 được Quốc Hội thông qua ngày
17/6/2003 về Thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ năm 2009, thuế thu nhập doanh nghiệp
được điều chỉnh theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 được Quốc
Hội thông qua ngày 03/6/2008, Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của


Bộ Tài chính, quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp bao hàm những vấn đề sau:
* Về người nộp thuế:
Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức, doanh nghiệp hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Trước đây, trong Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp đã đưa cả cá nhân sản xuất, kinh doanh là đối tượng chịu thuế.
* Phương pháp tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong kỳ tính thuế bằng thu nhập tính
thuế nhân với thuế suất.
Thu nhập

Thuế TNDN
=
phải nộp

Thuế suất
x


Tính thuế

thuế TNDN

Trường hợp doanh nghiệp nếu có trích quỹ phát triển khoa học và công nghệ thì
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp được xác định như sau:
Thuế TNDN
phải nộp

=

Thu nhập
Tính thuế

-

Phần trích lập
quỹ KH&CN

x

Thuế suất
thuế TNDN

Trường hợp doanh nghiệp đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc loại thuế
tương tự thuế thu nhập doanh nghiệp ở ngoài Việt Nam thì doanh nghiệp được trừ số
thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp nhưng tối đa không quá số thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Kỳ tính thuế được xác định theo năm dương lịch. Trường hợp doanh nghiệp áp

dụng năm tài chính khác với năm dương lịch thì kỳ tính thuế xác định theo năm tài
chính áp dụng. Kỳ tính thuế đầu tiên đối với doanh nghiệp mới thành lập và kỳ tính
thuế cuối cùng đối với doanh nghiệp chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi
hình thức sở hữu, sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản được xác định phù hợp với kỳ
kế toán theo quy định của pháp luật kế toán. Trường hợp kỳ tính thuế năm đầu tiên của
doanh nghiệp mới thành lập kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
và kỳ tính thuế năm cuối cùng đối với doanh nghiệp chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp, chuyển đổi hình thức sở hữu, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản
có thời gian ngắn hơn 03 tháng thì được cộng với kỳ tính thuế năm tiếp theo (đối với
doanh nghiệp mới thành lập) hoặc kỳ tính thuế năm trước đó (đối với doanh nghiệp
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức sở hữu, hợp nhất, sáp nhập,


chia, tách, giải thể, phá sản) để hình thành một kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm đầu tiên hoặc kỳ tính thuế thu nhập doanh
nghiệp năm cuối cùng không vượt quá 15 tháng.
* Căn cứ tính thuế
Thu nhập tính thuế
Thu nhập tính thuế trong kỳ tính thuế được xác định bằng thu nhập chịu thuế
trừ thu nhập được miễn thuế và các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm trước theo
quy định.
Thu nhập tính thuế được xác định theo công thức sau:
Thu nhập
tính thuế

Thu nhập

=

chịu thuế


Thu nhập
- được miễn

Các khoản lỗ
+

thuế

được kết chuyển
theo quy định

Thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và thu nhập khác.
Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế xác định như sau:
Thu nhập
Chịu thuế

=

Doanh
thu

-

Chi phí
Được trừ

+


Các khoản
thu nhập khác

Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bằng doanh thu
của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trừ chi phí được trừ của hoạt
động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó. Doanh nghiệp có nhiều hoạt động
kinh doanh áp dụng nhiều mức thuế suất khác nhau thì doanh nghiệp phải hạch toán và
tính riêng thu nhập của từng loại hoạt động kinh doanh nhân với thuế suất tương ứng.
Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản phải hạch toán riêng để kê
khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, không được bù trừ với thu nhập hoặc lỗ từ các
hoạt động sản xuất kinh doanh khác.
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
- Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế (gọi tắt là doanh thu tính thuế) là toàn
bộ tiền bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ (không có thuế giá trị gia tăng nếu cơ sở kinh
doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ; có cả thuế giá trị gia tăng
nếu cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp) sau khi đã trừ chiết khấu


giảm giá hàng bán, trị giá hàng bị trả lại, tiền lãi trả chậm, nhưng bao gồm cả các
khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Doanh thu tính thuế
còn bao gồm trị giá của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng (tính theo giá
của mặt hàng cùng loại hoặc tương đương trên thị trường tại thời điểm trao đổi, biếu
tặng, trang bị, thưởng cho người lao động) và sản phẩm tự dùng (tính theo chi phí để
sản xuất ra sản phẩm đó).
- Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế:
+ Đối với hoạt động bán hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu,
quyền sử dụng hàng hóa cho người mua.
+ Đối với cung ứng dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ cho
người mua hoặc thời điểm lập hoá đơn cung ứng dịch vụ.

