Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.61 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG...............................................................3
1.1. Khái niệm đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp quốc tế.....................................3
1.1.1. Khái niệm đầu tư quốc tế............................................................................3
1.1.2. Khái niệm đầu tư quốc tế trực tiếp (FDI)....................................................3
1.1.3. Nguồn gốc và động lực của đầu tư trực tiếp nước ngoài.............................5
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp FDI......................................................................7
1.2.1. Với nước nhận đầu tư..................................................................................7
1.2.2. Với nước đi đầu tư.....................................................................................10
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư quốc tế trực tiếp......................................12
1.3.1. Sự ổn định về chính trị-xã hội...................................................................12
1.3.2. Sự phát triển về kinh tế..............................................................................13
1.3.3. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài..................................................14
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA....................................16
2.1. Thành tựu......................................................................................................16
2.2. Hạn chế.........................................................................................................23
PHẦN 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
.............................................................................................................................31
3.1. Giải pháp Chính trị xã hội............................................................................31
3.2. Giải pháp Kinh tế.........................................................................................31
3.3. Giải pháp nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng..................................................32
KẾT LUẬN........................................................................................................33

1


MỞ ĐẦU
Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng
và sâu sắc. Việt Nam với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc


tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế - thương mại toàn cầu: là thành viên
của ASEAN, APEC, ASEM, đã ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ và gia nhập
tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… Các nước đánh giá cao vai trò và vị trí
của Việt Nam ở khu vực và thế giới, đồng thời đánh giá cao tiềm năng phát triển
của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình hoạt động kinh
tế quốc tế ra, đời và phát triển có tính tất yếu, lâu dài cùng với xu thế toàn cầu về
kinh tế. FDI có vai trò vị trí quan trọng, tích cực đối với cả nước tiếp nhận FDI
lẫn nước đi đầu tư. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ của Đảng, Nhà
nước và dân ta trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Trong suốt quá trình
này, chúng ta cần nhiều vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Nên việc thu
hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các nước tiên tiến… là rất quan
trọng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm tăng thêm vốn để đầu tư phát
triển sản xuất, cung cấp cho nền kinh tế nước ta những máy móc kỹ thuật và quy
trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần làm tăng kim ngạch xuất
khẩu của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần ổn định nền tài chính tiền
tệ quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ năm 1987,
được sửa đổi bổ sung qua các năm 1990,1992,1996 và năm 2005 vừa qua đến
nay luật đầu tư nước ngoài đã thông thoáng hơn, tạo nhiều điều kiện thuận lợi
hơn cho các nhà đầu tư , góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta phát triển
và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực.
Nhận thấy vai trò to lớn của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Em đã lựa
chọn đề tài “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
qua”.

2



PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp quốc tế
1.1.1. Khái niệm đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước
ngoài (tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước
tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm
thu lợi nhuận hoặc đạt được các hiệu quả xã hội. Hợp tác đầu tư quốc tế giữa các
nước là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hóa đời
sống kinh tế hiện nay.
1.1.2. Khái niệm đầu tư quốc tế trực tiếp (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các cá nhân hay tổ
chức kinh tế thực hiện nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và thị
trường ở một nước khác thông qua việc di chuyển vốn, hay bất kỳ hình thức giá
trị nào như máy móc thiết bị, công nghệ và thiết lập quyền sở hữu về vốn đầu tư
của mình tại nước đó.
Đây là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng
vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài
(các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và
vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra. Cũng như nhiều quốc
gia trên thế giới, ở Việt Nam đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các hình thức
chủ yếu sau:
1.1.2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa hai bên hay
nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở Việt
Nam trên cơ sở qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi
bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh
doanh là hình thức liên kết kinh doanh giữa chủ đầu tư trong nước với các doanh
nghiệp nước ngoài theo từng trường hợp cụ thể, trong đó các bên vẫn giữ
nguyên tư cách pháp nhân riêng chứ không tạo nên bất cứ một pháp nhân mới
3



nào. Ở đây cũng không chỉ góp vốn và các phương tiện sản xuất mà còn thoả
thuận về nghĩa vụ và quyền hạn của mỗi bên bằng hợp đồng trong việc tiến hành
một công việc sản xuất kinh doanh và những quyền lợi mà họ được hưởng. Hình
thức này rất đa dạng và phù hợp với những dự án có qui mô nhỏ thời hạn hoạt
động ngắn.
1.1.2.2. Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trong đó bên nước ngoài và
Việt Nam cùng góp vốn thành lập liên doanh theo một tỷ lệ đã thỏa thuận. Theo
luật định doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng liên doanh ký hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp
tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp
liên doanh đươc thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư
cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Thời gan hoạt động của các doanh
nghiệp khoảng từ 30-50 năm. Doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ về tài chính vì vốn
pháp định do mỗi bên liên doanh góp (mức góp của bên Việt Nam ít nhất là
30%). Trong quá trình liên doanh, doanh nghiệp không được giảm vốn nếu
muốn tăng vốn phải làm biên bản giải trình lên Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư để xem
xét và giải quuyết. Thông thường, khi thành lập liên doanh phía Việt nam có
lượng vốn rất nhỏ, vì vậy sẽ dẫn đến tỷ lệ phần quyền lợi rất ít. Do đó, vốn pháp
định của doanh nghiệp liên doanh được qui định luôn nhỏ hơn vốn đầu tư thực tế
để đảm bảo quyền lợi cho phía Việt Nam cũng như đảm bảo tỷ lệ chia lãi hợp lý
hơn. Đối với loại hình này, nhà nước đã giành được nhiều ưu đãi mà cả bên
nước ngoài và bên Việt Nam đều được hưởng.
1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam (luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam)
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công

ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Vốn pháp
định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
4


Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không được giảm vốn pháp định. Các
doanh nghiệp này thường ở trong khu chế xuất hay trong khu công nghệ cao.
1.1.2.4. Một số hình thức khác
+ Hình thức đầu tư BOT: BOT là hình thức hợp đồng được ký kết giữa
chủ đầu tư và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình,
trong đó nhà đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời
gian nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước sở tại. Hình thức BOT ra đời nhằm
tạo ra loại hình công việc có chất lượng ở các nước chậm và đang phát triển khi
các nước này không có đủ vốn. Đặc điểm chung của hình thức này là nhà đầu tư
nước ngoài phải bỏ vốn nhiều, thời gian thu hồi vốn chậm. Các công ty ký hợp
đồng BOT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền được hưởng nhiều ưu đãi về
thuế, được nhà nước bảo lãnh để tránh rủi ro... Hình thức hợp đồng BOT là hình
thức đầu tư mới xuất hiện ở Việt Nam, song nó có vai trò to lớn làm thay đổi bộ
mặt mặt nền kinh tế. Nhờ nó chất lượng kết cấu hạ tầng được nâng cao một cách
rõ rệt, tạo đà thu hút hơn nữa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như đáp
ứng tốt hơn nhu cầu tăng lên của nhân dân.
+ Hình thức đầu tư BTO: BTO (Built-Transfer-Operate) hợp đồng xây
dựng chuyển giao kinh doanh là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình, sau khi đã xây dựng
xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước sở tại và được
dành quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
+ Hình thức đầu tư BT: BT (Built-Transfer) hợp đồng xây dựng chuyển
giao là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước

ngoài để xây dựng công trình, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà và tạo điều kiện thực hiện dự án
khác nhằm thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
1.1.3. Nguồn gốc và động lực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trên ta thấy đặc điểm cơ
5


bản nhất của nó là việc người nước ngoài đưa vốn vào một nước khác để mở
rộng cơ sở sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường. Việc sản xuất hàng hoá tại
nước mình rồi xuất sang nước khác như vậy làm cho chi phí vận chuyển tăng
lên. Thay vào đó, chủ đầu tư đưa vốn sang nước khác để sản xuất và bán ngay
tại thị trường nước sở tại thì họ không những giảm được chi phí vận chuyển mà
còn tránh được thuế nhập khẩu hàng hoá vốn do các nước đặt ra để bảo vệ nền
kinh tế của họ. Điều này lý giải tại sao lại có dòng vốn đầu tư cùng chảy vào và
chảy ra tại cùng một nước, tại sao đầu tư vốn mà không nhập khẩu hàng hoá.
Theo học thuyết của D. Ricardo, mỗi nước có lợi thế riêng về các yếu tố sản
xuất mà ông gọi đó là lợi thế so sánh, ở các nước phát triển đó là lợi thế về vốn,
công nghệ, kinh nghiệm sản xuất còn ở các nước đang phát triển đó là lao động
rẻ, tài nguyên tại chỗ phong phú, thị trường sơ khai. Do vậy, khi chi phí sản xuất
ở một nước (thường là nước phát triển) cao họ tìm cách đưa vốn sang nước khác
để tận dụng hết lợi thế so sánh của mỗi nước bằng cách đó họ đã nâng cao được
tỷ lệ lợi nhuận biên/chi phí biên. Mọi nhà kinh doanh đều có xu hướng đa dạng
hoá danh mục đầu tư. Thiết lập nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ở các nước
khác, tức là họ đã thực hiện mục tiêu của mình một cách hợp lý. Sự thay đổi
thường xuyên của tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố khiến cho việc di chuyển tư
bản trên phạm vi quốc tế diễn ra mạnh hơn. Chẳng hạn, khi đồng USD tăng giá
so với đồng Việt Nam thì hàng hoá nhập khẩu của Mỹ tại thị trường Việt Nam
trở nên đắt hơn so với trước. Nhưng nếu hàng hoá đó sản xuất tại Việt Nam sử
dụng đầu vào tại chỗ thì nó sẽ không thay đổi về giá cả, thậm chí khi đó chủ đầu

tư còn có lợi nếu xuất khẩu trở lại Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề này có tính hai mặt tức
là khi tỷ giá hối đoái biến động ngược lại thì chủ đầu tư lại bị thiệt hại.
Trước những năm 1970, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường chỉ diễn ra ở
các nước phát triển với nhau hoặc từ các nước phát triển sang các nước đang
phát triển. Sau đó cùng với sự thịnh vượng của khối OPEC (tổ chức các nước
xuất khẩu dầu lửa) và các nước công nghiệp mới (NICs) thì một lượng vốn đầu
tư lớn do các nước này đưa sang nước phát triển và đang phát triển khác. Thể
hiện rõ nét cho các xu hướng này là đầu tư từ các nước Đài Loan, Hàn Quốc,
6


Hồng Kông, Singapo… sang khu vực Tây Âu và các nước đang phát triển ngày
càng tăng. Sự phát triển của thương mại và thị trường tài chính quốc tế và các
công ty đa quốc gia đã tạo điều kiện cho FDI phát triển mạnh. Các công ty đa
quốc gia thường là các phương tiện cho việc đi vay và cho vay quốc tế chiếm
70% từ FDI quốc tế. Công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình qua các
công ty chi nhánh ở nước ngoài. Vì vậy, khi nói tới FDI người ta cũng thường
ám chỉ các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty ở một nước tạo ra
hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác. Vì vậy FDI luôn gắn liền với công ty đa
quốc gia ở đó việc chuyển giao vốn không đơn thuần là sự chuyển giao nguồn
lực mà còn là sự mở rộng thị trường mở rộng sự kiểm soát và quản lý .
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp FDI
1.2.1. Với nước nhận đầu tư
l.2.1.1. Tích cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những đáp ứng được nhu cầu và lợi ích
của nước chủ đầu tư mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế của nước tiếp nhận đầu tư. Nó thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp cho nước sở tại một
nguồn vốn lớn để bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Hầu hết các nước,
nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu vốn để thực hiện công nghiệp

hoá và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước đã thu hút được một
lượng vốn nước ngoài lớn từ đầu tư trực tiếp để giải quyết khó khăn về vốn và
do đó đã thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Thứ hai : Cùng với việc cung cấp vốn là kỹ thuât. Qua thực hiện đầu tư
trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư đã chuyển giao công nghệ từ các chi nhánh,
nhà máy của họ ở nước khác sang nước sở tại. Chuyển giao công nghệ là kết quả
của quá trình nghiên cứu và phát triển nhằm vào việc phát minh ra sản phẩm hay
kỹ thuật sản suất mới hoặc cả hai. Cho nên, nhờ có sự chuyển giao đó mà các
nước đang phát triển có điều kiện tốt hơn để khai thác các thế mạnh sẵn có về tài
nguyên thiên nhiên, tăng sản xuất, sản lượng và khả năng cạnh tranh với các
nước khác trên thị trường Thế giới nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
7


