Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho
Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội



Mục lục
Bảng các từ viết tắt.................................................................................................................... 4
Lời cảm ơn.................................................................................................................................. 5
Đối tượng của Bộ Công cụ........................................................................................................ 6
Bối cảnh chung cho Phương thức Tiếp cận về Kiểm toán Xã hội ở Việt Nam.................... 6
Bố cục của Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội............................................................................... 10
Phần 1: Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội........................................... 11
1.1 Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội với Phương thức tiếp cận
Dựa trên Quyền Con người............................................................................................... 17
1.2 Những Đặc điểm chung của các Công cụ Kiểm toán Xã hội.................................... 20
1.3 Tổng quan về các Công cụ được đề xuất cho Việt Nam........................................... 24
Thẻ báo cáo công dân (CRC)........................................................................................ 25
Thẻ cho điểm Cộng đồng (CSC)................................................................................... 27
Kiểm toán Giới............................................................................................................... 29
Kiểm toán Xã hội dựa trên Quyền của Trẻ em (CRBSA).............................................. 31
Khảo sát Theo dõi Chi tiêu công (PETS)....................................................................... 33
1.4 Sử dụng các Công cụ Kiểm toán Xã hội (ví dụ từ các hoạt động thí điểm ở
Việt Nam và ở các nước khác).......................................................................................... 34
Phần 2: Theo dõi và Đánh giá các Khía cạnh Xã hội của Kế hoạch Phát triển
Kinh tế - Xã hội (KH PTKT-XH) giai đoạn 2006-2010 và giai đoạn 2011-2015....................... 43
2.1 Các khía cạnh xã hội của KH PTKT-XH....................................................................... 44
2.2 Các vấn đề về Giám sát Lĩnh vực Xã hội của KH PTKT-XH
giai đoạn 2006-2010............................................................................................................ 45
2.3 Cải thiện việc Theo dõi Lĩnh vực Xã hội trong KH PTKT-XH


giai đoạn 2011-2015........................................................................................................... 48
Các Chỉ số Phổ biến cho phép Sử dụng các Công cụ Kiểm toán Xã hội để
theo dõi tiến độ thực hiện KH PTKT-XH........................................................................ 51
Các Vấn đề Xã hội chủ yếu trong KH PTKT-XH giai đoạn 2011-2015.......................... 52
Y tế................................................................................................................................ 56
Bảo trợ Xã hội............................................................................................................... 58
Các Vấn đề Dân tộc Thiểu số........................................................................................ 62
Giới và Thanh niên........................................................................................................ 64
Phần 3:Thể chế hóa Cách tiếp cận Kiểm toán Xã hội cho công tác Theo dõi
và Đánh giá trong bối cảnh Việt Nam....................................................................................... 65
Phụ lục A: Các định nghĩa và khái niệm liên quan tới Công cụ Kiểm toán xã hội và
các phương pháp có sự tham gia phục vụ cho công tác lập kế hoạch,
theo dõi và đánh giá........................................................................................................... 86
Phụ lục B: Các nguồn thông tin tham khảo thêm............................................................ 94
Phụ lục C: Tài liệu tham khảo............................................................................................ 98

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

3


Bảng các
từ viết tắt

4

ADB

Ngân hàng Phát triển Châu Á


CEDAW


Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ

CRBSA

Kiểm toán Xã hội dựa trên Quyền Trẻ em

CRC

Thẻ báo cáo dân

CSC

Thẻ cho điểm Cộng đồng

CSO

Tổ chức xã hội dân sự

FGD

Thảo luận nhóm trọng tâm

GA

Kiểm toán giới


INGO

Tổ chức phi chính phủ quốc tế

KH&ĐT

Kế hoạch và Đầu tư

KH PTKTXH

Kế hoạch Phát triển Kinh tế-xã hội

LĐ, TB&XH

Lao động, Thương binh và Xã hội

MDGs

Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ

NGO

Tổ chức phi chính phủ

ODI

Viện Phát triển Hải ngoại

QLKTTW


Quản lý kinh tế trung ương

PETS

Khảo sát Theo dõi Chi tiêu công

TD-ĐG

Theo dõi - Đánh giá

Tp HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UNDP

Chương trình phát triển Liên hợp quốc

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Bộ công cụ này được xây dựng trong một giai đoạn gần ba năm (2010-2012)
theo khuôn khổ của Dự án về Xây dựng Năng lực Kiểm toán xã hội cho Kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội giữa UNICEF và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tiến trình xây
dựng Bộ công cụ này đã đón nhận được rất nhiều sự trợ giúp trực tiếp và gián
tiếp của rất nhiều cá nhân.

Lời cảm ơn

UNICEF và Bộ Kế hoạch và Đầu tư chân thành cảm ơn các chuyên gia tư vấn

và nhân viên của Viện Phát triển Hải ngoại đã xây dựng Bộ công cụ này với sự
tham vấn và nhận xét của rất nhiều cán bộ kỹ thuật và cố vấn từ phía UNICEF
và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Chúng tôi đặc biệt cảm ơn những đóng góp của các cá nhân sau đây đã tham
gia xây dựng Bộ công cụ:
Từ phía Viện Phát triển Hải ngoại: bà Helen Banos-Smith, ông Bernard Gauthier,
bà Katie Heller, bà Louise Mailloux, bà Sue Newport, ông Lance Roberson, ông
Gopakumar Thampi, bà Carol Watson, bà Caroline Harper, bà Nicola Jones, bà
Paola Pereznieto, bà Evie Browne, bà Sylvia Nwamaraihe, ông Thomas Trafalgar
Aston.
Từ phía Bộ KH&ĐT: ông Nguyễn Quang Thắng, ông Nguyễn Tường Sơn, ông Hồ
Minh Chiến, ông Lê Quang Hùng và ông Đặng Văn Nghị.
Từ phía UNICEF: ông Paul Quarles Van Ufford, ông Samman J. Thapa, ông Vũ
Mạnh Hồng, ông Ewout Erik Stoefs, bà Phạm Thị Lan, bà Nguyễn Thị Thanh An
và ông Nguyễn Ngọc Triệu.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

5


Đối tượng
của Bộ
Công cụ

Đối tượng chính của bộ công cụ Kiểm toán xã hội là các nhà ra quyết định và
những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực này. Khi nói tới các nhà ra quyết
định, chúng tôi muốn đề cập đến các cán bộ lãnh đạo ở cấp trung ương và địa
phương (đặc biệt là cấp tỉnh) có liên quan tới công tác lập kế hoạch, theo dõi và
đánh giá các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và kế hoạch ngành. Những người

làm việc trực tiếp ở đây được hiểu là các cán bộ công chức chịu trách nhiệm về
công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch cũng như những cán bộ thuộc các viện
nghiên cứu của Việt Nam mà họ có thể được chính phủ huy động để hỗ trợ triển
khai các công cụ kiểm toán xã hội nhằm đánh giá tiến bộ thực hiện các khía cạnh
xã hội trong công tác giảm nghèo cũng như giảm mức độ dễ bị tổn thương và
chênh lệch ở Việt Nam. Tài liệu này cũng có thể dành cho các cơ quan của Liên
hợp quốc, các Định chế Tài chính Quốc tế (như là Ngân hàng Phát triển Châu Á),
các tổ chức song phương và các tổ chức phi chính phủ đang hỗ trợ và đóng góp
cho những nỗ lực về phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.


Bối cảnh
chung cho
Phương
thức Tiếp
cận về Kiểm
toán Xã hội
ở Việt Nam

Trong 15 năm qua, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã giúp cải thiện đời
sống của hàng triệu người dân Việt Nam và góp phần đưa đất nước đạt được
tốc độ giảm nghèo với những kết quả ấn tượng. Mặc dù Việt Nam đã đạt được
tiến bộ vững chắc hướng tới các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), nhưng
sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ về các mặt của đời sống xã hội cũng vẫn chưa
mang lại lợi ích bình đẳng cho toàn bộ người dân trong xã hội. Trên thực tế,
những khoảng cách chênh lệch về mức sống và một số chỉ số về mặt xã hội có
liên quan vẫn còn tồn tại và thậm chí còn gia tăng ở rất nhiều khía cạnh khác
nhau: chênh lệch giữa nhóm ngũ vị phân giàu nhất và nhóm ngũ vị phân nghèo
nhất; chênh lệch giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số; chênh lệch giữa khu
vực thành thị và nông thôn; miền đồng bằng và miền núi; và chênh lệch giữa các

nhóm tuổi khác nhau – đồng thời tỉ lệ nghèo ở trẻ em cao hơn so với tỉ lệ nghèo
tính theo cấp độ hộ gia đình.1
Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội (KH PTKT-XH) là lộ trình của Chính phủ Việt
Nam nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng, giảm nghèo và công bằng xã hội.
Các bản KH PTKT-XH 5 năm vạch ra các mục tiêu và hoạt động nhằm thực hiện
xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, bồi dưỡng thế hệ trẻ, xây dựng hệ thống
an sinh xã hội, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội. Trong cả hai giai đoạn
2006-2010 và 2011-2015, các vấn đề xã hội đã đóng vai trò then chốt trong quá
trình phát triển kinh tế-xã hội tổng thể của Việt Nam và do vậy Chính phủ đã đưa
ra một khung chính sách bao trùm nhằm đo lường tiến bộ đạt được trong việc
giảm nghèo và tăng cường công bằng xã hội.
Phương thức Tiếp cận Kiểm toán Xã hội đặc biệt phù hợp trong bối cảnh chính
sách ở Việt Nam, nơi đang diễn ra công cuộc “Đổi Mới” 2 nhằm tạo ra một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều cơ hội nhưng cũng
lắm những thách thức về chính sách xã hội. Các cuộc thảo luận chính sách đã
nêu bật sự cần thiết phải nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch đồng
thời chính phủ cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường sự
tham gia của người dân trong công tác Theo dõi và Đánh giá (TD&ĐG) nhằm đạt
được mục tiêu này. Những quyết định gần đây về đổi mới công tác Lập Kế hoạch,
TD&ĐG Kế hoạch trong giai đoạn 2011-2015 đã phản ánh những ưu tiên này.3
1 UNICEF, Phân tích về hoàn cảnh của trẻ em Việt Nam năm 2010.
2 Cải cách
3 Liên hợp quốc tại Việt Nam (2010) Phân tích Tổng hợp của Liên hợp quốc về Tình hình Phát
triển của Việt Nam và các Thách thức trong Trung hạn trong quá trình Lập Kế hoạch Một Liên
hợp quốc cho giai đoạn 2012-2016), Phiên bản Dự thảo đề ngày 25 tháng 8 năm 2012. Ở giai
đoạn này thì hầu hết những quyết định này là ở cấp tỉnh.

