Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

THỰC TRẠNG SINH CON THỨ 3 TRỞ LÊN CỦA PHỤ NỮ TỪ 15 49 TUỔI TẠI HUYỆN MỸ ĐỨC, HÀ NỘI NĂM 2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.64 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN
TRẦN NGỌC TRÁNG

THỰC TRẠNG SINH CON THỨ 3 TRỞ LÊN CỦA PHỤ NỮ
TỪ 15 - 49 TUỔI TẠI HUYỆN MỸ ĐỨC, HÀ NỘI NĂM 2019
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI, 04/2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN
TRẦN NGỌC TRÁNG

THỰC TRẠNG SINH CON THỨ 3 TRỞ LÊN CỦA PHỤ NỮ
TỪ 15 - 49 TUỔI TẠI HUYỆN MỸ ĐỨC, HÀ NỘI NĂM 2019
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
CHUYÊN NGÀNH Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số chuyên ngành 8.72.07.01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐÀO XUÂN VINH


HÀ NỘI, 04/2019


i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..............................................................................3
DANH MỤC CÁC B ẢNG BIỂU..................................................................................4
DANH MỤC CÁC HÌNH...............................................................................................5
ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.........................................................................3

1.1. Tình trạng gia tăng dân số hiện nay..........................................................3
1.2. Tình hình sinh con thứ 3 trở lên tại Việt Nam và một số yếu tố liên quan
...........................................................................................................................6
1.3. Tình hình sinh con thứ 3 trở lên tại huyện Mỹ Đức................................14
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................15

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu................................................15
2.2. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................15
2.3. Biến số nghiên cứu..................................................................................16
2.4. Phương pháp thu thập thông tin..............................................................23
2.5. Phương pháp phân tích số liệu.................................................................23
2.6. Sai số và biện pháp khắc phục................................................................23
2.7. Đạo đức nghiên cứu.................................................................................24
2.8. Hạn chế của nghiên cứu...........................................................................24
CHƯƠNG 3. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...................................................26

3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu...............................................26
3.2. Thực trạng sinh con thứ 3 trở lên của đối tượng nghiên cứu................28
3.3. Lý do sinh con thứ 3 trở lên của các cặp vợ chồ ng................................32

3.3. Một số yếu tố liên quan đến việc sinh con thứ 3 của đối tượng nghiên
cứu...................................................................................................................34
CHƯƠNG 4. DỰ KIẾN BÀN LUẬN..........................................................................38


ii
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..................................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................40

Tài liệu Tiếng Việt...........................................................................................40
Tài liệu Tiếng Anh...........................................................................................44
Phụ lục 1: PHIẾU KHẢO SÁT CÁC CẶP VỢ CHỒNG SINH CON THỨ 3 TRỞ
LÊN...............................................................................................................................46


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BP TTHĐ:

Biện pháp tránh thai hiện đại

CBCNVC:

Cán bộ công nhân viên chức

CTV

Cộng tác viên

ĐTNC


Đối tượng nghiên cứu

DS - KHHGĐ:

Dân số - Kế hoạch hóa gia đình

PTTH

Phổ thông trung học

SKSS

Sức khỏe sinh sản

UBND

Ủỷ ban nhân dân

YNTK

Ý nghĩa thố ng kê


DANH MỤC CÁC B ẢNG BIỂU


DANH MỤC CÁC HÌNH
.



1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo số liệu thống kê, dân số thế giới tại thời điểm hiện tại là gần 7,7 tỷ
người, dân số tăng nhanh gây ra nhiều khó khăn trong việc bảo vệ môi trường,
duy trì chất lượng dân số, tình trạng nghèo đói và sự phát triển chung của nhiều
quốc gia [51]. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác dân số và kế
hoạch hóa gia đình, xem công tác này là một nội dung quan trọng của chiến
lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu ở
nước ta, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người dân,
mỗi gia đình và toàn xã hội.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm thực hiện công tác DSKHHGĐ. Năm 1961, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 216/CP, đây là văn
bản pháp quy đầu tiên của Việt Nam về công tác DS-KHHGĐ và mang đậm
tính nhân văn “ Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc hoà thuận của gia
đình và để cho việc nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân
cần được hướng dẫn một cách thích hợp”. Để kỷ niệm và đánh dấu sự kiện này,
ngày 19/5/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 326, lấy
ngày 26/12 hàng năm làm Ngày Dân số Việt Nam [10].
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2009, Việt Nam có 85,847 triệu
người, tăng 9,522 triệu so với tổng điều tra dân số 01/04/1999 [33]. Ngày
1/11/2013 Việt Nam đón chào công dân thứ 90 triệu người. Số dân tăng
thêm hằng năm của nước ta từ mức 0,9 - 1,2 triệu người. Chương trình dân
số Việt Nam đã có bước ngoặt quan trọng, chuyển hướng từ mục tiêu tập
trung vào giảm số dân sang chất lượng dân số, từ nội dung KHHGĐ hạn hẹp
sang sức khoẻ sinh sản toàn diện hơn [16].
Việt Nam hiện nay tuy đã đạt mức sinh thay thế, nhưng một số địa
phương mức sinh có thể tăng trở lại, nguyên nhân là do phong tục tập quán, tư
tưởng muốn có đông con, phải có con trai để nối dõi, trọng nam khinh nữ… còn
rất nặng nề của người dân trong xã hội; số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tiếp tục
tăng nhanh, sẽ đạt cực đại vào năm 2020-2025; năm 2012 còn 26/63 tỉnh, thành