Thứ ba: Việc thiết lập các cơ sở sản xuất ở nước sở tại, chủ đầu tư cần sử
dụng lao động ở chính nơi đây. Sự xuất hiện hàng loạt các nhà máy mới, nông
trại mới đã thu hút được nhiều lao động vào làm việc. Hơn thế nữa, các nhà đầu
tư nước ngoài còn phải đào tạo những người lao động thành những công nhân
lành nghề cho doanh nghiệp của mình. Điều này góp phần tạo thêm công ăn việc
làm và nâng cao chất lượng lao động cho nhân dân nước sở tại, do đó làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở những nước này.
Thứ tư: FDI đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về ngoại
tệ của nước nhận. Điều này có nghĩa là việc thiếu hụt thương mại có thể được bổ
xung bằng nguồn vốn FDI. Khi FDI chảy vào một nước nó có thể làm giảm
thâm hụt cán cân vãng lai. Nó cũng có thể làm triệt tiêu khoản thâm hụt đó qua
thời gian khi các công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng.
Thêm nữa khi những lợi thế của nền sản xuất nước ngoài được đưa vào nước
chủ nhà như công nghệ, kỹ năng sản xuất… chúng cũng làm nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế của các hãng trong nước do đó có thể làm tăng xuất khẩu góp phần
tạo ra ngoại tệ cải thiện cán cân thương mại .

Thứ năm: Tác động giữa FDI và công nghệ được coi như một trong những
nội dung quan trọng trong việc xem xét đầu tư nước ngoài cả cho nước nhận đầu
tư và nước đi đầu tư. Lý do của điều này là công nghệ mang lại những lợi ích
cho cả hai đặc biệt là nước nhận đầu tư . Đầu tiên người ta hy vọng FDI đem đến
những công nghệ tiên tiến cho nước sở tại. FDI có thể mang đến cho nước chủ
nhà các bí quyết sản xuất và công nghệ tiên tiến. FDI có thể thúc đẩy quá trình
cải tiến công nghệ của các nước đang phát triến làm tăng năng suất lao động.
Thông qua FDI các nước chủ nhà sẽ có được những tiến bộ trong nền sản xuất
và xuất khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung cấp cho nước chủ nhà các kỹ
năng, khả năng quản lý mới thông qua việc đầu tư của mình các nhà đầu tư nước
ngoài mang đến những kinh nghiệm quản lý kỹ năng áp dụng công nghệ mới
thực hiện thông qua các chương trình đào tạo vừa học vừa làm.
Thứ sáu: Do tác động của vốn và khoa học công nghệ, đầu tư trực tiếp sẽ
tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ
8


cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó, thông qua đầu tư trực
tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện để mở rộng các mối quan hệ
kinh tế quốc tế. Các nước nhận đầu tư sẽ có thêm nhiều sản phẩm để không
những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn để xuất khẩu sang các
nước khác và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư nước
ngoài vào nước sở tại sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh về đầu tư của các nước ở ngay
nước sở tại làm cho môi trường đầu tư ngày càng phát triển.
1.2.1.2. Tiêu cực
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không khi nào và bất cứ đâu cũng
phát huy vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ nhà. Nó
chỉ có thể phát huy tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định, đặc
biệt là khi Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài bao hàm trong nó những mặt hạn chế đối với nước nhận

đầu tư như:
- Các nước nhận FDI thường không dễ giải quyết mối quan hệ giữa mở
cửa thu hút FDI với việc bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước, thị trường trong
nước, giữ vững độc lập chủ quyền về kinh tế, an ninh chính trị và ổn định, an
toàn xã hội .
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài gây sự rối ren, mất ổn định cho nền kinh tế
nước sở tại.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng
theo những mục tiêu của họ.
- Những công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển thường
không phải là những công nghệ tiên tiến nhất mà là những công nghệ không còn
được sử dụng ở các nước tư bản phát triển vì đã quá thời hạn sử dụng hoặc
không còn đáp ứng được những yêu cầu mới về chất lượng và gây ô nhiễm môi
trường. Trên thực tế đã diễn ra nhiều hiện tượng chuyển giao công nghệ nhỏ
giọt, từng phần và mất nhiều thời gian.
- Nếu không định hướng và quản lý tốt FDI, nợ quốc gia sẽ tích tụ, tăng
dần, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thanh toán quốc tế và sự ổn định của đồng
9


tiền.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ
dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức.
- Nước sở tại phải đương đầu với chủ đầu tư giầu kinh nghiệm, sành sỏi
trong kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những sở hở trong
luật pháp sở tại để trốn thuế, xâm phạm lợi ích của nước sở tại.
Mặc dù vậy, những hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài không thể phủ
nhận được vai trò tích cực của nó đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu
tư. Vấn đề là ở chỗ các nước tiếp nhận đầu tư phải kiểm soát đầu tư trực tiếp
nước ngoài một cách hữu hiệu để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực

của nó.
1.2.2. Với nước đi đầu tư
1.2.2.1. Tích cực
Thứ nhất, để mở rộng thị trường tiêu thụ, ngay tại nước chủ đầu tư, nhà
đầu tư có thể đã có một vị trí nhất định trên thị trường. Cũng có thể loại hàng
hoá hoặc dịch vụ mà nhà đầu tư có cung cấp đang bị cạnh tranh gay gắt tại thị
trường trong nước. Việc tìm kiếm những thị trường ngoài nước với những nhu
cầu lớn về loại hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà đầu tư sẽ đáp ứng được việc mở
rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra, các chủ đầu tư có thể có
lợi thế độc quyền nhờ sở hữu một nguồn lực hay kỹ thuật mà các đối thủ cạnh
tranh của họ không có được ở thị trường sở tại. Điều này sẽ mang lại cho nhà
đầu tư nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ hai là xâm nhập thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Theo lý
thuyết về tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nếu cứ tiếp tục đầu tư vào một dự án nào
đó ở một quốc gia nào đó, tỷ suất lợi nhuận chỉ tăng đến một mức độ nhất định
rồi sẽ giảm dần. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn chú trọng tìm kiếm những thị
trường đầu tư mới mẻ đề đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đồng thời, ở các
nước công nghiệp phát triển thường có hiện tượng thừa “tương đối” vốn nên
việc đầu tư ra nước ngoài giúp các nhà tư bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba, sử dụng các yếu tố sản xuất ở nước nhận đầu tư. Do sự phát triển
10


không đều về trình độ của lực lượng sản xuất, ở các quốc gia khác nhau chi phí
sản xuất là không giống nhau. Giữa các quốc gia có sự chênh lệch về giá cả
hàng hoá, sức lao động, tài nguyên, khoa học kỹ thuật, vị trí địa lý… Các nhà
đầu tư thường lợi dụng sự chênh lệch này để thiết lập hoạt động sản xuất ở
những nơi có chi phí sản xuất thấp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Đầu tư ra nước
ngoài có thể giúp các nhà đầu tư hạ thấp chi phí sản xuất do khai thác được
nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại. Đồng thời, khi đầu tư sản xuất ở

nước sở tại, nhà đầu tư có thể sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản
xuất của mình ở chính nước này. Việc này giảm bớt được chi phí vận tải cho
việc nhập nguyên nhiên liệu, nhất là khi các nhà đầu tư muốn tiêu thụ sản phẩm
cuối cùng ở nước ngoài. Đối với việc thiết lập nhà máy sản xuất ở các nước Tư
bản phát triển các nhà đầu tư có thể học tập công nghệ tiên tiến của các nước đó.
Và những công nghệ này có thể sẽ được áp dụng ở nhiều nhà máy hay chi nhánh
của công ty ở các nước khác. Những công nghệ hiện đại sẽ góp phần nâng cao
chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất để đưa đến mục đích cuối cùng
của nhà đầu tư là lợi nhuận cao.
Cuối cùng, đó là tránh được các hàng rào thương mại. Xu thế bảo hộ mâu
dịch trên Thế giới ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát
triển. Đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để xâm nhập chiếm lĩnh thị
trường và tránh được các hàng rào bảo hội mậu dịch giúp các chủ đầu tư giảm
bớt chi phí sản xuất nhằm tránh được các trướng ngại cho việc tiêu thụ hàng hoá
hay dịch vụ của mình như tránh được thuế nhập khẩu, hạn ngạch.
1.2.2.2. Tiêu cực
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, tích cực trên đây, FDI cũng có thể chứa
đựng những thách thức đối với nước có đầu tư ra nước ngoài. Đó là các vấn đề
quản lý vốn, công nghệ, sự ổn định của đồng tiền, cán cân thanh toán quốc tế,
vấn đề việc làm của lao động trong nước:
- Có khả năng làm lộ các bí quyết kinh doanh: Do CGCN nên nhà ĐTNN
thường phải hướng dẫn, truyền đạt một số kinh nghiệm của mình cho đối tác bên
nước sở tại để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh cho cả hai bên.
11


- Dễ tạo ra đối thủ cạnh tranh trong tương lai: Trong thời gian dài của quá
trình CGCN, đối tác nước sở tại thường có nhiều cơ hội học hỏi, hiện đại hoá
chính mình và từ đó làm tăng khả năng trở thành đối thủ mạnh trong tương lai
đối với các nhà ĐTNN .

- Chịu nhiều rủi ro và có thể không thu hồi được vốn: Hoạt động ĐTQT là
hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro do sự khác biệt về môi trường kinh
doanh giữa nước này với nước kia và những tác động củ yếu tố ngoại cảnh.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư quốc tế trực tiếp
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yêu tố đối nội, đối
ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá và xã hội… Có liên quan đến các
hoạt động của các nhà đầu tư. Qua thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho
thấy, một môi trường được coi là hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài phải đảm
bảo các yếu tố cơ bản sau:
1.3.1. Sự ổn định về chính trị-xã hội.
Yếu tố này giữ vai trò quyết định đối với hoạt động của các nhà đầu tư. Vì
thực tế tình hình chính trị có ổn định, xã hội có trật tự, kỷ cương thì các chính
sách, chủ trương của Nhà nước mới có giá trị thực thi bền vững, đặc biệt là các
chủ trương chính sách nhất quán về đầu tư nước ngoài. Qua kinh nghiệm của
một số nước trong khu vực và trên thế giới, ta thấy rằng ở các quốc gia luôn xảy
ra những biến động về chính trị (mâu thuẫn sâu sắc giữa các Đảng phái, sắc tộc,
đảo chính, nội chiến, chiến tranh biên giới...) thì rất khó thu hút các dự án đầu tư
hoặc đang là quốc gia thu hút nhiều dự án nhưng bất ngờ xảy ra những biến
động kể trên thì ngay lập tức các nhà đầu tư sẽ thu hẹp lại phạm vi hoạt động,
chuyển vốn về nước hoặc sang nước khác, còn các nhà đầu tư mới được cấp
giấy phép hoặc đang nghiên cứu tiền khả thi sẽ “lặng lẽ” rút lui. Thực trạng này
có thể thấy ở các nước trong khu vực như: Philipines, Malaixia, Indonexia, Thái
Lan... hoặc các nước khác trên thế giới như CHLB Nga, Brazin... hoặc các nước
đi theo chủ nghĩa cực đoan như Apganistan, Algieri... thì chẳng có một nhà đầu
tư nào giám mạo hiểm thực hiện các dự án của mình. Ở Việt Nam, trong giai
đoạn đầu những năm 80 (khi ta mới chỉ có Nghị định của Chính phủ về đầu tư
12