Trường hợp lập hóa đơn xảy ra trước thời điểm dịch vụ hoàn thành thì thời
điểm xác định doanh thu được tính theo thời điểm lập hoá đơn.
+ Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
Về lý thuyết thì thuế thu nhập doanh nghiệp được xác định trên cơ sở các chi
phí thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong một thời
kỳ nhất định có liên quan đến doanh thu và thu nhập chịu thuế. Nói cách khác, chi phí
được trừ khỏi doanh thu để tính thu nhập chịu thuế lẽ ra phải là các chi phí phản ánh
trong các báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp
thường có xu hướng tìm mọi cách biến đổi nhằm “tăng” chi phí, hạ thấp thu nhập chịu
thuế để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Để hạn chế tiêu cực nói trên, nhằm chống
thất thu ngân sách, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã quy định các khoản chi phí
được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
- Các khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế:
Các khoản chi được trừ là những khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để
tiến hành sản xuất kinh doanh trong kỳ tính thuế có liên quan đến việc tạo ra doanh thu
và thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế mà theo quy định của luật thuế được phép trừ
khỏi doanh thu để tính thu nhập chịu thuế.
Các khoản chi được trừ gồm nhiều khoản chi phí khác nhau nên công tác
quản lý, theo dõi rất phức tạp. Bao gồm các chi phí liên quan đến lao động quá khứ
như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu (đặc điểm khoản chi


này là phải có hoá đơn), chi phí liên quan đến lao động sống như chi phí tiền lương,
thưởng, chi hoa hồng môi giới (đặc điểm khoản chi này là không có hoá đơn mà chỉ
có hợp đồng hoặc bảng kê chi trả) và các chi phí khác.
Như vậy, việc quy định cụ thể khoản chi nào được hạch toán vào chi phí, khoản
chi nào không được hạch toán vào chi phí là cụ thể hoá 4 nguyên tắc khấu trừ chi phí
và tạo ra tính minh bạch về thuế thu nhập doanh nghiệp. Trên thực tế khoản chi trực
tiếp cấu thành sản phẩm (ví dụ: khấu hao tài sản cố định, nguyên vật liệu, tiền lương...)

dễ xác định, nhưng có những khoản chi mang tính gián tiếp thì khó xác định hơn (ví
dụ: chi thưởng cuối năm, chi đào tạo, lợi thế kinh doanh...).
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 quy định điều kiện xác định
các khoản chi được trừ và các khoản chi không được trừ. Theo cách này, những khoản chi
còn lại không kê trong Luật và thoả mãn điều kiện xác định các khoản chi được trừ thì
được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
* Các khoản thu nhập chịu thuế khác
Thu nhập khác là các khoản thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế mà khoản thu
nhập này không thuộc các ngành, nghề lĩnh vực kinh doanh có trong đăng ký kinh
doanh của doanh nghiệp
Ngoài các khoản thu nhập mang tính kinh doanh, mang tính chất thu nhập chủ
động, doanh nghiệp còn có các khoản thu nhập khác mang tính chất bị động như: thu
nhập từ lãi cho vay vốn, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm; các khoản nợ khó đòi đã bù
đắp bằng khoản dự phòng nay đòi được; các khoản thu nhập của những năm trước bị
bỏ sót mới phát hiện,... Các khoản thu nhập này được theo dõi riêng, cuối năm cũng
được tổng hợp vào thu nhập chịu thuế.
* Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 10 và Điều 13, Chương II của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành.
Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò,
khai thác dầu khí và tài nguyên quí hiếm khác từ 32% đến 50% phù hợp đặc điểm,
điều kiện của từng dự án, từng cơ sở kinh doanh.
Nơi nộp thuế
Doanh nghiệp nộp thuế tại nơi có trụ sở chính. Trường hợp doanh nghiệp có cơ
sở sản xuất( bao gồm cả cơ sở gia công, lắp ráp) hạch toán phụ thuộc hoạt động tại địa


bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác với địa bàn nơi doanh nghiệp có trụ sở
chính thì được tính nộp ở nơi có trụ sở chính và ở nơi có cơ sở sản xuất.
Xác định số thuế và thủ tục kê khai, nộp thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp tính

nộp ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có cơ sở sản xuất hạch toán phụ thuộc
được xác định bằng số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong kỳ nhân(x) tỷ lệ chi
phí giữa nơi có cơ sở sản xuất phụ thuộc với tổng chi phí của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tại nơi có trụ sở chính có trách nhiệm kê khai, nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với số thuế phát sinh tại trụ sở chính và tại cơ sở sản xuất hạch toán
phụ thuộc theo mẫu quy định.
Thủ tục luân chuyển chứng từ giữa Kho bạc và cơ quan Thuế: Doanh nghiệp
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh ở nơi đóng trụ sở chính cho Kho bạc nhà
nước và nộp thay số thuế phải nộp của cơ sở sản xuất kinh doanh phụ thuộc tại các địa
phương khác;
Việc phân cấp, quản lý, sử dụng nguồn thu được thực hiện theo quy định của
Luật ngân sách nhà nước.
Quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp: Doanh nghiệp khai quyết toán thuế
thuế thu nhập doanh nghiệp tại nơi có trụ sở chính, số thuế thu nhập doanh nghiệp còn
phải nộp, được hoàn cũng được phân bổ theo tỷ lệ tại nơi có trụ sở chính và tại các nơi
có các cơ sở sản xuất kinh doanh phụ thuộc.
Đối với doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc toàn ngành có thu nhập ngoài hoạt
động kinh doanh chính thì nộp thuế tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có
phát sinh hoạt động kinh doanh đó.
Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
- Ưu đãi về thuế suất
Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập
mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước,
sản xuất sản phẩm phần mềm được áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười
lăm năm.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn
hoá, thể thao và môi trường được áp dụng thuế suất 10%.



Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn được áp dụng thuế suất 20% trong thời gian mười năm.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế
suất 20%.
Đối với dự án cần đặc biệt thu hút đầu tư có quy mô lớn và công nghệ cao thì
thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi có thể kéo dài thêm, nhưng thời gian kéo dài thêm
không quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.
Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi được tính từ năm đầu tiên doanh nghiệp có
doanh thu.
- Ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế
Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ
dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản
phẩm phần mềm; doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường được miễn thuế tối đa không quá
bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá chín năm tiếp theo.
Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn được miễn thuế tối đa không quá hai năm và giảm 50% số thuế phải nộp
tối đa không quá bốn năm tiếp theo.
Thời gian miễn thuế, giảm thuế quy định tại Điều này được tính từ năm đầu tiên
doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế; trường hợp doanh nghiệp không có thu nhập chịu
thuế trong ba năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh thu thì thời gian miễn thuế, giảm
thuế được tính từ năm thứ tư.
- Các trường hợp giảm thuế khác
Doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng nhiều lao động nữ được giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao động nữ.
Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người dân tộc thiểu số được giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao động là người dân tộc thiểu số.
1.2. Quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp

1.2.1. Khái niệm, mục tiêu và nguyên tắc quản lý thu thuế thu nhập doanh


nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp
quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ cấu có thể có để đạt được các mục tiêu
phát triển kinh tế đất nước đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc
tế.
Trong các quản lý tài chính công là quá trình nhà nước hoạch định, xây dựng
chính sách, chế độ; sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp tác động
đến các hoạt động của tài chính công, làm cho chúng vận hành phù hợp với yêu cầu
khách quan của nền kinh tế - xã hội, nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các
chức năng do Nhà nước đảm nhận
Quản lý thu thuế TNDN là một nội dung của quản lý nhà nước về kinh tế.
Ngoài ra, nó là một nhánh quan trọng của quản lý tài chính công. Do vậy, khái niệm
quản lý thuế TNDN cũng có một số nét tương đồng với hai khái niệm trên. Có thể hiểu
quản lý thuế TNDN là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện những quy
định trong luật thuế TNDN nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền thuế vào ngân
sách nhà nước theo luật định.
Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp có những nét đặc thù riêng như sau:
- Chủ thể thực thi các giải pháp thu thuế là các cơ quan thuế từ Trung ương đến
địa phương. Các cơ quan thuế được Nhà nước giao trách nhiệm chính cho việc tổ chức
quản lý thu thuế. Cần phải có sự phối kết hợp giữa các ban, ngành chức năng để quản
lý thu thuế một cách hiệu quả nhất.
- Đối tượng chịu sự quản lý là các tổ chức, doanh nghiệp có các hoạt động kinh
tế thuộc diện điều chỉnh của Luật Quản lý thuế và các luật thuế. Quá trình tổ chức và
thực thi các giải pháp thu thuế là rất phức tạp, đa dạng và phong phú. Các giải pháp đó
không đơn thuần là các giải pháp mệnh lệnh hành chính, cưỡng chế mà các giải pháp