phố chưa đạt mức sinh thay thế tập trung vào Tây Nguyên, Bắc trung bộ và


2
duyên hải miền Trung và Trung du miền núi phía bắc. Điều đáng nói là số phụ
nữ sinh con thứ 3 hiện nay không chỉ có đối tượng nông dân mà còn đang tăng
ở đối tượng công chức nhà nước, lao động tự do [4], [31].
Theo báo cáo Dân số kế hoạch hóa gia đình huyện Mỹ Đức năm 2018,
tổng số trẻ sinh ra 2.992 trẻ, trong đó 336 trẻ là con thứ 3 trở lên. Tỷ lệ sinh
con thứ 3 trở lên của tỉnh năm 2018 là 11,23% còn cao so với cả nước, với tình
hình trên nếu không có giải pháp kịp thời nhằm khống chế tỷ lệ sinh con thứ
3 trở lên tại địa bàn huyện có thể sẽ gây ra những ảnh hưởng đến tình hình
phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đặc biệt ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống người dân nơi đây [36].
Trước những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Thực
trạng sinh con thứ 3 trở lên của phụ nữ 15 – 49 tuổi tại huyện Mỹ Đức, Hà
Nội năm 2019 và một số yếu tố liên quan.
1. Mô tả thực trạng sinh con thứ 3 trở lên tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội năm
2019.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến thực trạng sinh con thứ 3 trở lên của
đối tượng nghiên cứu


3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình trạng gia tăng dân số hiện nay
1.1.1. Tình trạng gia tăng dân số trên thế giới
Dân số thế giới tính đến ngày 15 tháng 12 năm 2014 hơn 7,2 tỷ người và tiếp
tục tăng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trung Quốc là nước đông dân
nhất thế giới với 1,39 tỷ người, đứng thứ 2 là Ấn Độ với 1,27 tỷ người,

Indonesia là nước có dân số đứng thứ 4 thế giới và đ ứng đầu các nước ở khu
vực Đông Nam Á với hơn 254 triệu người. Dân số thế giới đạt mốc 6 tỷ người
vào năm 1999, 7 tỷ người năm 2011 và dự đoán mùa xuân năm 2024 dân số thế
giới đạt mốc 8 tỷ người, năm 2050 con số này lên đến 9,5 tỷ người [51].
Dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm; tức cứ 1
giây lại có 4,4 em bé chào đời; tăng 78 triệu người hàng năm; bình quân cứ 13
năm dân số thế giới đã tăng thêm 1 tỷ người. Tốc độ tăng dân số sẽ giảm xuống
còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông
dân nhất thế giới [24].
Theo UNFA, các chỉ báo về nhân khẩu học năm 2012, dân số Thế giới là
7,052 tỷ người, thì các vùng kém phát triển chiếm 5.8076 tỷ người. Tỷ lệ tăng
dân số trung bình hàng năm giữa vùng phát triển là 0,3% trong khi đó tỷ lệ này
ở các vùng kém phát triển là 1,3%. Tỷ suất sinh/phụ nữ từ năm 2010 – 2015 ở
các nước phát triển là 2 và ở các nước kém phát triển là 3. Những thay đổi về
tỷ lệ sinh trong vòng vài thập kỷ tiếp theo có thể gây hậu quả lớn về quy mô,
cấu trúc và phân bổ dân số trong thời gian dài hạn [14].
Theo báo cáo Triển vọng dân số thế giới năm 2012, dân số tại khu vực phát
triển sẽ giữ ở mức không thay đổi vào khoảng 1,3 tỷ người từ nay cho tới
2050. Dân số của châu Âu được dự báo giảm kho ảng 700 triệu dân vào
năm 2050 thì tại 49 nước kém phát triển dự báo sẽ có quy mô tăng gấp đôi ở
mức 900 triệu người vào năm 2013 lên 1,8 tỷ người vào năm 2050 [27], [46].
Khu vực dân số tăng nhanh nhất thế giới là Châu Phi kho ảng 1 tỷ người


4
(2011). Dân số Châu Á và Châu Mỹ La Tinh cũng được dự báo sẽ tăng thêm
khoảng 25% trong 50 năm tới [24].
Trong số bốn yếu tố tác động đến tốc độ tăng dân số là mức sinh, mức
chết, di dân và cơ cấu dân số trẻ thì cơ cấu dân số trẻ có ảnh hưởng lớn nhất.
Theo Ngân hàng Thế giới, quy mô dân số ở các nước đang phát triển năm 2010