nước ngoài và đất nước mới được giải phóng) các nhà đầu tư còn thăm dò và chỉ

đến khi chính sách của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thay đổi căn bản (chuyển
nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN), có Bộ luật đầu tư nước ngoài
khá hoàn chỉnh và đặc biệt là tình hình chính trị-xã hội ở đất nước ta rất ổn định
nên mới thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể (khoảng 37 tỷ USD)
như ngày nay. Thêm vào đó, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều chuyển biến
tích cực có lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam nói chung và của
hợp tác đầu tư nói riêng. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của ASEAN, tham
gia APEC, ASEM, WTO, đã ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, cùng với các
chính sách đối ngoại mềm dẻo trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đã tạo ra lợi thế so sánh đáng kể của Việt
Nam trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
1.3.2. Sự phát triển về kinh tế
Sự phát triển kinh tế ở đây được hiểu là sự phát triển đồng bộ về các mặt:
tăng trưởng kinh tế, thu nhập GDP tính trên đầu người, kim ngạch xuất nhập
khẩu, hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ các loại. Thực tế cho
thấy ở các nước phát triển, tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài bao giờ cũng
cao hơn các nước đang phát triển. Ở nước ta sự phát triển về kinh tế chưa được
coi là hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vì hệ thống giao thông tuy có nhiều cải
thiện nhưng vẫn còn lộn xộn, hệ thống bưu chính viễn thông có nhiều tiến bộ
nhưng giá cước phí vẫn được xếp vào hạng nhất nhì thế giới về đắt đỏ, hệ thống
ngân hàng và các hoạt động dịch vụ khác còn nhiều bất cập, chưa thuận lợi đối
với các nhà đầu tư. Nhìn vào phân bố địa bàn đầu tư ở nước ta, chúng ta nhận ra
ngay rằng chỉ ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. HCM, Hải Phòng, Bà Rịa
Vũng Tàu mới có nhiều dự án hoặc ở các địa phương có chính sách ưu đãi đặc
biệt đối với các nhà đầu tư như Bình Dương, Đồng Nai mới thu hút được nhiều
dự án đầu tư. Còn ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái,
Hà Giang, Ban Mê Thuật, Đắc Lắc, Kiên Giang, An Giang... Có rất ít thậm chí
không có dự án nào đầu tư vì cơ sở hạ tầng yếu kém, may ít rủi nhiều.
13



1.3.3. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Đây là một yếu tố không thể thiếu được của môi trường đầu tư. Hệ thống
pháp luật về đầu tư ở đây được hiểu là Luật quốc gia điều chỉnh hoạt động đầu
tư như Luật đầu tư, các Luật khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật (như Nghị định, Quyết định,
Thông tư, Chỉ thị) và Luật quốc tế áp dụng đối với quan hệ đầu tư như các Hiệp
định đa phương (Công ước MIGA, Hiệp định khung về đầu tư ASEAN) và Hiệp
định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Nội dung các quy định của
hệ thống pháp luật kể trên phải đảm bảo hai vấn đề quan trọng, đó là các quy
định về ưu đãi khuyến khích đầu tư (như ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế, quyền
hoạt động kinh doanh ) và các quy định về đảm bảo đầu tư (bảo đảm tài sản, lợi
ích hợp pháp của các nhà đầu tư, bảo đảm những thiệt hại do có sự thay đổi về
luật... ). Ngoài ra, hệ thống pháp luật (quốc gia và quốc tế) về đầu tư nước ngoài
phải đảm bảo tính đồng bộ, tính minh bạch, tức là không được mâu thuẫn, chồng
chéo và đặc biệt là phải mang tính ổn định, nhất quán. thực tế cho thấy để đáp
ứng yêu cầu này không hoàn toàn đơn giản đối với các nước đang phát triển. Ở
nước ta, mặc dù hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài khá đầy đủ với nhiều
quy định ưu đãi, bảo đảm đầu tư nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành luật lại
vô cùng rắc rối, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Đáng ngại hơn là việc áp
dụng luật của các cơ quan thi hành pháp luật với những thủ tục hành chính rườm
rà, kém hiệu quả và thái độ nhũng nhiễu của cán bộ thi hành. Điều này đôi khi
dẫn đến tác hại không nhỏ đối với môi trường đầu tư, làm nản lòng các nhà đầu
tư. Do vậy để cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư, ngoài việc sửa đổi và bổ
sung thường xuyên các quy định của pháp luật còn phải đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ thi hành pháp luật để hạn chế những yếu kém về nghiệp vụ và nâng cao nhận
thức của họ.
Ngoài các yếu tố kể trên của môi tường đầu tư còn phải kể đến một số yếu
tố khác như văn hoá, du lịch... Có tính chất bổ trợ cho môi trường đầu tư hấp

dẫn với các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy ở các quốc gia giầu truyền thống văn
hoá, thái độ hiểu biết, cởi mở của người dân và là đất nước có nhiều danh lam
14


thắng cảnh thì số dự án đầu tư tăng lên nhiều hơn so với các quốc gia chỉ có ba
yếu tố cơ bản kể trên. Ở Việt Nam mặc dù chúng ta có lợi thế về văn hoá, du lịch
nhưng thực tế chưa khai thác hết thế mạnh này, ngoài ra chưa kể đến có những
lúc thái độ đối với các nhà đầu tư nước ngoài còn thiếu thiện chí, chưa đánh giá
đúng về vai trò của đầu tư nước ngoài đối với đất nước mình...
Để có được môi trường hấp dẫn, thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài cần
phải tiếp tục cải thiện các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư như đã phân tích ở
trên, đồng thời phải đặc biệt chú ý cải thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh
doanh, tiến tới áp dụng một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho tất cả
các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước. Thêm vào đó cần chú trọng
cải cách thủ tục hành chính, đào tạo đội ngũ cán bộ và quan tâm đúng mức đến
hoạt động xúc tiến đầu tư để cho mọi người quan tâm đến đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam có được ấn tướng tốt đẹp về môi trường đầu tư ở Việt Nam.