6

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội



Việc chú trọng nhiều hơn tới những kết quả về mặt xã hội trong khung TD&ĐG
Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2006-2010 đã đặt ra thách thức
trong việc xây dựng các chỉ số mới nhằm đo lường tiến bộ thực hiện các kết quả
đó. Nếu không cân nhắc một cách kỹ lưỡng, thì việc theo dõi hiện nay và trong
tương lai có thể chỉ tập trung vào các chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu về cơ sở hạ
tầng trong KH PTKT-XH chứ không chú trọng tới tác động của việc thực hiện Kế
hoạch đối với đời sống của người dân Việt Nam, kể cả nam giới và phụ nữ, trẻ
em gái và trẻ em trai – đây là một yếu tố có thể dễ bị bỏ qua nếu chỉ sử dụng các
chỉ số mang tính định lượng và được định nghĩa một cách hạn hẹp. Cuối cùng,
có một vấn đề lớn vượt ra ngoài phạm vi của KH PTKT-XH, đó là sự thiếu hiệu
quả trong công tác điều phối cũng như trong việc sử dụng các dữ liệu và thông
tin được tạo ra bởi các hệ thống TD&ĐG.4
Đồng thời, những công cụ và phương pháp thích hợp để thu thập dữ liệu nhằm
đảm bảo việc cung cấp thông tin cho những chỉ số này còn rất hạn chế. Một vấn
đề quan ngại nữa là chưa có sự quan tâm thích đáng của các bên liên quan
tới việc đánh giá tác động cũng như thu thập và sử dụng dữ liệu/thông tin do
nhận thức và quan điểm của các bên khác nhau – chủ yếu thông qua các cuộc
khảo sát hoặc là các phương pháp nghiên cứu định tính. Ngoài ra, chưa có cơ
chế thích hợp cho sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau trong công tác
TD&ĐG. Tuy nhiên, kinh nghiệm rút ra từ công tác xây dựng chương trình, kế
hoạch và quá trình đánh giá đã chỉ ra rằng, việc khắc phục được những hạn chế
này có thể sẽ giúp nâng cao chất lượng cũng như tính phù hợp của kế hoạch,
đồng thời tăng cường hiệu quả thực hiện kế hoạch.5 Rõ ràng là những vấn đề
này đặc biệt liên quan tới việc theo dõi và đánh giá các khía cạnh về mặt xã hội
của KH PTKT-XH.
Nhìn chung, các bên đều thừa nhận rằng cần phải tăng cường nỗ lực nhằm làm
cho công tác TD&ĐG KH PTKT-XH giai đoạn 2011-2015 trở nên toàn diện hơn,
có sự tham gia của cộng đồng nhiều hơn và phù hợp hơn với chính sách. Một

vấn đề then chốt hiện nay là làm sao để tạo ra được thông tin bổ sung cho những
thông tin hiện theo hướng hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng, với mục
tiêu cải thiện kết quả cho tất cả các thành phần dân chúng trong xã hội, cùng với
việc kế thừa những nỗ lực đã thực hiện trong quá trình xây dựng các kết quả và
chỉ số về kinh tế-xã hội trong giai đoạn 2006-2010.
Phương thức Tiếp cận Kiểm toán Xã hội đưa ra các công cụ, chỉ số và phương
pháp mang tính bổ sung cho khung TD&ĐG hiệu quả thực hiện KH PTKT-XH
hiện có, từ đó cải thiện chất lượng và các cách làm có liên quan. Phương thức
tiếp cận này sử dụng các phương pháp thu thập dữ liệu định lượng và định
tính có sự tham gia và dựa trên bằng chứng. Phương pháp có thể đáp ứng tốt
hơn những nhu cầu và nguyện vọng thực tế của người dân Việt Nam, bởi vì nó
giúp thu hút sự tham gia của người dân trong việc đánh giá chất lượng của các
chương trình và dịch vụ cũng như đánh giá xem các chương trình và dịch vụ đó
có hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu của chính bản thân họ hay không. Đồng
thời, nó cũng có thể giúp xác định các phương thức tiếp cận trong xây dựng
chương trình và phân bổ ngân sách nhằm giảm bớt những chênh lệch, thu hẹp
khoảng cách cho những người dân đang phải đương đầu với những thách thức
liên quan tới nguồn gốc dân tộc, địa lý, khả năng về thể chất, độ tuổi và giới.
4 Bộ KH&ĐT và UNICEF (2009).Dự án Xây dựng Năng lực Kiểm toán Xã hội phục vụ KH
PTKT-XH, Bản Dự thảo Ý tưởng cho Hội thảo Khởi động Dự án Kiểm toán Xã hội.
5 Hành động vì Sự Tiến bộ Xã hội, 2005: Chamber và các tác giả khác 2003; Paul, 2002;Estrella
và các tác giả khác, 2000; Thực hiện Sự Giám sát của Người dân (Citizen Monitoring in Action),
IIED, 1998; Toledano và các tác giả khác, 2002. Ngân hàng Thế giới xuất bản tài liệu kĩ thuật
đầu tiên về TD&ĐG Kế hoạch vào năm 1993 (Narayan, 1993).

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

7



Phương thức này cũng có thể làm tăng cường sự minh bạch của Chính phủ, tăng
cường sự tham gia và trách nhiệm giải trình.
Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội phục vụ KH PTKT-XH đưa ra những hướng dẫn
kĩ thuật nhằm đạt được mục tiêu đồng thời đề xuất các bước có thể thực hiện
giúp thể chế hóa việc sử dụng rộng rãi bộ công cụ này ở Việt Nam. Bộ công cụ
này là một trong những sản phẩm của sự nỗ lực do Bộ KH&ĐT đề xướng và chủ
trì thực hiện với sự hỗ trợ của UNICEF bắt đầu năm 2009 và hiện đang tiếp tục
thực hiện ở giai đoạn 2. Sáng kiến này được thiết kế nhằm trình diễn tiềm năng
của Phương thức Tiếp cận Kiểm toán Xã hội, với mục tiêu bổ sung cho những
cơ chế hiện có cho công tác lập, thực hiện, theo dõi và đánh giá KH PTKT-XH ở
Việt Nam. Bộ công cụ này tập trung vào các khía cạnh xã hội của KH PTKT-XH,
chẳng hạn như giáo dục, y tế và an sinh xã hội.
Trong giai đoạn đầu tiên của sáng kiến này, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
(Viện QLKTTW) thuộc Bộ KH&ĐT đã triển khai thí điểm 4 công cụ kiểm toán
xã hội6 với sự hỗ trợ kĩ thuật của ODI, đồng thời xây dựng một cuốn cẩm nang
hướng dẫn thực hiện cho mỗi công cụ phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Do
các vấn đề xã hội trong KH PTKT-XH có tầm ảnh hưởng rộng và các mục tiêu
tổng thể cũng như mục tiêu cụ thể trong mỗi vấn đề xã hội lại khác nhau, nên các
hoạt động thí điểm ban đầu tập trung vào 3 khía cạnh chính: một vấn đề chuyên
môn – sức khỏe bà mẹ và trẻ em; một vấn đề liên ngành– bình đẳng giới, và một
vấn đề đa chiều – nghèo đói. Từ lựa chọn tổng thể này, các tỉnh đã được tham
vấn để xác định các chính sách, chương trình phù hợp và cụ thể để thí điểm các
công cụ kiểm toán xã hội. Bốn tỉnh đã được lựa chọn, gồm Điện Biên, Quảng
Nam, Trà Vinh và Thành phố Hồ Chí Minh (Tp HCM). Viện QLKTTW đã hoàn
thiện báo cáo về kết quả thực hiện của mỗi hoạt động kiểm toán xã hội thí điểm
này, sau đó gộp lại thành một báo cáo tổng hợp chung.
Cùng với việc thí điểm bốn công cụ kiểm toán xã hội nhằm thúc đẩy việc điều
chỉnh các công cụ đó cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, Viện QLKTTW
cũng đã thực hiện một đánh giá về năng lực sử dụng các phương pháp có sự
tham gia của chính quyền ở cấp trung ương và địa phương trong toàn bộ chu

trình chính sách, từ giai đoạn lập kế hoạch cho tới giai đoạn TD&ĐG. Những phát
hiện của đánh giá năng lực này được sử dụng để xác định các bước cần thực
hiện, nhằm thể chế hóa Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội với mục tiêu cải
thiện công tác TD&ĐG KH PTKT-XH.
Trong giai đoạn hai của sáng kiến này, Bộ KH&ĐT và UNICEF đã tổ chức tập
huấn cho cán bộ thuộc các Bộ và Sở ban ngành khác nhau, nội dung tập trung
vào các vấn đề về phát triển xã hội, đồng thời cũng tập huấn cho chuyên gia
của các viện nghiên cứu được lựa chọn của Việt Nam về cách thức triển khai
các công cụ kiểm toán xã hội thông qua một chuỗi các hội thảo tập huấn do các
chuyên gia của ODI giảng vào năm 2011 và 2012. Những đợt tập huấn này đã
tạo ra cơ hội hiếm thấy cho các cán bộ chính quyền và các cán bộ thuộc các viện
nghiên cứu cùng nhau chia sẻ và cùng nhau học cách sử dụng những công cụ
này. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để các cán bộ chính quyền cấp trung ương
và cấp tỉnh làm quen với các chuyên gia thuộc các viện nghiên cứu chủ chốt mà
họ có thể được huy động để thay mặt Chính phủ triển khai các công cụ kiểm toán
xã hội. Ngoài những đợt tập huấn này, đã có hai cuộc Khảo sát Theo dõi Chi tiêu
công (PETS) được thí điểm: một ở tỉnh Điện Biên trong lĩnh vực giáo dục và một
ở Tp HCM về một chương trình trợ giúp xã hội.