sẽ tăng 1,81 lần so với năm 2000 thì phần tăng do cơ cấu dân số trẻ là 1,39 lần,
do mức chết giảm là 1,15 lần và do mức sinh là 1,13 lần. Với cơ cấu dân số trẻ
– tỷ lệ phụ nữ dưới 30 tuổi theo Tổng điều tra dân số 1999 chiếm gần 59,6%
dân số nữ, đúng bằng trung bình của các nước đang phát triển năm 2000
(59,3%), dân số Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục tăng trong nhiều năm nữa trước khi đạt
đến quy mô dân số ổn định [20].
1.1.2. Tình trạng gia tăng dân số tại Việt Nam
Sự thay đổi dân số bất bình thường của Việt Nam đã diễn ra trong vòng
30 năm từ 1921 đến 1951, tỷ lệ tăng bình quân hàng năm 1,9% trong thời kỳ
1921 – 1926 đã giảm xuống còn 0,7% thời kỳ 1926 – 1931. Thời kỳ 1954 –
1960 sau khi miền Bắc được giải phóng nền kinh tế được phục hồi và phát triển,
quy luật dân số tăng đã làm cho dân số tăng với tốc độ kỷ lục, tới 3,9%/năm.
Những năm gần đây, 1976 – 1979, tốc độ phát triển dân số giảm nhanh do
tác động của giảm tỷ suất sinh. Trong 10 năm kể từ 1979 – 1989, tỷ lệ tăng dân
số bình quân cả nước ở mức 2,1%. Từ 1989 – 1992, tỷ lệ sinh có giảm nhưng
chậm. Trong khi tỷ lệ sinh còn cao, tỷ lệ chết giảm đáng kể nên tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên của dân số trong những năm sau tổng điều tra dân số 1989 vẫn còn ở
mức cao, ngoài ra còn có tác động của yếu tố di dân từ nước ngoài về [7].


5
Dân số Việt Nam triệu ngƣời
120

99.5

05

6.


100
80
60
40
20
0

NămNămNămNămNămNămNămNămNăm
200920142019202420292034203920442049

Nguồn:Tổng cục Thống kê(2011), Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2009 - 2049
Hình 1.2. Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2009 - 2049

Theo báo cáo của Tổ ng cục Dân số và KHHGĐ, dân số Việt Nam năm
2000 là 77,6 triệu người, tăng lên 82,4 triệu người vào năm 2005 và 86,92
triệu người vào năm 2010, đạt mục tiêu Chiến lược đề ra là dưới 89 triệu người.
Trong 10 năm (2001-2010), dân số đó tăng thêm 11,2 triệu người. Tỷ lệ phát
triển dân số từ 1,28% (2001) xuống 1,17% (2005) và đ ạt 1,05% năm 2010,
vượt mục tiêu đề ra là 1,1% vào năm 2010. Từ năm 2000 đến nay, mức sinh
giảm chậm và có sự dao động “lên xuống” qua các năm [32].
Ngày 1/4/2013 dân số Việt Nam ƣớc tính là 89,5 triệu người (tăng
952.131người so với 1/4/2012) trong đó có 45.215.396 người nữ, theo xếp hạng
dân số Việt Nam đứng thƣ́ 13 trên thế giới và đang đứng thứ 8 trong khu vực
Châu Á. Trong đó, dân số thành thị là 28,9 triệu người, chiếm 32,3%; dân
số nông thôn là 60,6 triệu người, chiếm 67,7%. Với 20,4 triệu người, Đồng
bằng sông Hồng là vùng có quy mô dân số lớn nhất, chiếm 22,8%, tiếp đến là
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (19,3 triệu người) chiếm 21,5%, Tây
Nguyên là vùng có số dân ít nhất (5,5 triệu người) chỉ chiếm 6,1% dân số cả
nước. Dân số Việt Nam vẫn tiếp tục có xu hướng gia tăng. Tổng tỷ suất sinh
năm 2013 đạt 2,1 con/phụ nữ, tăng so với mức 2,05 con/phụ nữ của năm 2012.



6
Tỷ suất sinh thô đạt 17 trẻ sinh ra sống trên 1000 người dân. Tỷ số giới tính của
trẻ em là 113,8 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 112,3 bé trai/100 bé gái của
năm 2012. Tỷ suất chết thô năm 2013 là 7,1‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 1
tuổi là 15,3‰; tỷ suất chết c ủa trẻ em dưới 5 tuổi là 23,1‰ [34].
Với quy mô dân số hơn 90 triệu người và duy trì mức sinh thay thế (mỗi phụ
nữ sinh từ 2-2,1 con), mỗi năm dân số Việt Nam tăng hơn 1 triệu người và sẽ
đạt quy mô dân số cực đại vào năm 2050 với khoảng 110 triệu dân, trong đó
dân số già trên 65 tuổi chiếm 18%. Đây là cơ cấu dân số này là mong muốn của
nhiều nước, đảm bảo hài hòa giữa các lứa tuổi và sự phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước. Hiện nay, dân số Việt Nam đang đứng thứ 14 trên thế giới cũng sẽ
là áp lực rất lớn trong việc bảo vệ môi trường cũng như các chính sách an sinh
xã hội [16], [21], [49].
1.2. Tình hình sinh con thứ 3 trở lên tại Việt Nam và một số yếu tố liên
quan
1.2.1. Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên tại Việt Nam
Tình hình sinh con thứ 3 trở lên tại Việt Nam đang trở thành mối quan
tâm củaĐảng và nhà nước ta. Sinh con thứ 3 trở lên hiện không chỉ tồn tại ở
nông thôn mà còn là vấn đề của các thành phố lớn, không chỉ ở bộ phận có
trình độ hiểu biết thấp mà còn ở cả những người có trình độ học vấn cao, cán
bộ, đảng viên. Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên biểu thị số phụ nữ có sinh
con thứ ba trở lên trong 12 tháng trước điều tra trên 100 phụ nữ sinh con trong
thời kỳ đó.
Bảng 1.1 trình bày tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ ba trở lên ở
Việt Nam từ năm 2006 đến 2013 chia theo thành thị và nông thôn. Số liệu cho
thấy, trong thời gian qua, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong cả nước
giảm dần qua các năm, từ 18,5% năm 2006 xuống 14,2% năm 2012, tuy nhiên
năm 2013 tỷ lệ này có xu hướng tăng nhẹ 14,3% [34].