15


PHẦN 2: THỰC TRẠNG VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
30 năm đã qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời vào
tháng 12 năm 1987. Thành tựu nhiều, nhưng không phải là không có những hạn
chế trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Giờ là lúc cần phải dựa
trên hệ tiêu chí khoa học để đánh giá khách quan, toàn diện kết quả, tác động
của FDI, phát hiện những vấn đề cần giải quyết làm căn cứ để đề ra định hướng
mới, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dòng vốn FDI trong thời gian tới.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết 30 năm thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam.
2.1. Thành tựu
Cuối năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
thông qua, khi nước ta còn trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội,
lạm phát phi mã, sản xuất và lưu thông chậm phát triển, làm không đủ ăn, buộc
phải dùng tem phiếu “phân phối sự thiếu thốn”; khi các nước “phương Tây” cấm
vận đối với Việt Nam, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ bó hẹp trong khung
khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế với 12 nước xã hội chủ nghĩa (cũ).
Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được dư luận quốc tế đánh giá cao. Hoạt
động FDI là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc tế nhờ thị trường đầy tiềm
năng của Việt Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế, trong đó có
các nước đang thi hành chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình là Mỹ.
Mặc dù cuối năm 1994, Tổng thống Bill Clinton mới bỏ lệnh cấm vận đối với
Việt Nam, nhưng một số nhà đầu tư nước này thông qua nước thứ ba đã thực
hiện nhiều dự án FDI ở nước ta từ năm 1989.
Việt Nam bắt đầu quá trình thu hút FDI từ năm 1988 và trong 3 năm đầu
(1988 - 1990) đã thu hút được trên 1,603 tỷ USD. Đến giai đoạn 1991 - 1995,
FDI bắt đầu phát huy hiệu quả và đóng góp vào nền kinh tế, giai đoạn này thu
hút trên 17 tỷ USD. Ở giai đoạn 1996-2000, nhờ kết quả thu hút được ở giai
đoạn trước đã tạo tiền đề cho dòng vốn này chảy mạnh vào Việt Nam vào năm
16


1996 với gần 10 tỷ USD (tạo làn sóng FDI thứ nhất). Những năm sau đó bắt đầu
giảm dần, mà nguyên nhân chủ yếu là do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ châu Á năm 1997, nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn về thị
trường xuất khẩu và dòng vốn FDI từ các quốc gia trong khu vực cũng giảm rất
nhanh.
Giai đoạn 2001 - 2005 là thời kỳ thu hút FDI gặp nhiều khó khăn. Do tác

động từ bối cảnh quốc tế, nhiều quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc
cải thiện môi trường đầu tư (cạnh tranh hơn) đã tác động ít nhiều đến quá trình
thu hút FDI của Việt Nam. Trong khi đó, môi trường đầu tư của Việt Nam chưa
thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng với lợi thế về ổn định kinh tế
vĩ mô và tình hình chính trị, dòng vốn FDI vẫn duy trì nhưng không bằng giai
đoạn 1996-2000.

17


Sang giai đoạn 2006 - 2010 đã đánh dấu thời kỳ khởi sắc của dòng vốn
FDI, đây là giai đoạn Việt Nam bước vào sân chơi WTO (gia nhập năm 2007) và
đã tạo ra làn sóng FDI thứ hai trong năm 2008 khi cả năm thu hút được 1.171 dự
án với tổng vốn đăng ký lên đến 71,7 tỷ USD, gần bằng số vốn FDI lũy kế của
giai đoạn từ 1988 - 2007 (77,8 tỷ). Sang năm 2009 và 2010, vốn FDI sụt giảm
rất lớn so với năm 2008, tương đương 1/3 so với mức kỷ lục năm 2008,
nhưng cũng không phải là kết quả tồi trong bối cảnh kinh tế toàn cầu rơi vào
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Giai đoạn từ 2011 đến nay, dù có
những khó khăn xuất phát từ bất ổn nội tại của nền kinh tế Việt Nam nhưng nhìn
chung vẫn đạt được kế hoạch thu hút FDI đề ra, bình quân trên dưới 20 tỷ
USD/năm, vốn giải ngân cũng khá ổn định và có tăng trưởng tốt.
Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư), tính đến ngày 20/12/2016, cả nước đang có 22.509 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký đạt gần 293,25 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án
FDI ước đạt hơn 154,54 tỷ USD (bằng gần 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực).
Khu vực FDI đã đầu tư vào 19 trong tổng số 21 ngành, trong đó lĩnh vực công
nghiệp chế biến và chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 58,8% tổng vốn đăng
ký), kinh doanh bất động sản đứng thứ hai (chiếm 17,7% tổng vốn đăng ký). Có
116 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó Hàn Quốc là
nhà đầu tư lớn nhất với 5.747 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50,7 tỷ

USD (chiếm 17,3% tổng vốn đầu tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với 3.280 dự án
còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 42 tỷ USD (chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư).
Đến nay, FDI đã có mặt khắp 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó tập trung
chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Xếp theo quy mô vốn, TP Hồ Chí
Minh dẫn đầu với 6.737 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 44,82 tỷ USD,
chiếm 15,3% tổng vốn đăng ký cả nước; đứng thứ hai là Bà Rịa - Vũng Tàu với
342 dự án, vốn đăng ký 26,86 tỷ USD, chiếm 9,2% tổng vốn đăng ký cả nước;
đứng thứ ba là Bình Dương với 3.035 dự án, vốn đăng ký 26,96 tỷ USD, chiếm
9,1%. Khi xem xét giá trị của FDI dưới các góc độ khác nhau, các nhà kinh tế và
quản lý có những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi nhận định về
18