6 Khảo sát Ý kiến Người dân (CRC), Thẻ điểm Cộng đồng (CSC), Kiểm toán Giới và Khảo sát
Theo dõi Chi tiêu công (PETS).

8

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Bởi vì các công cụ kiểm toán xã hội được thí điểm ở Việt Nam trong giai đoạn 1
chưa lấy trẻ em làm trọng tâm cũng như chưa đề cập đến các quan điểm của trẻ
em về các vấn đề then chốt, bao gồm dịch vụ y tế, giáo dục và bình đẳng giới đã

không được khai thác trong quá trình áp dụng các công cụ này, nên một công cụ
kiểm toán xã hội đặc biệt đã được xây dựng nhằm khắc phục thiếu hụt trên trong
khuôn khổ hỗ trợ giai đoạn hai. Các cán bộ chính quyền và đại diện của các viện
nghiên cứu đã có cơ hội đóng góp ý kiến về Công cụ Kiểm toán Xã hội dựa trên
Quyền Trẻ em mới được xây dựng, thông qua các cuộc hội thảo tham vấn ở cấp
quốc gia và cấp địa phương.
Một trong những phát hiện và các bài học kinh nghiệm chính rút ra từ giai đoạn 1
là tất cả các công cụ đã thí điểm đều cho thấy tiềm năng rất lớn để có thể sử dụng
chúng làm phương tiện bổ sung cho việc đánh giá hiệu quả về mặt xã hội của KH
PTKT-XH dựa trên quan điểm của các đối tượng mục tiêu mà các chương trình
hướng tới, cũng như quan điểm của các cán bộ chính quyền chịu trách nhiệm
lập kế hoạch và đánh giá hiệu quả của chương trình. Mặt tích cực của việc áp
dụng các công cụ đã được khẳng định bởi các lãnh đạo chủ chốt cấp trung ương
và cấp tỉnh tại một hội thảo gần đây về các cơ hội và thách thức trong quá trình
cải cách công tác TD&ĐG KH PTKT-XH. Các nhà lãnh đạo đã kết luận rằng các
công cụ kiểm toán xã hội là những công cụ hữu hiệu giúp thu thập ý kiến phản
hồi của người dân cũng như đánh giá của họ về hiệu quả hoạt động của các cơ
quan cung cấp dịch vụ, và như vậy chúng có thể đóng vai trò là một phương pháp
hiệu quả giúp đo lường tác động của KH PTKT-XH có sự tham gia một cách toàn
diện hơn. Việc đưa vào áp dụng Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội đã được
coi là một quy trình nhằm tìm hiểu quan điểm của nhóm người nghèo, dễ bị tổn
thương và nhóm người yếu thế nhằm giúp xây dựng các chính sách và chương
trình phù hợp hơn.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

9


Bố cục của

Bộ Công cụ
Kiểm toán
Xã hội

10



Bộ công cụ này được bố cục như sau: Bối cảnh chung và Khung
Phân tích Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội: Phần 1 nêu tổng
quan về khung phân tích và các khái niệm chính có liên quan tới
Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội, đặc biệt là phương thức tiếp
cận dựa trên quyền con người (HRBA). Phần này cũng bao gồm các
ví dụ về cách thức mà 5 công cụ kiểm toán xã hội được sử dụng ở
Việt Nam và các nước khác.



Các Lĩnh vực Xã hội có thể được theo dõi và đánh giá trong KH
PTKT-XH: Phần 2 mô tả 5 công cụ kiểm toán xã hội, trong đó nêu
cụ thể về cách thức mà mỗi công cụ này có thể tạo giá trị bổ sung
cho công tác TD&ĐG KH PTKT-XH – đặc biệt là thông qua khung
TD&ĐG - ở các chỉ số xã hội chính, bao gồm y tế, giáo dục và an sinh
xã hội, trong đó chú trọng tới các nhóm xã hội như là người dân tộc
thiểu số, trẻ em và phụ nữ. Phần này cũng đưa ra những chỉ số có
thể sử dụng đo lường cho mỗi lĩnh vực xã hội và cách thức mà các
công cụ kiểm toán xã hội có thể được sử dụng hỗ trợ cho công tác
TD&ĐG.




Thể chế hóa: Phần 3 đưa ra những vấn đề chính cần cân nhắc nhằm
thể chế hóa Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội trong bối cảnh
của Việt Nam, trên cơ sở sử dụng đánh giá thể chế được thực hiện
trong giai đoạn 1 để làm cơ sở xác định cách thức tốt nhất để lồng
ghép các công cụ kiểm toán xã hội vào khung TD&ĐG KH PTKT-XH.



Tài liệu tham khảo: Phụ lục A Bảng chú giải về các công cụ kiểm
toán và các phương pháp có sự tham gia cho công tác TD&ĐG KH
PTKT-XH: Một bảng chú giải về các công cụ và phương pháp có sự
tham gia mà các cơ quan chính quyền có thể lựa chọn nhằm thu hút
sự tham gia của người dân, trên cơ sở tính đến bối cảnh cụ thể, nhu
cầu thông tin, chính sách, khả năng ngân sách và giai đoạn thực hiện
chính sách.



Các Nguồn tư liệu hữu ích khác: Phụ lục B đưa ra một danh sách
gồm các nguồn tư liệu khác cho những cán bộ trực tiếp thực hành
các phương pháp kiểm toán xã hội, cũng như trình bày các nghiên
cứu điển hình từ ngoài nước .



Phụ lục C: là một danh sách các tài liệu tham khảo sử dụng để xây
dựng bộ công cụ này.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội



phần 1
Tổng quan
về Phương
thức tiếp
cận Kiểm
toán Xã hội
Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

11


Phần 1

Tổng quan
về Phương
thức tiếp cận
Kiểm toán Xã
hội

Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội là “một loạt các công cụ và kĩ thuật được
sử dụng nhằm đánh giá, tìm hiểu, báo cáo nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động
về lĩnh vực xã hội của một tổ chức, kế hoạch hoặc chính sách”. Nói cách khác,
Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội giúp các tổ chức và chính phủ “giải trình
một cách đầy đủ về những tác động lên lĩnh vực xã hội, môi trường và kinh tế
và báo cáo về hiệu quả hoạt động, thu thập những thông tin cần thiết để lên kế
hoạch thực hiện các hành động trong tương lai nhằm cải thiện hiệu quả hoạt

động, đồng thời thiết lập các kênh để thực hiện trách nhiệm giải trình trước các
bên liên quan chính”.7 Các công cụ của Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội
có sự khác biệt so với các phương pháp thu thập thông tin truyền thống, chẳng
hạn như điều tra hộ gia đình, bởi vì những công cụ kiểm toán xã hội này đưa ra
đánh giá định tính về các dịch vụ và chương trình bắt nguồn từ quan điểm của
nhiều bên liên quan khác nhau, bao gồm những người sử dụng và các đối tượng
hưởng lợi trực tiếp. Các công cụ này tạo cơ hội để người dân đóng góp ý kiến
về mức độ hiệu quả trong cung cấp dịch vụ, nêu những yếu tố làm hạn chế mức
độ sử dụng dịch vụ, sự thỏa mãn của người sử dụng, các vấn đề về tham nhũng,
mức độ nhạy bén cũng như mức độ sẵn sàng tiếp thu ý kiến của cơ quan cung
cấp dịch vụ và cán bộ chính quyền – vốn là các khía cạnh thường bị bỏ sót trong
khung TD&ĐG KH PTKT-XH hiện hành. Các công cụ này cũng được thiết kế
nhằm tăng cường đối thoại giữa người sử dụng với các cơ quan cung cấp dịch
vụ và chính quyền; chúng bao hàm những cơ chế để lấy ý kiến phản hồi tức thời
và chế độ báo cáo, tạo điều kiện để người dân ở tất cả các cấp và cộng đồng có
thể vận động để thực hiện thay đổi và theo dõi sự tiến bộ theo thời gian.
Trong bối cảnh KH PTKT-XH của Việt Nam, các công cụ kiểm toán xã hội có
thể tạo ra những dữ liệu bổ trợ cho dữ liệu hành chính được thu thập một cách
thường kỳ và dữ liệu từ khảo sát hộ gia đình bằng những đánh giá định tính của
cơ quan cung cấp dịch vụ và của người sử dụng về chất lượng dịch vụ, về mức
độ mà các chính sách được thực hiện – hoặc không được thực hiện, hoặc được
thực hiện hiệu quả đến mức nào – và đánh giá mức độ tác động của chúng . Với
những dữ liệu định tính và định lượng được tạo ra có thể giúp tăng cường công
tác TD&ĐG kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dẫn tới cải thiện công tác lập
ngân sách và thực hiện KH PTKT-XH, từ đó giúp cho các KH PTKT-XH (cấp quốc
gia và cấp tỉnh) trở nên nhạy bén hơn trong việc đáp ứng nhu cầu và nguyện
vọng của người dân.