7
Bảng 1.1. Tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ 3 trở lên chia theo thành
thị/nông thôn, thời kỳ 2006 – 2013
Nơi cư trú

2006 2007

2008 2009 2010

2011

2012 2013

Toàn quốc

18,5

16,7

16,9

16,1

15,1

14,7

14,2


14,3

Thành thị

10,0

9,0

9,7

9,3

9,5

9,8

9,6

9,9

Nông thôn

21,4

19,3

19,6

18,9


17,1

16,5

16,3

16,4

Nguồn: Tổng c ục Thống kê (2013), Điều tra biến động dân số - KHHGĐ 1/4/2013.

Trong những năm qua, tỷ lệ sinh con thứ ba của phụ nữ thành thị thay đổi
không đáng kể trong khi tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn giảm mạnh. Tỷ lệ phụ
nữ 15-49 tuổi sinh con thứ ba trở lên cao nhất ở Tây Nguyên (24,0%), tiếp theo
là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (18,0%). Đông Nam Bộ và Đồng
bằng sông Cửu Long là hai vùng có tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ ba trở
lên trên thấp nhất, khoảng 11%. Tây Nguyên là nơi sinh sống của các dân tộc ít
người, việc tiếp cận các phương tiện tránh thai cũng như phương tiện truyền
thông về kế hoạch hóa gia đình có hạn chế nên đây cũng có thể là một trong
những nguyên nhân khiến tỷ

lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ ba trở lên của

vùng này cao nhất nước [34].
1.2.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng sinh con thứ 3 trở lên tại Việt
Nam
1.2.2.1. Các yếu tố cá nhân người vợ
a. Trình độ học vấn
Giữa trình độ học vấn và tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch: trình độ học vấn càng cao, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba

trở lên càng thấp. Tỷ lệ phần trăm phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong năm
của những phụ nữ chưa đi học tới 45,4%, giảm dần xuống còn 27,4% đối với
phụ nữ chưa tốt nghiệp tiểu học, 21,1% đối với phụ nữ tốt nghiệp tiểu học,
16,2% đối với phụ nữ tốt nghiệp trung học cơ sở và chỉ còn 5,7% đối với phụ
nữ có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên [34].
Trong những năm 2000, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trình độ học vấn có
ảnh hưởng lớn đến sinh con thứ 3 trở lên. Trình độ học vấn càng thấp thì tỷ lệ


8
sinh con thứ 3 trở lên càng cao. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên có sự hiểu biết về xã
hội còn hạn chế và tập trung cao nhất ở những bà mẹ có trình độ dưới tiểu học
[15],[17],[19]. Đến sau những năm 2010, những nghiên cứu về tình trạng sinh
con thứ 3 trở lên của các tác giả Nguyễn Thế Hùng tại tỉnh Quảng Trị,
Nguyễn Ngọc Nha tại Phú Yên, Lang Đình Bính t ại tỉnh Bình Định đã cùng
nhận định nhưng tình trạng sinh con thứ 3 trở lên ở những bà mẹ có học vấn
thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao. Dù đã sau hơn 10 năm nhưng tỷ lệ này vẫn tập trung
chủ yếu ở nhóm bà mẹ có trình độ học vấn dưới Tiểu học [3],[18],[22]
b. Yếu tố tâm lý mong muốn sinh con trai
Tại Việt Nam, yếu tố tâm lý có ảnh hưởng sâu s ắc đến hành vi sinh con
thứ 3 trở lên. Yếu tố tâm lý là lý dó những gia đình quyết định sinh thêm con,
những yếu tố tâm lý này đã tồn tại trong tâm thức nhiều người Việt Nam từ
lâu, với tư tưởng trọng nam khinh nữ, muố n có con trai để nối dõi tông đƣờng,
tâm lý thích đông con hơn đông của, để có thêm lao động hay về già có nơi
nương tựa [19]. Tư tưởng trọng nam khinh nữ là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng
tới mong muốn sinh con trai. Nghiên cứu của Ph. Kamala Devi năm 2013 tại
vùng biên giới đông bắc Ấn Độ và nghiên cứu của Tongkholal Baite, L. Tombi
Singh (2013) cũng cho kết quả mong muốn sinh con trai là nguyên nhân dẫn
đến việc sinh con thứ 3 tại nơi đây [42], [44]. Nghiên cứu của Sharat Singh
N (2011) cho rằng nguyên nhân dẫn đến sinh con thứ 3 là do mong muốn sinh