giá trị của nó đối với sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, không nhiều thì ít,
FDI cũng đã đem lại những giá trị tích cực cho nền kinh tế, thể hiện ở những
điểm sau:
Một là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nhìn vào Hình 1 có thể thấy xu hướng vận động của tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tổng vốn FDI thực hiện tại Việt Nam về cơ bản là cùng pha với nhau.
Chỉ có năm 2008 trong khi vốn thực hiện FDI tăng mạnh nhưng do chính sách
kiềm chế lạm phát của Chính phủ và suy thoái kinh tế toàn cầu, nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm mạnh so với năm 2007. Nhìn dài hạn, chúng ta có thể khẳng
định rằng, FDI là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Mặt khác, tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP năm sau cao hơn
năm trước. Nếu năm 1992, tỷ lệ này là 2% thì đến năm 2005 đạt khoảng 15%,
năm 2015 là trên 17%. Điều này khẳng định vị trí, vai trò của khu vực FDI trong
nền kinh tế quốc dân.
Khu vực FDI cũng đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách với giá trị

ngày càng tăng. Giai đoạn 1994-2000 là 1,8 tỷ USD, tăng lên 14,2 tỷ USD trong
giai đoạn 2001-2010 và 23,7 tỷ USD trong giai đoạn 2011-2015.
19


Hai là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
FDI là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển nhiều ngành công nghiệp và
sản phẩm mới, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành
một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như: dầu khí, điện tử, công
nghệ thông tin, thép, ximăng…, làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc
dân nhờ có cơ cấu kinh tế tiến bộ hơn.
FDI cũng góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu
một số công nghệ tiên tiến, giống cây, con có năng suất chất lượng cao. Các
doanh nghiệp FDI đã tập trung đầu tư vào một số ngành quan trọng trong nông
nghiệp và nông thôn, như: chế biến nông sản sau thu hoạch, chế biến thức ăn gia
súc,… tạo ra nhiều loại sản phẩm mới và tăng khả năng cạnh tranh của nông
sản.
Trong lĩnh vực dịch vụ, FDI làm xuất hiện nhiều dịch vụ mới có chất
lượng cao, như: ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, vận tải biển, logistic, khách
sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê... Một số ngành đạt tiêu chuẩn quốc tế, từng
bước tạo điều kiện cho thị trường dịch vụ phát triển và tăng khả năng hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ba là, tăng quy mô vốn đầu tư cho nền kinh tế
Với Việt Nam, đang trong quá trình đẩy manh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nên nhu cầu về vốn của nền kinh tế quốc dân là rất lớn, FDI đã bổ sung
phần nào đáng kể nhu cầu đó. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, nguồn vốn FDI giữ
một vai trò quan trọng, thể hiện qua tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của khu
vực này ngày càng tăng lên (Hình 2).


20


Trong giai đoạn 2011-2015, khu vực FDI đóng góp trên 22% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, dù vốn FDI là ngoại lực quan trọng cho quá trình
đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân, nhưng cần lưu ý nếu chúng ta sử dụng
không có hiệu quả sẽ tác động xấu đến quy hoạch, làm mất cân đối trong cơ cấu
đầu tư, cơ cấu vùng, có thể gây ô nhiễm môi trường và tiếp thu những công nghệ
lạc hậu.
Bốn là, nâng cao trình độ công nghệ
FDI được coi là kênh quan trọng để phát triển năng lực công nghệ của
nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua FDI, Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công
nghệ tiên tiến của thế giới để phát triển các ngành kinh tế sử dụng công nghệ
hiện đại, như: cơ khí chính xác, điện tử, công nghiệp phần mềm, bưu chính viễn thông, công nghệ sinh học… FDI còn góp phần thúc đẩy phát triển nhanh
các khu chế xuất, khu công nghiệp với trình độ công nghệ tiên tiến. Nhiều công
nghệ mới và hiện đại đã được chuyển giao thông qua hoạt động FDI, tạo bước
ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận việc chuyển giao những công nghệ mới,
có tính cạnh tranh cao thường khó thực hiện được, vì các công ty này sợ lộ bí
mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến và nhái lại công

21


nghệ của các công ty nước chủ nhà. Đây chính là hạn chế cơ bản trong chuyển
giao công nghệ thông qua FDI.
Năm là, thúc đẩy xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng khả
năng hội nhập kinh tế quốc tế
Những năm qua, hàng hóa xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI đã

“biến” bạn hàng của họ thành bạn hàng của Việt Nam, quảng bá thương hiệu
quốc gia, trở thành “cầu nối”, là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận
và tiến hành hợp tác với nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, những trung tâm kinh
tế, kỹ thuật, công nghệ lớn trên thế giới, từng bước nâng cao thế và lực của nước
ta trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Thực tế ở Việt Nam đã chứng minh điều này, trước năm 1987 (năm có
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam rất
nhỏ bé và đơn điệu về chủng loại hàng hóa, hầu hết là sản phẩm thô, chưa qua
sơ chế hoặc mức độ chế biến thấp. Ngoài dầu thô và gạo, không có mặt hàng
xuất khẩu nào vượt quá 100 triệu USD/năm. Khi các doanh nghiệp FDI tại Việt
Nam đi vào giai đoạn phát triển, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này
đã góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước. Từ năm 1991 đến
1995 xuất khẩu của khu vực FDI đạt trên 1,12 tỷ USD, đến giai đoạn 1996-2000
đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim
ngạch xuất khẩu cả nước. Trong giai đoạn 2011-2015, cũng không ngừng tăng
22


lên, năm 2015 đạt gần 80 tỷ USD và 67,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhờ xuất khẩu từ khu vực FDI, cán cân thương mại không những được cải
thiện, mà còn tạo ra xuất siêu trong vài năm gần đây.
Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng, nếu năm
1990 tỷ lệ lao động trong khu vực này chỉ chiếm 0,04% lực lượng lao động cả
nước, thì đến năm 2007 tỷ lệ này là 1,6%. Năm 2010, khu vực FDI đã thu hút
trên 1,7 triệu lao động trực tiếp, trong đó lao động trực tiếp làm việc trong khu
vực công nghiệp chiếm gần 80%, năm 2015 là 2,2 triệu lao động, chiếm 4,2% so
với cả nước. Ngoài ra, FDI còn tạo việc làm cho khoảng 2,5 triệu lao động gián
tiếp. Khu vực FDI được xem là tiên phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo

bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý.
Một bộ phận trong đó đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ
sức thay thế chuyên gia nước ngoài.
Để đánh giá cụ thể hiệu quả của sử dụng vốn FDI, theo PGS. TS Ngô
Doãn Vịnh, Nguyên Viện trưởng Viện Phát triển Chiến lược, "Khi xét về hiệu
quả của FDI, chúng ta nên đánh giá hiệu quả trực tiếp của FDI là năng suất lao
động, hiệu quả sử dụng vốn FDI và đánh giá hiệu quả của khu vực FDI đóng
góp cho nền kinh tế quốc dân. "
2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động FDI cũng đã bộc lộ
những nhược điểm và khuyết điểm, như chưa phù hợp với quy hoạch phát triển
ngành và vùng kinh tế, một số máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu đã được nhập
khẩu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng... Chuyện ô nhiễm ở sông Thị Vải,
sông Cầu, sông Nhuệ là ví dụ điển hình.
- Trước hết đầu tư nước ngoài đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lí. Mục đích
của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ
chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp, dich vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận
cao.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng “chảy máu
23


chất xám”. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi về thu nhập,
việc làm do đó đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, nhà nghiên
cứu, công nhân lành nghề của nước ta về làm việc cho họ.
- Chuyển giao công nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cách mạng khoa
học - kỹ thuật, quá trình nghiên cứu ứng dụng ngày càng được rút ngắn, máy
móc thiết bị nhanh chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ chúng, nhiều nhà đầu tư đã
cho chuyển giao sang các nước nhận đầu tư như một phần vốn góp. Việc làm đó
đã làm cho trình độ công nghệ của các nước nhận đầu tư ngày càng lạc hậu.

- Chi phí để tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn. Các nước nhận
đầu tư đã phải áp dụng nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: giảm
thuế, miễn thuế, giảm tiền thuê đất, nhà xưởng . . . .
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự canh tranh với các
doanh nghiệp trong nước. Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án đầu tư nước
ngoài đã đặt các doanh nghiệp trong nước vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt về
thị trường, lao động và các nguồn lực khác.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có thể gây ra những bất ổn về
chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội mới xâm nhập vào nước ta.
Cùng với đó, cũng đã xảy ra “cuộc chiến giữa các tỉnh, thành phố chào
mời nhà đầu tư quốc tế” bằng những ưu đãi quá mức thuế, tiền thuê đất, ảnh
hưởng tiêu cực đến phúc lợi chung của cộng đồng. Đã xảy ra tranh chấp lao
động trong một số doanh nghiệp FDI. Gần đây, việc “chuyển giá” của một số
doanh nghiệp FDI, gây ra tình trạng “lỗ giả lãi thật” nổi lên như vấn đề thời sự.
Trong đó chúng ta cần lưu ý 2 thông tin chính :
Một là, theo báo cáo “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2015” của
Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh
Việt Nam (VNCI) trên cơ sở khảo sát 1.155 doanh nghiệp của 47 quốc gia, đại
diện cho 21% số doanh nghiệp FDI đang hoạt động thì “doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam có quy mô tương đối nhỏ và có lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ
cho các công ty đa quốc gia lớn hơn, do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của
giá trị sản phẩm”; khoảng 5% doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành công
24


nghệ hiện đại, 5% vào dịch vụ khoa học - công nghệ 3,5% vào dịch vụ tài chính,
quản lý đòi hỏi kỹ năng cao.
Hai là, khi trả lời câu hỏi doanh nghiệp có ý định cân nhắc đầu tư ở nước
khác hay chỉ tập trung đầu tư ở Việt Nam, thì 55% doanh nghiệp tham gia phỏng
vấn cho biết, có cân nhắc đầu tư ở nước khác, trong đó 30% sang Trung Quốc,

10% sang Thái Lan, 8% sang Campuchia, 6% sang Indonesia, 4% sang
Philippines và 4% sang Lào.
Mặc dù các tư liệu điều tra chọn mẫu chỉ có tính tham khảo, nhưng cũng
báo động rằng, nước ta đã chậm chuyển đổi định hướng chính sách FDI từ đầu
thế kỷ XXI. Môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện, nhưng so với nhiều nước
trong khu vực thì chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư có tiềm năng lớn. Đối với Việt
Nam, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư càng gay gắt hơn khi theo xếp hạng năm
2011, Trung Quốc vẫn dẫn đầu, Indonesia, Malaysia và Singapore lọt vào top 10
quốc gia có môi trường đầu tư tốt nhất thế giới; và khi trong số 5 nước mới nổi
BRICS, thì 4 nước đã lọt vào danh sách 10 quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế
giới, là Trung Quốc (thứ 2), Brazil (thứ 6), Nga (thứ 9) và Ấn Độ (thứ 10). Với
dân số gần 3 tỷ người, 4 nước này là những thị trường hấp dẫn FDI nhất thế giới.
Bộ KHĐT cũng chỉ ra một số hạn chế trong thu hút FDI 30 năm qua, gồm: hiệu
quả tổng thể nguồn vốn FDI chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam và khả
năng tham gia chuỗi giá trị thấp, định hướng thu hút FDI theo ngành, đối tác còn
hạn chế; Mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn),
chuyển giao công nghệ chưa đạt yêu cầu; hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI sang
khu vực khác của nền kinh tế còn hạn chế; một số dự án chất lượng chưa cao,
quy mô bình quân dự án nhỏ, tỷ lệ giải ngân thấp so với yêu cầu; đời sống người
lao động chưa cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng, có hiện tượng
chuyển giá, trốn thuế.
Nguyên nhân gây ra những hạn chế nêu trên, theo Thứ trưởng Bộ KHĐT
Đào Quang Thu, do: điều kiện kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và sự phát triển
của doannh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu của FDI; hệ thống luật pháp,
chính sách và thủ tục đầu tư chưa đồng bộ, chưa thực sự minh bạch, thiếu nhất
25


×