Một loạt các công
cụ và kĩ thuật được

sử dụng nhằm đánh
giá, tìm hiểu, báo
cáo nhằm cải thiện
hiệu quả hoạt động
về lĩnh vực xã hội
của một tổ chức, kế
hoạch hoặc chính
sách

Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đổi mới quy trình kế hoạch hóa (tức quy
trình xây dựng, TD&ĐG kế hoạch) với mục tiêu hướng tới thực hiện phát triển
bền vững hơn và dựa vào kết quả hơn trong bối cảnh đất nước đang quá độ
sang nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Điều
này đặt ra những cơ hội và thách thức trong khuôn khổ các nỗ lực nhằm bảo vệ,
thúc đẩy và nâng cao các quyền của trẻ em, phụ nữ và của người dân tộc thiểu
số với mục tiêu đảm bảo rằng tất cả mọi công dân Việt Nam đều có cơ hội được
sống, phát triển và phát huy tối đa tiềm năng của mình và đóng góp cho công
cuộc phát triển của cả nước. Cũng như ở các nước khác, việc chuyển dịch sang
nền kinh tế toàn cầu hóa bên cạnh những thuận lợi cũng đã đưa lại những hậu
quả và khó khăn không lường trước được, bao gồm việc gia tăng chênh lệch và
rủi ro cao hơn cho một số nhóm dân cư bị tụt hậu. Trong bối cảnh ngân sách hạn
hẹp hiện nay cũng như trong bối cảnh của các cuộc cải cách cơ cấu tổng thể
nhằm kích thích và thúc đẩy nền kinh tế thị trường, cần tăng cường các nỗ lực
nhằm đảm bảo rằng những người dân có hoàn cảnh đặc biệt dễ bị tổn thương
hoặc tiềm ẩn khả năng bị tổn thương được nói lên tiếng nói của mình, hoàn cảnh
của họ cần được nhận biết và khắc phục thông qua các biện pháp cụ thể được
7 Tổ chức Phát triển của Hà Lan (Netherlands Development Organisation (2004), Kiểm toán
Xã hội – công cụ kiểm soát thông tin phản hồi cho các tổ chức: />social2.htm

12


Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phần 1

đề ra trong các kế hoạch và chính sách, và đảm bảo rằng những biện pháp đó
được thực hiện một cách hiệu quả cả ở cấp vĩ mô lẫn ở cấp cộng đồng.
Với tư cách là một công cụ quản lý hữu dụng phù hợp với các nguyên tắc về
quản trị tốt, Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội không chỉ nhằm mục tiêu làm
rõ quy chuẩn về cách làm “tốt” (tức là nên làm mọi thứ như thế nào) mà còn nhằm
cung cấp những thông tin cần thiết và ý kiến phản hồi về “tình hình thực hiện thực
tế” để cải thiện việc ra quyết định về quản lý, cải thiện việc phân bổ ngân sách
và cung cấp dịch vụ nói chung. Hiệu quả thực hiện về mặt xã hội có thể được đo
lường và cải thiện thông qua một số cách thức như sau:



Phân tích mức độ chú trọng tới các vấn đề về xã hội trong các
kế hoạch và chính sách (các vấn đề về xã hội có được nhận
biết không?);



Phân tích mức độ mà sự chú trọng đó được chuyển thành
hành động, bao gồm phạm vi và chất lượng của các chỉ
số nhằm đo lường tiến bộ trong những lĩnh vực ưu tiên đã
được tuyên bố (các vấn đề về mặt xã hội có được giải quyết

không?);



Đánh giá tác động về mặt xã hội của các kế hoạch và chính
sách (chúng ta có đang làm giảm bất bình đẳng về xã hội
không?); và



Tạo ra thông tin thông qua các phương pháp có sự tham gia
mà có khả năng bổ sung cho những thông tin hiện có (quan
điểm của người sử dụng và các đối tượng hưởng lợi về vấn đề
này là gì?

Như đã đề cập trong phần giới thiệu, các công cụ kiểm toán xã hội có thể tìm hiểu
ba giai đoạn then chốt của KH PTKT-XH nhằm đưa ra một đánh giá toàn diện về
hiệu quả thực hiện khía cạnh xã hội: đó là giai đoạn lập kế hoạch, thực hiện kế
hoạch, TD&ĐG kế hoạch. Tuy nhiên, về bản chất thì các công cụ này được thiết
kế cho giai đoạn TD&ĐG. Chẳng hạn như, những phát hiện từ những công cụ
này có thể cung cấp thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách cho tương
lai, đưa ra những cải thiện trong quá trình thực hiện hoặc đưa ra đánh giá tóm tắt
về tiến bộ đạt được vào cuối kỳ KH PTKT-XH.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

13


Phần 1


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Hình 1: Việc sử dụng Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội ở các
giai đoạn then chốt của KH PTKT-XH 8

Thiết kế và xây dựng
chính sách trong KH
PTKT-XH:

Các công cụ kiểm toán xã hội có thể giúp tăng cường thiết kế chính sách: KH
PTKT-XH hiểu rõ và giải quyết các vấn đề về xã hội hiệu quả tới mức nào, xét về
mặt chính sách và các ưu tiên ngân sách, và các ưu tiên đó được chuyển từ KH
PTKT-XH 5 năm sang kế hoạch hàng năm như thế nào. Chẳng hạn, các công cụ
kiểm toán xã hội có thể xem xét vấn đề công bằng trong quá trình phân bổ nguồn
lực và dịch vụ theo địa bàn và bình đẳng giữa các nhóm thu nhập, cũng như xem
xét mức độ biến thiên giữa các vùng địa lý, các tỉnh và các huyện.
Công cụ Kiểm toán Giới và Kiểm toán Xã hội dựa vào Quyền Trẻ em (CRBSA)
đặc biệt phù hợp cho mục đích này. Cả hai công cụ này đều tìm hiểu mức độ
mà các quyền, nhu cầu và mối quan tâm được cân nhắc trong các chính sách,
chương trình và trong chi tiêu của chính phủ xét từ góc độ quyền của trẻ em hoặc
từ lăng kính về giới; xác định những lỗ hổng tiềm ẩn trong các kế hoạch; và nhận
thức được các ưu tiên hành động nhằm cải thiện hiệu quả thực hiện. Chẳng hạn
như, một cuộc kiểm toán giới có thể xác định xem các chính sách và chương
trình về “đào tạo nhằm tăng nguồn cung ứng lao động có kĩ năng cho các ngành
công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao” đã sử dụng lăng kính về giới (và quyền8)
hay chưa nhằm đánh giá khả năng mà các chương trình này sẽ thúc đẩy bình
đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới ở mức độ cao hơn nữa. Trong số các câu hỏi
thường được đưa ra trong một cuộc kiểm toán giới, ta có thể thấy các câu sau:
• Dữ liệu cho các lĩnh vực kinh tế khác nhau có được bóc tách/phân tổ theo

giới hay không? Có sự mất cân đối về số lượng nam giới và nữ giới ở
những lĩnh vực này không, trong đó có tách theo độ tuổi, dân tộc và địa
bàn địa lý?
• Có cần quy định gì đặc biệt không nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận (cơ
hội đào tạo và việc làm) một cách công bằng cũng như đảm bảo lợi ích
cho nữ giới và nam giới ở tất cả các loại công việc (không chỉ những công
việc mà vẫn do nữ giới và nam giới đảm nhận theo truyền thống, mà cả
các công việc ở tất cả các cấp độ, kể các các vị trí quản lý – chứ không
phải chỉ những công việc có mức lương thấp)?
• Chính phủ đã dành ngân sách để khắc phục những vấn đề bất bình đẳng
giới một cách cụ thể hay chưa?
Xem các ví dụ cụ thể về kiểm toán giới ở cuối Phần 1.

8 Quyền được bình đẳng với nam giới và quyền không phải chịu bất cứ hình thức phân biệt đối
xử nào, theo Công ước về Xóa bỏ mọi Hình thức Phân biệt đối xử với Phụ nữ (CEDAW) và
Chiến lược Quốc gia của Việt Nam vì sự Tiến bộ của Phụ nữ.

14

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phần 1

• Kiểm toán Xã hội dựa trên Quyền trẻ em về chất lượng giáo dục cho trẻ
em có thể xem xét nhiều vấn đề khác nhau theo phương thức tiếp cận
dựa trên quyền con người, trong đó bao gồm các vấn đề sau:
• Trẻ em trai và trẻ em gái được trường học và giáo viên tiếp nhận như thế

nào và được chuẩn bị tốt đến mức nào để đáp ứng nhu cầu cũng như
thực hiện các quyền của bản thân;
• Các trường học an toàn đến mức nào với vai trò là nơi để học tập, và các
trường tạo ra một môi trường tổng thể mang tính nhạy cảm giới đến mức
nào để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập;
• Mức độ mà các phương pháp giảng dạy lấy trẻ em làm trung tâm được coi
trọng như một chuẩn mực và phương pháp thực hành tốt;
• Mức độ mà sự tham gia của trẻ em được khuyến khích như một phương
pháp thực hành chuẩn mực về cách tương tác trong lớp học cũng như
trong hoạt động tổng thể và quản lý trường học;
• Việc sử dụng phương pháp sư phạm mang tính thách thức đối với và phá
vỡ sự kỳ thị về giới tính, dân tộc hoặc hoàn cảnh xã hội.
Nguồn: UNICEF (2009) Cẩm nang hướng dẫn: Trường học Thân thiện với
Trẻ em

Thực hiện KH PTKT-XH:

Các công cụ về kiểm toán xã hội có thể được sử dụng riêng hoặc kết hợp với các
công cụ khác nhằm theo dõi xem các chính sách và dịch vụ được thực hiện tốt
đến mức nào. Thẻ cho điểm Cộng đồng, Thẻ Báo cáo công dân và Khảo sát Theo
dõi chi tiêu công tạo cơ hội để người dân có thể đóng góp ý kiến về mức độ hiệu
quả trong cung cấp dịch vụ, nêu những yếu tố làm hạn chế mức độ sử dụng dịch
vụ, sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ, các vấn đề về tham nhũng, mức độ
nhạy bén cũng như mức độ sẵn sàng tiếp thu ý kiến của cơ quan cung cấp dịch
vụ và cán bộ chính quyền – vốn là các khía cạnh thường bị bỏ sót trong khung
TD&ĐG KH PTKT-XH hiện hành. Thẻ Báo cáo Công dân (CRC) và Thẻ cho điểm
Cộng đồng (CSC) là những công cụ được sử dụng một cách đặc biệt phổ biến
nhằm theo dõi tình hình cung cấp dịch vụ.
Chẳng hạn, Thẻ Báo cáo Công dân hoặc Thẻ cho điểm Cộng đồng để đánh giá
chất lượng của các dịch vụ được cung cấp tại cộng đồng có thể tìm hiểu mức độ

thích đáng của dịch vụ xét từ quan điểm của người sử dụng (và của các cơ quan
cung cấp dịch vụ như trong công cụ Thẻ cho điểm Cộng đồng) 9:

• Cơ sở hạ tầng, điều kiện vệ sinh, địa điểm (khả năng tiếp cận), giờ mở cửa,
trang thiết bị, thời gian chờ đợi v.v..
• Số lượng bác sĩ và y tá tại trạm y tế
• Thái độ của các bác sĩ, y tá và các cán bộ hành chính đối với bệnh nhân và
những thông tin được cung cấp (về phí dịch vụ, hồ sơ giấy tờ theo yêu cầu,
hình thức điều trị cần thực hiện, và loại thuốc cần uống)
Xem ví dụ về Thẻ Báo cáo Công dân và Thẻ cho điểm cộng đồng ở cuối
Phần 1

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

15


Phần 1

Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Khảo sát Theo dõi Chi tiêu công (PETS) tìm hiểu mức độ mà kinh phí của
chương trình và các nguồn lực khác được phân bổ cho các nhóm dân số nhất
định (ví dụ kinh phí giáo dục cho người dân tộc thiểu số, cho trẻ em, cho những
người không biết chữ v.v..) hoặc xem xét mức độ mà các hoạt động (như là cung
cấp nước sạch và đảm bảo vệ sinh môi trường, chăm sóc thai sản) đến được với
các đối tượng hưởng lợi mục tiêu theo như kế hoạch, và xem xét xem liệu các
chương trình có được thực hiện với hiệu suất cao hay không nhằm đảm bảo rằng
các kết quả dự kiến được tối đa hóa.
Chẳng hạn, PETS về Chương trình 167, một chương trình về hỗ trợ nhà ở cho

người nghèo, đã tìm hiểu xem liệu rằng:

• Các hộ gia đình cần giúp đỡ nhất có nhận được tiền hỗ trợ để làm nhà hay
không?

• Kinh phí có được chuyển một cách kịp thời, quản lý một cách hiệu quả và phù
hợp (nghĩa là chỉ sử dụng cho các mục đích đã nêu) ở tất cả các cấp từ trung
ương tới cấp xã hay không? Những đối tượng hưởng lợi đủ điều kiện có nhận
được trợ cấp không và tiền có được sử dụng đúng mục đích không (tức dùng
xây dựng cải tạo nhà ở và mua nguyên vật liệu).
Xem ví dụ về PETS ở cuối Phần 1

TD&ĐG KH PTKT-XH:

Về mặt này, các công cụ kiểm toán xã hội có thể giúp đánh giá xem các chính
sách trong lĩnh vực xã hội đã ảnh hưởng tích cực tới các cộng đồng-là nhóm đối
tượng đích đến mức độ nào trong toàn bộ giai đoạn của kế hoạch 5 năm, ví dụ
có thể tập trung đánh giá xem những thách thức đối với cộng đồng đã thay đổi và
được giảm thiểu như thế nào.
Các công cụ kiểm toán xã hội cũng có thể làm rõ những sự khác biệt về lợi ích
đạt được giữa các địa bàn địa lý và các nhóm xã hội. Chẳng hạn, chúng có thể
cho thấy rõ rằng một huyện nhất định hoặc một tiểu nhóm dân số nào đó, chẳng
hạn như phụ nữ hoặc trẻ em của một dân tộc thiểu số cụ thể nào đó có thể không
được hưởng lợi từ chương trình theo như dự kiến. Kiểm toán Giới và Kiểm toán
xã hội dựa vào quyền của Trẻ em có thể đưa ra lăng kính để từ đó ta có thể đánh
giá các chương trình.
Thẻ Báo cáo Công dân và Thẻ cho điểm cộng đồngcó thể được lặp lại với các
khoảng cách thời gian khác nhau trong chu kỳ KH PTKT-XH nhằm đánh giá xem
liệu rằng dịch vụ đã được cải thiện chưa hoặc có cần điều chỉnh gì không.
Kiểm toán Giới có thể giúp đánh giá tiến bộ đạt được trong các chương trình

nhằm giải quyết các vấn đề về bạo lực gia đình, buôn lậu phụ nữ và trẻ em gái,
mại dâm, rồi vấn đề gia tăng HIV/AIDS ở phụ nữ, và vấn đề xâm phạm quyền
sinh sản chẳng hạn.

16

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

1.1 Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội với
Phương thức tiếp cận Dựa trên Quyền Con người

Phần 1

9

Với tư cách là một quy trình, các công cụ kiểm toán xã hội được xây dựng chắc
chắn từ khuôn khổ gồm các giá trị, đạo đức và sự chú trọng tới cộng đồng.10 Nói
cách khác, sự chú trọng tới quyền con người được thể hiện rất rõ nét trong các
công cụ kiểm toán xã hội. Chúng không chỉ là những công cụ nhằm thực hiện
đánh giá mang tính kĩ thuật do các cơ quan trong khu vực công hoặc các cơ
quan kiểm toán tiến hành. Thay vào đó, các công cụ này có mối liên kết nội tại
với phương thức tiếp cận dựa trên quyền con người. Các công cụ kiểm toán xã
hội không chỉ dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả hoạt động (đầu ra) mà còn có thể
được sử dụng nhằm xác định tính toàn vẹn của quy trình đã dẫn tới hiệu quả hoạt
động đó, cũng như tác động của hiệu quả hoạt động đó (tức là kết quả). Về mặt
này, các công cụ kiểm toán xã hội có thể được nhìn nhận thông qua lăng kính
về quyền con người và được áp dụng nhằm kiểm nghiệm tính toàn vẹn của một

quy trình nào đó, đặc biệt là thông qua lăng kính của các chủ thể quyền trong mối
tương quan với nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện quyền . Dưới đây là phần mô
tả về các chủ thể quyền và chủ thể thực hiện quyền trong bối cảnh của các công
cụ kiểm toán xã hội:


Các chủ thể có quyền (phía cầu) – chủ yếu là người dân/khách hàng
sử dụng dịch vụ (bao gồm các thành viên trong xã hội dân sự, kể cả
các cộng đồng).



Các chủ thể thực hiện quyền (phía cung) – chủ yếu là Nhà nước và
các cơ quan cung cấp dịch vụ, nhưng cũng có thể bao gồm các tổ
chức xã hội dân sự (CSO), các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ
chức phi chính phủ quốc tế (INGO), các nhà tài trợ và các tổ chức đa
phương. Các chủ thể nghĩa vụ chính (cấp I), chẳng hạn như các cơ
quan cung cấp dịch vụ trong đó có các tổ chức thuộc khu vực công
và các tổ chứctrực tiếp cung cấp dịch vụ tại địa phương, gồm có các
sở ban ngành, các hội đồng thành phố/địa phương, các cơ quan nửa
chính phủ như là các Cơ quan Kiểm toán Tối cao hoặc Tổng Kiểm toán
và các ủy ban nhân quyền.11 Chẳng hạn, một Chính phủ mà đã phê
chuẩn Công ước về Quyền Trẻ em và đã ban hành luật pháp quốc gia
nhằm bảo vệ quyền của trẻ em phải chịu trách nhiệm hỗ trợ và thúc
đẩy quyền của trẻ em cũng như loại bỏ các rào cản khiến trẻ em không
thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tương tự, các cơ quan mà
nhận được kinh phí hoặc được Chính phủ giao quyền cũng có nghĩa
vụ đảm bảo rằng trẻ em có khả năng hưởng các quyền của mình một
cách đầy đủ.


Sự chú trọng tới
quyền con người
được thể hiện rất rõ
nét trong các công
cụ kiểm toán xã hội.
Chúng không chỉ là
những công cụ nhằm
thực hiện đánh giá
mang tính kĩ thuật do
các cơ quan trong khu
vực công hoặc các cơ
quan kiểm toán tiến
hành. Thay vào đó,
các công cụ này có
mối liên kết nội tại với
phương thức tiếp cận
dựa trên quyền con
người

Xét từ quan điểm quyền con người, việc gây ảnh hưởng tới công tác hoạch định
và thực hiện chính sách thông qua các công cụ kiểm toán xã hội có liên quan chủ
yếu tới việc thực hiện các nghĩa vụ như đảm bảo phân bổ ngân sách thích hợp,
đảm bảo thực hiện các khoản giải ngân có liên quan cũng như đảm bảo sử dụng
ngân sách một cách phù hợp, bởi vì cách thức lập kế hoạch ngân sách và thực
9 Từ hoạt động thí điểm ở Việt Nam vào năm 2010, trong khuôn khổ của sáng kiến này, về chất
lượng dịch vụ y tế ở các trạm y tế dành cho người dân di cư so với nhóm dân số không di cư/
nhóm người nghèo so với nhóm người không nghèo ở 4 địa bàn.
10 Phỏng theo CIET inCapacity.org, Cửa ngõ về Phát triển năng lực (A gateway on capacity
development), Đẩy mạnh chính sách và thực tiễn về xây dựng năng lực trong hợp tác phát triển
quốc tế (Advancing the policy and practice of capacity building in international development

cooperation), Năng lực để thực hiện cơ chế “Lên tiếng” (Capacity for ‘Voice’). Số 15, tháng 10
năm 2002, tr 2-3
11 Cùng một tài liệu, tr.3.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

17


Phần 1

Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

hiện ngân sách có tác động tới người nghèo trong một xã hội, vốn là những đối
tượng mà dịch vụ công được thiết kế ra để phục vụ. Lý do là chỉ có chính những
người sử dụng mới có thể đánh giá xem liệu rằng dịch vụ đó có thực sự tạo sự
khác biệt đối với đời sống của họ hay không.
Các chủ thể nghĩa vụ chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công,
phân bổ tài chính, đưa ra các biện pháp khắc phục nhanh chóng, công bằng cho
tất cả mọi người dân mà không có sự phân biệt đối xử và tuân theo các khung
được quy định trong các hiệp ước và công ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết và
phê chuẩn. Các chủ thể có quyền cũng chịu trách nhiệm đảm bảo rằng có những
chuẩn mực phổ quát trên toàn cầu về quyền cơ bản của con người mà họ thực
hiện, đồng thời nhận thức được các quyền riêng mà Chính phủ của nước đó đưa
ra. Do đó, “cần phải xây dựng và tăng cường các cơ chế “lên tiếng” mà thông qua
đó các đơn vị cử tri yêu cầu các cơ quan công quyền phải giải trình”.12
Như được thể hiện ở Hình 2, khung trách nhiệm giải trình đối với người dân đòi
hỏi Nhà nước và các cơ quan cung cấp dịch vụ phải giải trình thông qua cả kênh
A và kênh B. Sơ đồ khép kín này sẽ có thêm một khía cạnh bổ sung khi mà Nhà
nước phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài để cung cấp các dịch vụ cho người

dân/khách hàng của mình. Tuy nhiên, các công cụ kiểm toán xã hội không phải
đơn thuần là những chuỗi tuyến tính và vô định hướng gồm các cuộc kiểm toán
của người dân/khách hàng về hiệu quả hoạt động và việc thực hiện nghĩa vụ của
Nhà nước. Các công cụ kiểm toán xã hội cũng có thể do chính quyền hoặc các
tổ chức xã hội dân sự khởi xướng, mặc dù chúng được thực hiện bởi xã hội dân
sự hoặc các bên thứ ba đại diện cho chính quyền.