con trai của các cặp vợ chồng ở Ấn Độ [48].
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, từ thành thị cho đến vùng
nông thôn, miền núi thì lý do sinh thêm con vì muốn có con trai để nối dõi tông
đƣờng. Tại Bắc Ninh 44% người chồng cho biết lý do sinh thêm con là vì
muốn có con trai để nối dõi tông đƣờng. Tại các tỉnh miền Trung tâm lý của
những người có sinh con thứ 3 trở lên mong muố n nhất thiết phải có con trai
cao nhất chiếm 89% tại huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị và tại Đông Hòa,
Phú Yên là 54%. Tại Thừa Thiên Huế tác giả Ngô Văn Vinh cũng cho thấy,
41,1% bà mẹ muốn có con trai nối dõi [17], [18], [22], [41 ].


9
Tâm lý mong muốn có nhiều con, đủ trai đủ gái bên cạnh các quan niệm
thích có con trai, thích có nhiều con vẫn tồn tại trong suy nghĩ của các cặp
vợ chồng, có cả trai lẫn gái, chọn "năm đẹp" để sinh thêm con, sinh con
hợp tuổi cha mẹ… cũng làm tăng thêm việc sinh con thứ 3 trở lên [4],[43].
Tại Hà Nội, có 5,9% số người vợ đƣa ra lý do sinh con thứ 3 trở lên vì đó là
năm đẹp để sinh con [26].
c. Điều kiện mức sống
Điều kiện mức sống có ảnh hưởng lớn đến việc sinh con thứ 3 trở lên,
nhiều gia đình có điều kiện nuôi con, kinh tế khá giả mặc dù đã có 2 con, đủ trai
đủ gái nhưng vẫn mong muốn sinh nhiều con. Theo Nguyễn Thị Hà, tại Bắc
Giang, có 6,3% gia đình có điều kiện nuôi con nên đã đẻ thêm mặc dù đã có
cả trai và gái [15]. Tại Hà Nội, hầu hết các gia đình sinh con thứ 3 trở lên đều
có kinh tế khá giả [33]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Lệ Thu cho thấy, lý do
chính của các gia đình sinh con thứ 3 trở lên trong nghiên cứu là do kinh tế khá
giả (46,4% cặp vợ chồng lựa chọn) [28]. Nghiên c ứu Ngô Văn Vinh tại huyện
Hương Trà tỉnh Thừa Thiên Huế (2008) lại cho thấy tỷ lệ sinh con 3 trở lên
giữa các nhóm đối tượng có kinh tế giàu chiếm 23,9% [41].Nghiên cứu của
Vũ Ngọc Dũng (năm 2011), 92,48% ĐTNC có sinh con thứ 3 trở lên có thu

nhập nghèo và trung bình [12]. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Nguyễn Ngọc Nha tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên thuộc diện hộ nghèo, cận
nghèo chiếm tỷ lệ 57,55% [22].
Như vậy, xu thế sinh con hiện nay xuất hiện ở hai nhóm, nhóm kinh tế
không khá giả mong muốn sinh nhiều con với quan niệm “trời sinh voi sinh
cỏ”, thì nhóm còn lại cho rằng mình có kinh tế, sinh nhiều con vẫn đảm bảo
được chất lượng cuộc sống cho con. Sự khác biệt quan niệm này tập trung ở
nhóm gia đình khá giả ở vùng đồng bằng, thành thị và một nhóm gia đình khó
khăn ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
d. Yếu tố nghề nghiệp
Sự phân bố tỷ lệ những người sinh con thứ 3 trở lêntheo nghề nghiệp có
sự khác nhau tùy theo đặc điểm vùng miền [4]. Nghiên cứu của Nguyễn Thế


10
Hùng có đến 63,3% nghề nghiệp làm ruộng, 20,8% là ngư nghiệp, 5,8% cán bộ
công chức. Kết quả của Nguyễn Ngọc Nha cho thấy có đến 57,55% ĐTNC
sinh con thứ 3 trở lên là ngư nghiệp, 18,87% là nghề nông, 6,6% là cán bộ
công nhân viên chức [22]. Nghiên cứu của Lang Đình Bính có đến 99,5%
ĐTNC là nghề nông [3].
Tại Hà Nội, nghề nghiệp chủ yếu của những người chồ ng sinh con thứ 3
trở lênlà buôn bán (42,9%), 27,1% là CBCN, 10% thất nghiệp và 6% làm nông
nghiệp. Tỷ lệ này ở người vợ 40% ở nhà làm nội trợ, 32,9% buôn bán, 17,1%
là CBCN và 10% làm nông nghiệp. Trong đó, có tổng số 34,3% hộ gia đình có
vợ hoặc chồng hoặc cả hai người là CBCN; 18,6% hộ gia đình có vợ hoặc
chồng hoặc cả hai người là Đảng viên [26].
e. Yếu tố văn hóa vùng miền
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở các dân tộc
cũng khác nhau rõ rệt. Tỷ lệ sinh con thứ 3 cao tập trung chủ yếu ở vùng sâu,
vùng xa, ở vùng núi và Tây Nguyên. Nghiên cứu của Vũ Ngọc Dũng chỉ ra