đó phải kết hợp giữa mệnh lệnh hành chính, tuyên truyền giải thích, khuyến khích lợi
ích vật chất và tinh thần.
- Quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng phải
được quy định bằng pháp luật thuế nên cơ quan thuế các cấp không thể tuỳ tiện đề ra
các biện pháp quản lý thu thuế trái ngược với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điều


đó không có nghĩa là làm mất đi tính năng động của từng cơ quan thuế trong việc tìm
tòi các giải pháp cụ thể, miễn là các giải pháp đó không trái với những quy định chung
toàn ngành và phù hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh ở địa phương.
1.2.1.2. Mục tiêu
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một sắc thuế cơ bản trong hệ thống các sắc thuế
ở Việt Nam. Công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm đạt được những mục
tiêu cơ bản sau đây:
Một là, tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho Ngân sách nhà nước từ
các nguồn, các đối tượng trên địa bàn được giao quản lý, trên cơ sở không ngừng nuôi
dưỡng và phát triển nguồn thu.
Hàng năm, thuế thu nhập doanh nghiệp có số thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
số thuế nộp vào ngân sách nhà nước. Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thuế thu nhập
doanh nghiệp sẽ có tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu
cho ngân sách nhà nước.
Mặt khác, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tác động trực tiếp đến thu
nhập của các tổ chức kinh tế, qua đó tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tếcơ sở tạo ra nguồn thu thuế trong tương lai. Để tăng cường và ổn định số thu ngân sách
nhà nước trong tương lai, công tác quản lý thuế cần chú ý và duy trì nuôi dưỡng phát
triển nguồn thu.
Hai là, Phát huy tốt nhất vai trò của thuế trong nền kinh tế.
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song, những vai trò đó
không mang tính khách quan, mà nó là kết quả của những tác động từ phía con người.
Những tác động này được thực hiện thông qua những nội dung, những công việc cụ
thể của công tác quản lý thuế.

Ba là, tăng cường ý thức chấp hành phát luật cho người nộp thuế.
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ luật pháp để thực hiện sự
tác động và điều chỉnh nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp hành luật pháp của người
nộp thuế sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước ta.
Qua công tác tổ chức thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành tuân thủ pháp luật
thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của luật thuế được nâng cao trong mọi
tầng lớp nhân dân.
1.2.1.3. Nguyên tắc


Trong hoạt động thực tiễn quản lý, người ta đã đưa ra nhiều nguyên tắc và mỗi
lĩnh vực hoạt động có những nguyên tắc quản lý đặc thù. Các nguyên tắc vừa phản ánh
các quy luật khách quan, nhưng cũng mang dấu ấn chủ quan của con người. Các
nguyên tắc quản lý thuế hình thành trên cơ sở các ràng buộc bởi: Mục tiêu của quản lý
thuế, tính chất của sắc thuế được giao quản lý thu; đòi hỏi của các quy luật khách quan
liên quan đến sự tồn tại, phát triển của cơ quan thuế và các ràng buộc của môi trường;
thực trạng và xu thế phát triển của cơ quan thuế.
Quản lý thuế phải tuân thủ các nguyên tắc của quản lý nhà nước về kinh tế,
nguyên tắc quản trị tổ chức và nguyên tắc hành chính nhà nước.
Quản lý thuế tại cơ quan thuế cấp tỉnh là một khâu của công tác quản lý nhà
nước về thuế nên trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc của quản lý nhà nước về kinh
tế nói chung, quản lý nhà nước về tài chính - thuế nói riêng. Các nguyên tắc quản lý
kinh tế của nhà nước là các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn thực hành mà các cơ
quan quản lý nhà nước phải tuân thủ trong quá trình quản lý kinh tế. Đối với Việt Nam
hiện nay, có các nguyên tắc quản lý kinh tế ở phạm vi nhà nước là:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước
hết là sự lãnh đạo tập trung đối với những vấn đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất nhất.
Sự tập trung đó đảm bảo cho cơ quan cấp dưới và cơ sở khả năng thực hiện quyết định
của cấp trên căn cứ vào các điều kiện thực tế của mình. Bên cạnh đó phải đảm bảo tính
sáng tạo, quyền chủ động của cơ sở.