Hình 2: Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội và các mối liên kết
về trách nhiệm giải trình 13

Nhà nước
(các nhà hoạch định chính sách/các chính khách)

Các bên liên quan bên ngoài
(các nhà tài trợ)

C

A

Người dân/Khách hàng

D

Các cơ quan cung cấp DV
(khu vực công hoặc các
cơ quan trực tiếp cung cấp
dịch vụ khác)

B


Các cơ quan lập pháp

Những người
nộp thuế

Một hệ thống phân loại các nghĩa vụ của Nhà nước theo ba cấp độ đã trở thành
một khung được chấp nhận rộng rãi giúp phân tích các nghĩa vụ của Nhà nước
về nhân quyền nói chung”


Nghĩa vụ tôn trọng: đòi hỏi Nhà nước, tất cả các cơ quan và những
người đại diện cho Nhà nước phải tránh làm bất cứ chuyện gì xâm

12 Cùng một cuốn sách,tr1.
13 Phỏng theo: Social Audits for Strengthening Accountability: Building blocks for human
rights-based programming – Practice note (Kiểm toán Xã hội nhằm Tăng cường Trách nhiệm
giải trình: Nền tảng cho việc lập chương trình dựa trên quyền con người. Hướng dẫn thực
hành). Bangkok: UNESCO Bangkok, 2007, tr 5.

18

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phần 1

phạm tới sự toàn vẹn thân thể của cá nhân, hoặc xâm phạm tới quyền

tự do của họ, trong đó bao gồm quyền được sử dụng nguồn lực vật
chất mà cá nhân đó có được theo cách mà họ cho là tốt nhất để có thể
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của họ.


Nghĩa vụ bảo vệ: đòi hỏi Nhà nước và những người đại diện cho Nhà
nước phải thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn cản các cá
nhân hoặc nhóm người khác xâm phạm tới sự toàn vẹn thân thể của
cá nhân, xâm phạm quyền tự do hành động hoặc những quyền con
người khác của cá nhân, bao gồm quyền ngăn cản những người khác
xâm phạm tới nguồn lực của họ.



Nghĩa vụ đáp ứng: đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện các biện pháp
cần thiết nhằm giúp mỗi cá nhân, trong thẩm quyền của Nhà nước, có
được các cơ hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu của họ -như được
công nhận bởi các công cụ đảm bảo nhân quyền khác – tức là những
cơ hội mà không thể có được nếu chỉ nhờ nỗ lực của cá nhân. 14

Trong khuôn khổ của khung phân tích này, “các quyền kinh tế-xã hội” không còn
được xem là “những nhu cầu cần được thỏa mãn theo chủ ý của các Chính phủ
thông qua hệ thống phúc lợi, phân bổ nguồn lực và lập kế hoạch hành chính
cũng như hoạch định chính sách” nữa, mà đã trở thành các quyền mà các chủ
thể có quyền “đòi hỏi”. Theo phương thức tiếp cận dựa trên quyền con người,
các nỗ lực TD&ĐG cần phải tập trung tìm hiểu các trường hợp phủ nhận quyền
con người cũng như không chú trọng tới quyền con người; tập trung xem xét về
luật pháp và việc thực thi luật pháp, các quy trình giải quyết khiếu nại về việc xâm
phạm quyền con người, đồng thời theo dõi các quy trình chính sách.
Xét từ giác độ thực tế, phương thức tiếp cận dựa trên quyền con người là phương

thức tiếp cận phù hợp ở Việt Nam ở tất cả các cấp chính quyền, từ cấp trung
ương tới cấp xã, bởi vì chính phủ có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền của tất cả
mọi công dân, theo các công ước khác nhau về quyền con người mà Việt Nam
đã phê chuẩn cũng như các quyền con người được đưa vào Hiến pháp của Việt
Nam năm 1992. Trong Hiến pháp có quy định, đảm bảo rằng mọi công dân đều
được hưởng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội một cách bình
đẳng và mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật;15 đồng thời đảm bảo
các quyền đó thông qua những luật cụ thể tập trung vào các quyền và nhu cầu
của các nhóm dân số dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người dân tộc thiểu
số, những người khuyết tật, và khả năng tiếp cận với các dịch vụ nước sạch, vệ
sinh và dịch vụ y tế.
Chính phủ Việt Nam hiện đang tích cực thực hiện các cam kết và nghĩa vụ theo
các hiệp định quốc tế như Công ước của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em, các
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam.
Những cam kết đó đã và đang được lồng ghép vào các chiến lược phát triển bao
trùm (bao gồm việc lồng ghép một số chỉ tiêu cụ thể về trẻ em và các chỉ tiêu phát
triển có liên quan vào các KH PTKT-XH ở các cấp khác nhau; xác định rằng trẻ
em là những đối tượng hưởng lợi chính của các biện pháp bảo trợ xã hội), ví dụ
như cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho tất cả trẻ em dưới 6 tuổi. Các cam kết
14 Trong tác phẩm được viết dưới hợp tác giữa Giáo sư Savitri Goonesekere và Ban Vì Sự Tiến
bộ của Phụ nữ của Liên hợp quốc, với tiêu đề “A Rights-Based Approach To Realizing Gender
Equality” (Phương thức Tiếp cận Dựa trên Quyền Con người trong việc Thực hiện Bình đẳng
Giới), www.un.org/womenwatch/daw/news/rights.htm.
15 Chính phủ Việt Nam (2007), Báo cáo Quốc gia trong khuôn khổ Đánh giá Định kỳ trên Toàn cầu
của Ủy ban Nhân quyền của Liên hợp quốc.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

19



Phần 1

Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

đó cũng đang được chuyển thành những kế hoạch và chương trình cụ thể (bao
gồm Kế hoạch Hành động Quốc gia về Trẻ em giai đoạn 2001-2010, Chiến lược
Bảo trợ Trẻ em giai đoạn 2011-2020 cũng như Chương trình Quốc gia về Bảo trợ
Trẻ em giai đoạn 2011-2015 và nhiều chiến lược, chính sách ngành khác nhau,
bao gồm chính sách chăm sóc y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi và chính sách
miễn học phí cho trẻ em nghèo vùng sâu vùng xa, miền núi và hải đảo).
Cụ thể đối với trẻ em, trong số các nhiệm vụ và biện pháp được đưa ra cho 9
lĩnh vực mục tiêu Kế hoạch 5 năm của Bộ LĐ, TB&XH giai đoạn 2011-2015 có
các biện pháp cụ thể và các biện pháp liên ngành vì trẻ em. Các cam kết đối với
trẻ em cũng đã được chuyển thành các văn bản pháp lý (chẳng hạn như Luật về
Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em được ban hành vào năm 2004, qua đó
thể chế hóa 5 nhóm quyền của trẻ em). Nhằm đảm bảo những cam kết quốc gia
như vậy được áp dụng ở cấp địa phương, Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 37/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2010 quy định các chuẩn mực để xác
định các xã/phường thân thiện với trẻ em.
Các nguyên tắc đó cũng áp dụng cho lĩnh vực bình đẳng giới. Chính phủ Việt
Nam hiện đang thực hiện cam kết và nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ các
hiệp định quốc tế như Công ước về Xóa bỏ mọi Hình thức Phân biệt Đối xử với
Phụ nữ (CEDAW) mà Việt Nam đã ký vào năm 1982. CEDAW đã pháp điển hóa
quyền không bị phân biệt đối xử do giới tính và quyền được bình đẳng của phụ
nữ như những chuẩn mực độc lập trong các luật. CEDAW cũng xác lập các quy
định rằng nam giới và nữ giới, trên cơ sở bình đẳng, được hưởng và thực hiện
các quyền của con người và các quyền tự do căn bản về chính trị, xã hội, văn
hóa, dân sự hoặc bất cứ lĩnh vực nào khác. Kết quả của những nỗ lực này được
thể hiện rõ nét nhất ở khía cạnh giáo dục tiểu học và sự tham chính ở cấp trung

ương. Tuy nhiên, mặc dù có rất nhiều tiến bộ tích cực trong việc hướng tới mục
tiêu bình đẳng giới, nhưng sự phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại ở Việt
Nam. Phụ nữ và trẻ em gái vẫn phải chịu thiệt thòi trong việc tiếp cận cơ hội giáo
dục và đào tạo, quyền sử dụng đất và việc làm trong các lĩnh vực chính thống của
nền kinh tế, đặc biệt là các hoạt động kinh tế có giá trị gia tăng cao.

1.2 Những Đặc điểm chung của các Công cụ Kiểm
toán Xã hội
Các công cụ kiểm toán xã hội thường bao gồm một loạt các phương pháp nhằm
thu thập dữ liệu định tính và định lượng như khảo sát, thảo luận nhóm trọng tâm,
nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn v.v.. Những công cụ này có thể được sử dụng
một cách độc lập hoặc được kết hợp với một số lượng bất kỳ (không giới hạn số
lượng các công cụ được kết hợp với nhau) trong một cuộc kiểm toán toàn diện,
gồm các lĩnh vực – từ thu gom rác thải tới đường giao thông, rồi đến các dịch vụ
xã hội, cũng như các lĩnh vực phi xã hội khác như là cơ sở hạ tầng, tài nguyên
thiên nhiên, thuế v.v..