dân tộc Ba na có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao nhất 49,5%, dân tộc Ê đê
43,44% và dân tộc Tày 38% [12].
Tuy vậy, trong điều kiện của nước ta hiện nay, việc gia tăng dân số đang
đặt ra những khó khăn, thách thức trước mắt như: thiếu việc làm, thất nghiệp,
học vấn của dân cƣ thấp, tật tăng, bất bình đẳng giới.... đang là những rào cản
hạn chế nâng cao mức sống của người dân. Do đó, chính sách c ủa Nhà nước
cần có biện pháp hạn chế, giảm và ổn định mức sinh ở mức độ thấp nhằm nâng
cao mức sống dân cƣ ở Việt Nam cần được quán triệt và xuyên suốt trong tiến
trình phát triển kinh tế xã hội.
f. Yếu tố tôn giáo tín ngưỡng
Tôn giáo tín ngưỡng cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến mức sinh,
mức độ ảnh hưởng này rất khác nhau giữa các tín đồ tôn giáo và không tôn giáo.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên xuất phát từ chủ thuyết của các tôn giáo
đối với sinh đẻ, áp dụng các biện pháp tránh thai và nạo phá thai. Ở Việt Nam,


11
pháp luật tôn trọng và bảo đ ảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo c ủa công
dân. Tôn giáo là một đặc trƣng của dân số [30], [45].
Nghiên cứu của Nguyễn Thế Hùng tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của người
Lương là 55,84%, người theo đạo Phật là 23,38% và người theo đạo Công giáo
là 20,45% [18]. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Nha tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
của người theo đạo Công giáo là 34,91%, những người không có đạo là
32,08% những người theo đạo Phật và đ ạo Tin lành là 16,04% [22 ]. Tuy nhiên
theo nghiên cứu của Lang Đình Bính đã cho thấy tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
của người có tôn giáo là 0,49%, tỷ lệ này ở đối tượng không tôn giáo là
99,51%, điều này có thể do ĐTNC tại đây có tôn giáo chiếm tỷ lệ rất nhỏ [3].
Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người ra quyết định sinh con thứ 3 trở
lên không phải chủ yếu là người chồ ng, bố mẹ chồng mà là người vợ [35].
1.2.2.2. Yếu tố cá nhân người chồng

Nghề nghiệp người chồng có tác động đến việc sinh con thứ 3 trở lên.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, nhiều phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên có chồng là
nghề nông chiếm 66,6% [18]. Tại Hà Nội, nghề nghiệp chủ yếu của những
người chồng sinh con thứ 3 trở lên là buôn bán (42,9%) [26].
Bên cạnh đó là yếu tố trình độ học vấn của người chồ ng. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Thế Hùng năm 2010, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của nhóm
đối tượng có chồng học vấn dưới Trung học cơ sở là là 72,4% [16]. Nguyễn
Hải và Lê Cự Linh tại huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh kết quả tỷ lệ sinh con thứ
3 trở lên ở những người chồng có trình độ học ở bậc trung học phổ thông chiếm
đa số trong mẫu nghiên cứu (60,7%) [17].
Một lý do cũng được quan tâm là người chồng là con trưởng, trưởng tộc hoặc
con trai duy nhất trong gia đình hay dòng họ.
1.2.2.3. Yếu tố gia đình
Tại Việt Nam, thường có quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”,
“Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Áo mặc không qua khỏi đ ầu”… thì ý kiến của
người cha, người mẹ thường được quan trọng. Những ý kiến này có khi là
những vấn đề áp đặt trong một gia đình mà con cái phải làm theo. Điều đó cho


12
thấy các ý kiến mong muốn có thêm con cháu của người cha, người mẹ
thường tác động lớn đến quyết định sinh con của con cái. Bên cạnh đó, những
người xung quanh như xóm giềng, bàn bè, đồng nghiệp khi thấy người ta có
đủ trai đủ gái, những dèm pha… cũng ảnh hưởng đến việc sinh con thứ 3 trở
lên.
Nghiên cứu của Nguyễn Hải và Lê Cự Linh cho thấy, có trên 30% cặp vợ
chồng sinh thêm con thứ 3 trở lên là vì áp lực gia đình và những người lớn xung
quanh [17].
Tỷ lệ này tại Bắc Giang chỉ chiếm 1,8% [15]. Trong nghiên cứu của Nguyễn
Thị Lệ Thu 21,4% số cặp vợ chồng cho biết họ sinh con thứ 3 trở lên là vì áp