Thực hiện nguyên tắc dân chủ thực chất là nguyên tắc lấy dân làm gốc, thực hiện
quyền làm chủ của người nộp thuế trong một nhà nước pháp quyền vì dân, do dân.
- Nguyên tắc công khai: Công khai là một nguyên tắc quan trọng trong hoạt
động quản lý thuế. Bởi lẽ, có công khai mới thu hút và tạo điều kiện cho đông đảo
người dân và doanh nghiệp tham gia vào hoạt động quản lý thuế, theo phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thông qua công khai làm cho công tác quản lý thuế bảo đảm được tính khách
quan, chính xác hơn vì nó cho phép kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách
thuế, làm cho các quyết định quản lý của cơ quan thuế đúng đắn, trung thực với sự vật
hiện tượng đã xảy ra.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả: là nguyên tắc quy định mục tiêu của quản
lý, bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả


đòi hỏi người quản lý phải có quan điểm hiệu quả đúng đắn, biết phân tích hiệu quả
trong từng tình huống khác nhau, đặt lợi ích của tổ chức lên trên lợi ích cá nhân, từ đó
ra quyết định tối ưu nhằm tạo được các thành quả có lợi nhất cho nhu cầu phát triển
của tổ chức. Tuy nhiên tiết kiệm, hiệu quả không đồng nghĩa với hạn chế chi tiêu vấn
đề là chi tiêu hợp lý. Tiết kiệm cũng không có nghĩa là chi ít tiền mà là chi sao cho đạt
kết quả cao nhất.
Quản lý thuế trên cơ sở pháp Luật thuế song tại mỗi địa phương cần phải có sự
nghiên cứu, xem xét đề ra các giải pháp quản lý thuế cho phù hợp với điều kiện đặc
thù của địa phương mình. Đặc biệt, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng khủng
hoảng tài chính toàn cầu, tình hình kinh tế đất nước và mỗi địa phương đều có những
biến động phức tạp, nhiều khó khăn nảy sinh trong sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Do vậy, những nguyên tắc quản lý thuế
thu nhập doanh nghiệp cần được ngành thuế và các đơn vị cơ sở trong ngành thực hiện
nghiêm túc và đầy đủ.
1.2.2. Nội dung quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Đối với công tác quản lý thuế nói chung và công tác quản lý thuế thu nhập

doanh nghiệp nói riêng, ở mỗi cấp quản lý thuế từ Trung ương đến Chi cục thuế cần
thực hiện tốt từ khâu:
* Tuyên truyền về thuế thu nhập doanh nghiệp
Pháp luật về thuế là một bộ phận của hệ thống pháp luật. Hiện nay, tình trạng
trốn thuế, gian lận về thuế , vi phạm thủ tục hành chính thuế vẫn còn phổ biến. Bên
cạnh đó, chính sách thuế thường xuyên thay đổi và rất nhiều người nộp thuế chưa có
điều kiện nắm bắt kịp thời các luật thuế. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền và hỗ trợ
người nộp thuế sẽ tăng cường tính thực thi của pháp luật Thuế nói riêng và pháp luật
của Nhà nước nói chung, đồng thời giúp cho người nộp thuế hiểu được trách nhiệm ,
quyền lợi của mình từ việc thực hiện tốt nghĩa vụ về thuế, từ việc chấp hành tốt chính
sách pháp Luật thuế.
Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế là khâu đầu của công tác quản lý thuế theo
chức năng. Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế có tác dụng không chỉ đối với người
nộp thuế, nhằm ngăn ngừa hạn chế các sai phạm, mà nó còn giúp cho cả cơ quan thuế
trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuyên truyền hỗ trợ cho người nộp
thuế sẽ tạo ra mối quan hệ thân thiện giữa cơ quan thuế và người nộp thuế. Người nộp


×