20

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phần 1

Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán xã hội
Giai đoạn 1: Thiết kế và thu thập dữ liệu
• Làm rõ trọng tâm mang tính chiến lược của cuộc kiểm toán và các công cụ kiểm toán sẽ được sử dụng
• Thiết kế các công cụ và thực hiện kiểm tra thí điểm công cụ (đối với tất cả các công cụ )

• Thu thập thông tin từ những người sử dụng, các hộ gia đình, đại diện cộng đồng trong một mẫu điều tra
lặp lại gồm đại diện của những người sử dụng và cộng đồng.
Giai đoạn 2: Đối thoại dựa trên bằng chứng và phân tích
• Phân tích các phát hiện theo hướng giúp chỉ ra hành động cần thực hiện
• Trình bày các phát hiện cho các cộng đồng để lấy ý kiến của họ về cách thức cải thiện tình hình – thu hút
các thành viên của cộng đồng tham gia vào cuộc thảo luận về bằng chứng cùng với các cơ quan cung
cấp dịch vụ/các cán bộ kế hoạch (cách làm này đặc biệt hiệu quả đối với công cụ kiểm toán như Thẻ cho
điểm Cộng đồng. Lưu ý rằng đối với công cụ PETS và công cụ Thẻ Báo cáo Công dân thì không thể làm
như thế này trước khi các phát hiện được công bố.)
Giai đoạn 3: Phổ biến bằng chứng để đảm bảo trách nhiệm giải trình của khu vực công
• Tổ chức các cuộc hội thảo với chính quyền, với các cơ quan cung cấp dịch vụ và cộng đồng nhằm trình
bày các phát hiện, khuyến nghị và đưa ra kế hoạch hành động
• Phổ biến các phát hiện, các khuyến nghị và kế hoạch hành động cho công chúng thông qua các phương
tiện truyền thông.
• Thường xuyên cập nhật cho công chúng biết về tiến bộ đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch hành
động.

Các kĩ thuật được sử dụng trong các công cụ kiểm toán xã hội có đặc điểm chung
là đều có sự tham gia của người dân, nhằm đưa ra những dữ liệu chính xác và
cụ thể theo từng bối cảnh về những cảm nhận và ưu tiên của người dân và cộng
đồng. Các kĩ thuật đó cũng tạo điều kiện để các thành viên cộng đồng được đối
thoại trực tiếp với chính quyền và yêu cầu các cơ quan cung cấp dịch vụ ở địa
phương và trung ương cũng như chính quyền trung ương và địa phương giải
trình về các mục tiêu chính sách cũng như về việc cải thiện chất lượng cung cấp
dịch vụ. Các kĩ thuật kiểm toán xã hội giúp các nhà hoạch định chính sách đảm
bảo rằng các chính sách được đưa ra là thiết thực và các chỉ số được sử dụng
là chính xác và phù hợp.
Các công cụ kiểm toán xã hội có cấu phần về phổ biến kết quả cho công chúng
và lấy ý kiến phản hồi, với chức năng vừa là phương tiện để kiểm chứng lại cảm
nhận của nhóm dân số được đưa vào mẫu nghiên cứu, vừa là phương tiện để

tạo ra một môi trường đảm bảo việc thực thi trách nhiệm giải trình trước công
chúng. Việc xuất bản/công bố các phát hiện về TD&ĐG có sự tham gia thể hiện
sự sẵn lòng của chính quyền trong việc đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng và
sự sẵn lòng thực hiện trách nhiệm giải trình, từ đó có thể giúp khẳng định lại tính
hợp pháp của chính quyền cũng như giúp chính quyền giành được sự ủng hộ
rộng rãi. Mặc dù các công cụ kiểm toán xã hội tạo điều kiện cho sự tham gia của
các bên liên quan và thu thập thông tin về cảm nhận của người sử dụng, nhưng
cần phải triển khai các công cụ đó một cách chặt chẽ và khoa học. Chẳng hạn,
cần đảm bảo rằng các công cụ đó mang tính khách quan, minh bạch và độc lập
ở mức tối đa có thể.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

21


Phần 1

Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Hình 3 nêu các đặc điểm chính của một cuộc kiểm toán xã hội.16

Hình 3: Bảy đặc điểm của một cuộc kiểm toán xã hội

1.

Lấy được bằng chứng: Dữ liệu do các hộ gia đình và cộng đồng cũng như do các cơ quan cung cấp dịch
vụ cung cấp được thu thập một cách có hệ thống, nhằm định hướng cho công tác lập kế hoạch và định
hướng cho các biện pháp hành động.


2.

Sự tham gia của cộng đồng: Các cộng đồng không chỉ cùng tạo ra dữ liệu, mà thông qua các cuộc thảo
luận nhóm trọng tâm và hội thảo có sự tham gia của các đại diện cộng đồng, họ còn giúp xác định các
giải pháp ở cấp địa phương và cấp quốc gia.

3.

Tính vô tư không thiên vị: Một cuộc kiểm toán dựa vào cộng đồng do một bên thứ ba độc lập thực hiện
có thể giúp nuôi dưỡng văn hóa thực hiện minh bạch và tăng cường uy tín của dịch vụ.

4.

Sự ủng hộ của các bên liên quan: Tất cả những người có lợi ích quan trọng trong việc cung cấp dịch
vụ đều được tham gia tích cực trong suốt quá trình kiểm toán, từ giai đoạn thiết kế ban đầu cho tới giai
đoạn thực hiện các giải pháp do cộng đồng chủ trì.

5.

Không quy kết lỗi lầm: Một cuộc kiểm toán xã hội được thực hiện với chủ đích tập trung tìm hiểu các lỗi
hệ thống và nội dung của chương trình chứ không phải tập trung vào các cá nhân hoặc cơ quan. Kể cả
các phát hiện tiêu cực cũng có thể được hiểu theo nghĩa là điểm xuất phát để cải thiện.

6.

Thực hiện lặp lại: Thường thì cần có vài vòng kiểm toán để đo lường được tác động và tiến bộ qua thời
gian và để tập trung các nỗ lực lập kế hoạch vào những khía cạnh mà có thể đạt hiệu quả cao nhất.

7.


Phổ biến các kết quả: Trong thiết kế của tất cả các cuộc kiểm toán đều bao gồm một chiến lược truyền
thông, trong đó bao gồm việc thông tin phản hồi cho cộng đồng, sơ đồ hóa và phổ biến qua các phương
tiện truyền thông.

Các đặc điểm chính của các công cụ kiểm toán xã hội bao gồm:


Sự chú trọng tới người sử dụng và các khía cạnh mang tính định tính
trong chính sách và trong cung cấp dịch vụ, chẳng hạn như mức độ
hài lòng của người sử dụng (đặc biệt là với các công cụ kiểm toán xã
hội như là Thẻ cho điểm Cộng đồng và Thẻ Báo cáo công dân). Ở
mức có thể, các chỉ số và các cuộc khảo sát có liên quan trong các
công cụ kiểm toán xã hội được thiết kế với ý kiến đóng góp của người
dân, nhằm nắm bắt được các khía cạnh quan trọng nhất đối với những
người sử dụng cuối cùng. Như vậy cũng có thể cung cấp đầu vào cho
việc xây dựng các tiêu chí về sự tham gia và trách nhiệm giải trình.



Việc sử dụng Phương thức tiếp cận có sự tham gia, đặc biệt là khi có
sự tham gia của người dân, nhóm người dân, các cộng đồng và sự
tham gia đó không chỉ dừng ở các cuộc khảo sát hộ gia đình. Các công
cụ kiểm toán xã hội giúp bộc lộ nhận thức của những người sử dụng
mà có thể họ không được hỏi hoặc ngại không muốn bày tỏ trong một
cuộc điều tra chính thức kể cả là qua một cuộc khảo sát hộ gia đình
thông thường,. Với việc tạo cơ hội để người dân cùng nhau tập hợp
lại và đánh giá các dịch vụ hoặc tác động của chương trình – hoặc là
thông qua các nhóm trọng tâm hay thông qua các cuộc họp nhằm phổ
biến chia sẻ kết quả và lấy ý kiến phản hồi giữa các nhóm và với một
nhóm đối tượng lớn hơn Ở đó những người tham gia có thể bày tỏ một

cách rõ ràng hơn về cảm nhận của họ, hoặc các vấn đề nếu họ có sự
ủng hộ từ phía các thành viên trong nhóm, hoặc họ có thể nhận ra rằng
mối quan tâm lo ngại của họ cũng là mối lo ngại chung. Phương thức

16 Capacity.org, Social Audits: Fostering Accoutability to Local Constituencies (Kiểm toán Xã hội:
Thúc đẩy Trách nhiệm Giải trình với Người dân Địa phương), Số 15, tháng 10 năm 2002, tr2-3.

22

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phần 1

tiếp cận có sự tham gia cũng giúp tăng sự ủng hộ và tăng cường trách
nhiệm giải trình.


Thúc đẩy trách nhiệm giải trình một cách năng động, thông qua các
cơ chế tích cực về phổ biến thông tin và lấy ý kiến phản hồi, đặc biệt
là thông qua việc công bố về mức độ thỏa mãn của người sử dụng
trên các phương tiện truyền thông. Từ đó tạo ra cuộc thảo luận trong
công chúng về sự hài lòng của người sử dụng thông qua việc tập hợp
những người ra quyết định, các cơ quan cung cấp dịch vụ và cộng
đồng ngồi lại cùng nhau.