lực phải có con trai từ gia đình và dòng tộc [28].
1.2.2.4. Các yếu tố dịch vụ dân số kế hoạch hóa gia đình
Kết quả cuộc Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình
1/4/2013 cho thấy, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tại thời điểm
1/4/2013 đạt mức 67%, tăng 0,4% so với kết quả điều tra 1/4/2012[34].
Hiểu biết các BP TTHĐ và nguồn cung cấp là nhân tố quan trọng giúp
cho các cặp vợ chồng quyết định sử dụng BP TTHĐ hay không. Thông tin về
BP TTHĐ đang được phổ biến ở nước ta như đình sản, tiêm thuốc tránh thai,
bao cao su, vòng tránh thai và hai biện pháp truyền thống là tính vòng kinh và
xuất tinh ngoài âm đạo.Một thái độ đúng đối với các BP TTHĐ sẽ là điều kiện
tiên quyết cho việc sử dụng biện pháp tranh thai thành công. Thái độ thích
hay không thích sử dụng BP TTHĐ hoặc chỉ quan tâm đến biện pháp tránh
thai truyền thống. Nếu việc sử dụng các biện pháp tránh thai thất bại cộng với
không nạo phá thai dẫn đến việc sinh con ngoài ý muốn và có thể góp phần
tăng tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên.
Nghiên cứu của Ngô Văn Vinh (năm 2008) và Nguyễn Ngọc Nha (năm
2010) vẫn còn nhiều bà mẹ không hiểu biết và không sử dụng đúng cách biện
pháp tránh thai dẫn đến vỡ kế hoạch là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ sinh con thứ
3 trở lên.Điều này cho thấy sự hạn chế của chất lượng cung cấp dịch vụ DSKHHGĐ, phụ nữ chưa được tư vấn một cách đầy đủ khi sử dụng BP TTHĐ


13
[41],[22]. Mặt khác, ở những phụ nữ khi bị vỡ kế ho ạch, do không nhận biết,
hoặc có nhận biết nhưng ngại đến cơ sở dịch vụ hoặc do điều kiện khó khăn
không đến được, họ thường để đẻ con, do vậy mặc dầu đã có đủ số con theo ý
muốn nhưng họ vẫn đẻ con thứ ba trở lên. Do đó, c ần đào tạo lại cho nhân viên
y tế cung cấp các dịch vụ DS-KHHGĐ về kiến thức, kỹ năng thực hành và tư
vấn trước, trong, sau khi cung cấp dịch vụ DS-KHHGĐ cho khách hàng để
tăng hiệu quả sử dụng c ủa các BP TT.
Năm 2011, Nguyễn Thế Hùng đã nghiên c ứu thực trạng sinh con thứ 3 và

các yếu tố liên quan của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại huyện Triệu
Phong, Quảng Trị cho rằng các bà mẹ không sinh con thứ 3 trở lên có sự hiểu
biết về BP TTHĐ cao hơn số bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên. Tỷ lệ những bà mẹ
sinh con thứ 3 trở lên có thời gian sử dụng BP TTHĐ không liên tục cao hơn
những bà mẹ không sinh con thứ 3 trở lên. Tác giả cũng chỉ ra rằng sử dụng BP
TTHĐ làm giảm nguy cơ sinh con thứ 3 trở lên [18].
Bên cạnh đó những người phụ nữ có khả năng tiếp cận dịch vụ DS –
KHHGĐ một cách dễ dàng thể hiện vai trò tự quyết định trong việc sinh con
thứ 3 trở lên cao hơn so với những người vợ khó tiếp cận các dịch vụ này.
Nhiều nghiên cứu đã cho r ằng mức hiểu biết biện pháp tránh thai của người
phụ nữ càng thấp thì tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên càng cao. Tuy nhiên những
nghiên cứu này lại chưa đƣa ra được chất lượng của dịch vụ cũng như thái độ
của cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ ảnh hương như thế nào đến tỷ lệ sinh con
thứ 3 trở lên[5], [1], [4],[47].
Tuy nhiên hiện nay việc cung cấp các dịch vụ DS-KHHGĐ không phải
là miễn phí vì vậy sẽ khó khăn trong việc sử dụng các BP TTHĐ nhất là những
vùng kinh tế còn khó khăn, người dân nghèo không đủ tiền mua dịch vụ và thói
quen của người sử dụng luôn được miễn phí hoàn toàn. Bên c ạnh đó các BP
TTHĐ dành cho nam giới tỷ lệ sử dụng còn rất thấp [11]. Hiện nay vẫn còn
nhiều nam giới không muốn sử dụng các biện pháp tránh thai, không tạo điều
kiện cho người vợ sử dụng các biện pháp tránh thai [50]. Nhiều phụ nữ rơi vào
tình trạng bị bạo lực gia đình, cƣỡng bức… và hậu quả của những lần ép buộc


14
tình dục đã làm tăng nguy cơ lây truyền các qua đƣờng tình dục, HIV/AIDS,
mang thai ngoài ý muố n, sẩy thai, đẻ non, thậm chí vô sinh.
1.2.2.5. Yếu tố chính sách DS- KHHGĐ
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ở Châu Á triển khai chương
trình dân số và kế hoạch hóa gia đình.Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04

về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Đồng thời ban hành Pháp lệnh
dân số 2008 sửa đổi điều 10 của Pháp lệnh dân số năm 2003.Quyết định số
2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020[2],[10], [29],
[39],[40].
Nghiên cứu Nguyễn Hải (năm 2006) đã chỉ ra rằng có 14,7% người chồng
và 19,9% người vợ sinh con thứ 3 trở lên là do chính phủ ban hành Pháp lệnh
dân số . Có một số cặp vợ chồng hiểu sai hoặc cố tình không hiểu về Pháp
lệnh dân số , những gia đình có vợ hoặc chồng có sinh con thứ 3 là đảng viên
chiếm tỷ lệ cao [17],[26].
Theo thống kê của Tổ ng cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình đầu năm
2008, đối tượng sinh con thứ 3 không chỉ dừng lại ở những hộ nông dân mà
gần đây lại có xu hướng xuất hiện ở đối tượng Đảng viên, công chức nhà nước,
những gia đình khá giả [4].
Mặc dù chính sách DS-KHHGĐ hiện nay hướng đến mỗi cặp vợ chồng nên
sinh đủ 2 con, nhưng người nông dân hiện nay lại quan niệm quy định đó chỉ áp
dụng cho cán bộ, đảng viên còn người nông dân thì có quyền sinh con theo ý
muốn. Việc cấm thông báo giới tính khi sinh được ban hành một cách chặt chẽ,
tuy nhiên tại các phòng khám, viện người ta vẫn dùng những thuật ngữ “giống
bố” hay “tiểu ngồi”, “tiểu đứng” để mục đích thông báo giới tính [19].
Tỉnh Thừa Thiên Huế bàn hành quyết định số 28/QĐ-UBND ngày 30/5/2014
của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế Ban hành Quy định một số chính sách về
Dân số và kế hoạch hoá gia đình. Quy định một số chính sách và biện pháp tổ
chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh [38]. Tuy nhiên theo
quy định này những trường hợp sinh con thứ 3 sẽ giao cho cơ quan, đơn vị,


15
làng, xã tự xây dựng quy ƣớc, hương ƣớc về hình thức xử lý. Nên đã có nhiều
cán bộ, đảng viên đã cố tình vi phạm vì hình thức kỷ luật chỉ là không khen

thưởng hoặc không đề bạt.
1.3. Tình hình sinh con thứ 3 trở lên tại huyện Mỹ Đức
1.3.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
Mỹ Đức là huyện nằm ở tận cùng phía Tây Nam của tỉnh Hà Tây, kể từ
ngày 1/8/2008, là huyện của thành phố Hà Nội. Phía Bắc giáp huyện Chương
Mỹ. Phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. Phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình. Phía Đông giáp
huyện Ứng Hoà.
Đây là một huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm ở phía nam của đồng bằng
Bắc Bộ. phía nam là vùng núi đá vôi hang động Karst, có khu thắng cảnh chùa
Hương. Huyện còn có hồ nước lớn là hồ Quan Sơn, nằm trên địa phận xã Hợp
Tiến. Ở rìa phía đông có sông Đáy chảy theo hướng từ Bắc xuống Nam sang
tỉnh Hà Nam.
Diện tích tự nhiên của huyện Mỹ Đức là 226,913 km² và dân số là 177.020
người.
1.3.2. Tình hình thực hiện công tác DS-KHHGĐ huyện Mỹ Đức năm 2018


16
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các bà mẹ ở độ tuổi từ 15- 49 tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội.
* Tiêu chí lựa chọn
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 03/2019 đến tháng 10/2019.
- Địa điểm: huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu áp dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

2.2.2.1. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu cho điều tra:
p.(1-p)
n =

Z21-α/2
d2

Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu
Z1-α/2: với α = 0,05 thì Z1-α/2 = 1,96.
p: Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 tại huyện Mỹ Đức năm 2018 với p = 11,23% [1]
d: Sai số cho phép = 0,01
Áp dụng công thức ta có:
Vậy cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu này là 1976 đối tượng
nghiên cứu, lấy tròn 1980.


17
2.2.2.2. Phương pháp chon mẫu
Địa bàn huyện có 22 xã thị trấn, tổng số 1980 đối tượng nghiên cứu được
lấy với số lượng như nhau ở 22 xã. Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 90 đối tượng đủ
điều kiện tham gia nghiên cứu.
90 đối tượng của từng xã được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên đơn dựa vào danh sách bà mẹ được cung cấp bởi phòng Dân số.
2.3. Biến số nghiên cứu

Phân loại

TT


Biến số

Định nghĩa biến

Chỉ số

biến

Thu
thập

A. Thông tin chung
1

Tuổi

Tuổi

của

đối

tượng Biế

liên
Tỷ lệ % đối

được phỏ ng vấn tính theo n


tượng phân

năm dương lịch vào thời tục

theo tuổi

điểm nghiên cứu.
2

Trình độ học vấn

Phỏng vấn

Trình độ học vấn cao nhất Biế
của đối tượng phỏng vấn.

thứ Tỷ lệ % đối Phỏng vấn

n

tượng phân

bậc

theo học
vấn

3

Đảng viên


Đối tượng hoặc chồng là Biến
Đảng viên

nhị

hay không phân

trước thời điểm sinh con
4

Nghề nghiệp

thứ 3
Công việc mang lại thu Biến định
nhập chính
tượng

phỏng

cho
vấn

đối danh
thời

Dân tộc

Phỏng vấn


tượng là
đảng viên
Tỷ lệ % đối

Phỏng vấn

tượng phân
theo nghề

điểm trước khi sinh con
5

Tỷ lệ % đối

nghiệp
thứ 3.
Dân tộc của đối tượng Biến định Tỷ lệ % đối Phỏng vấn
phỏng vấn.

danh

tượng phân
theo dân


18
tộc



×