Thông thường, khi mà các chính phủ - hoặc kể cả các cơ quan tài trợ - thu thập thông tin thì các thành viên trong
cộng đồng thường được hỏi thông tin, nhưng rồi thông tin đó biến mất vào trong một nghiên cứu hoặc là báo cáo

và chủ yếu chỉ được chia sẻ ở cấp trung ương. Nhưng nếu thông tin được chia sẻ ngay lập tức với cộng đồng thì
người dân có thể sử dụng những thông tin này nhằm thúc đẩy trách nhiệm giải trình của các cơ quan cung cấp
dịch vụ ở địa phương, để tổ chức thảo luận xem tại sao một số dịch vụ lại đáp ứng hoặc không đáp ứng được nhu
cầu và mong đợi của cộng đồng, từ đó tạo điều kiện để họ có thể tiến hành các biện pháp hành động nhằm thực
hiện những thay đổi ở cấp địa phương.



Các công cụ kiểm toán xã hội có thể tạo ra cả dữ liệu định lượng lẫn
dữ liệu định tính về sự hài lòng, cảm nhận và mong đợi của người sử
dụng, hoặc là về tính hiệu quả của các chính sách và chương trình
trong việc thúc đẩy và thực hiện quyền con người (chẳng hạn trong
các lĩnh vực về giới, quyền của trẻ em và quyền của người dân tộc
thiểu số). Ví dụ:
○ Thẻ báo cáo công dân có thể bao gồm một cuộc khảo sát hộ gia
đình – với các chỉ số thường được xác định thông qua các nhóm
trọng tâm – có thể tập trung vào các vấn đề xã hội, nhưng cũng
có thể lượng hóa mức độ hài lòng và cảm nhận của người sử
dụng.
○ Tương tự, công cụ Thẻ cho điểm cộng đồng sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm trọng tâm để giúp những người sử dụng
xác định và cho điểm theo các chỉ số về sự hài lòng đối với dịch
vụ được cung cấp (với kết quả là điểm số theo phần trăm) thể
hiện được mức độ hài lòng của người dân địa phương đối với các
khía cạnh khác nhau của dịch vụ đó.
○ Khảo sát Theo dõi Chi tiêu công (PETS) có chức năng theo dõi
các dòng kinh phí hoặc nguồn lực từ cấp trung ương tới đối
tượng thụ hưởng mục tiêu. PETS đưa ra một đánh giá về cách
thức mà nguồn lực công được sử dụng, dựa trên các dữ liệu định
lượng sẵn có của chính phủ và dựa trên các dữ liệu định lượng

thu được thông qua khảo sát người sử dụng hoặc đối tượng thụ
hưởng .
○ Kiểm toán giới và kiểm toán dựa trên Quyền Trẻ em chủ yếu tạo
ra các dữ liệu định tính về chất lượng của các chính sách và của
công tác xây dựng, thực hiện chương trình, dựa trên phân tích
sâu về các tài liệu, về nội dung từ các cuộc thảo luận nhóm trọng
tâm và các cuộc phỏng vấn với các đối tượng liên quan chính.
Tuy nhiên, một số dữ liệu có thể được lượng hóa nhằm tạo thuận
lợi cho việc so sánh.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

23


Phần 1

Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

So với các cuộc khảo sát hộ gia đình thông thường thì các công cụ này có thể
cho thấy nhiều sắc thái tinh tế hơn rất nhiều về những ưu tiên và sự hài lòng của
người sử dụng, những rào cản và những động cơ khuyến khích sử dụng dịch
vụ. Từ đó có thể giúp cải thiện việc cung cấp dịch vụ ở cấp địa phương, đồng
thời giúp các nhà hoạch định chính sách ở cấp tỉnh và cấp trung ương có được
những thông tin phản hồi then chốt, giúp đề ra các ưu tiên cũng như hỗ trợ phân
bổ kinh phí cho các địa bàn địa lý hoặc các nhóm dân số cụ thể (ví dụ như trẻ em
gái, trẻ em trai, người dân tộc thiểu số)
Tùy vào cấu trúc, chẳng hạn như về cách thức lựa chọn đối tượng trả lời, các
công cụ kiểm toán xã hội cũng có thể giúp tìm hiểu các khía cạnh khác nhau liên
quan tới mức độ sử dụng dịch vụ và mức độ hài lòng người dân được bóc tách

theo độ tuổi và nhóm dân tộc. Các ví dụ đưa ra ở dưới đây cho thấy những cách
thức mà công cụ kiểm toán xã hội đã được thí điểm sử dụng để đánh giá các
chính sách và chương trình ở Việt Nam (2010) và ở các nước khác, cho thấy rất
nhiều những thông tin đã được tạo ra từ những công cụ này.

1.3 Tổng quan về các Công cụ được đề xuất cho
Việt Nam
Phần này đưa ra một cách nhìn tổng quan về mỗi công cụ được đề xuất, trong đó
bao gồm một phần mô tả chung về những thông tin mà công cụ đó tạo ra, chỉ ra
đâu là những lĩnh vực và những chủ đề liên ngành mà có thể sử dụng mỗi công
cụ phù hợp để theo dõi. Những vấn đề được nêu dưới đây không phải là toàn bộ
mà mục đích chính là đưa ra một phần mô tả chung và chỉ ra sự khác nhau giữa
các công cụ xét về phương thức tiếp cận, phương pháp luận và những loại dữ
liệu được tạo ra từ mỗi công cụ.

24

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội


Tổng quan về Phương thức tiếp cận Kiểm toán Xã hội

Phần 1

Thẻ báo cáo công dân (CRC)

Thẻ báo cáo công dân (CRC)
Mô tả

Thông tin được tạo ra


Thẻ báo cáo công dân (CRC) là một công cụ đơn
giản nhưng hữu hiệu nhằm cung cấp cho các cơ
quan công quyền những ý kiến phản hồi có hệ thống
từ những người sử dụng dịch vụ công. Một cuộc
khảo sát được thiết kế, trong đó bao gồm các chỉ số
do các cộng đồng lựa chọn và ý kiến phản hồi được
thu thập từ một mẫu nghiên cứu gồm những người
sử dụng dịch vụ. Sau đó các kết quả này được tổng
hợp lại để đưa ra một cái nhìn tổng quan về (các)
dịch vụ.

Thẻ báo cáo công dân có thể cung cấp cho người
dân và chính quyền những thông tin mang tính định
lượng và định tính về những chuẩn mực hiện hành
và những lỗ hổng hiện nay trong cung cấp dịch vụ, ở
cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp địa phương nhằm
so sánh giữa các tỉnh, huyện, vùng thành thị và nông
thôn v.v.. CRC cũng có thể cung cấp thông tin về
những lỗ hổng trong cung cấp dịch vụ đối với toàn
thể dân chúng nói chung cũng như đối với các nhóm
dân số khác nhau như là lao động di cư, người dân
tộc thiểu số, nữ giới, nghèo so với không nghèo, trẻ
em v.v..

Bằng việc thu thập ý kiến phản hồi của những người
sử dụng thực tế về chất lượng và mức độ thích đáng
của dịch vụ, Thẻ báo cáo công dân đưa ra những
bằng chứng xác đáng và một chương trình nghị sự
mang tính chủ động để tạo điều kiện cho các cộng

đồng, các tổ chức xã hội dân sự và chính quyền địa
phương cùng đối thoại với các cơ quan cung cấp
dịch vụ, nhằm cải thiện tình hình cung cấp dịch vụ
công. Công cụ này cũng đo lường mức độ nhận thức
của công chúng về quyền và nghĩa vụ của người
dân.
CRC đo lường cảm nhận của những người sử dụng
dịch vụ về chất lượng và mức độ hài lòng về các
dịch vụ, cũng như những thách thức hoặc vấn đề về
cung cấp dịch vụ.

CRC phục vụ cho giai đoạn nào của của chính
sách hoặc chương trình?
Thẻ báo cáo công dân có thể được sử dụng nhằm
theo dõi tình hình thực hiện và đánh giá hiệu quả
thực hiện. CRC có thể đo lường mức độ mà các dịch
vụ đáp ứng được các nhu cầu của cộng đồng xét về
tình hình thực hiện và kết quả. Nếu được thực hiện
một cách định kỳ thì Thẻ báo cáo công dân có thể
giúp theo dõi những thay đổi về chất lượng dịch vụ
qua thời gian. Với những chính sách hoặc chương
trình mới thì CRC có thể được tiến hành trước khi
thực hiện và sau khi thực hiện nhằm đo lường tác
động của chính sách hoặc chương trình đó.

Dữ liệu này được cung cấp dưới cả hai hình thức,
định lượng và định tính
• Dữ liệu định lượng bao gồm những số liệu
mang tính đại diện thống kê về mức độ hài
lòng của người sử dụng theo những chỉ số

chính
• Dữ liệu định tính bao gồm các bằng chứng
bằng lời kể cho biết tại sao các thành viên
trong cộng đồng lại cho điểm các chỉ số như
vậy.
Các kết quả có thể được chính quyền sử dụng nhằm
cân nhắc những vấn đề mang tính xã hội, chính trị
và những vấn đề “thuộc phần mềm” khi lập kế hoạch
và phân bổ ngân sách, khiến cho quy trình trở nên
minh bạch và đảm bảo trách nhiệm giải trình hơn.
Các kết quả cũng có thể được người dân sử dụng
nhằm nêu lên quan điểm của họ, từ đó nâng cao
nhận thức về tình hình cung cấp dịch vụ và yêu cầu
chính quyền phải giải trình.
Được sử dụng ở cấp nào? (Trung ương, Tỉnh)
CRC có thể được thực hiện theo yêu cầu của cấp
trung ương, cấp tỉnh hoặc cấp địa phương thấp hơn.
Cách thức sử dụng thông tin sẽ còn tùy thuộc các
vấn đề được xem xét là gì và dữ liệu được thu thập
từ các nhóm đối tượng mục tiêu nào. Nếu như lĩnh
vực được nghiên cứu là y tế, thì CRC có thể được
thực hiện về một bệnh viện hoặc về các dịch vụ y
tế do một cơ sở y tế ở địa phương cung cấp, hoặc
là dịch vụ y tế do các cơ sở y tế trên toàn tỉnh cung
cấp. Dữ liệu được sử dụng bởi những người có liên
quan ở cấp y tế đó (nghĩa là bệnh viện, các cơ sở
y tế địa phương hoặc các cơ sở y tế trên toàn tỉnh,
cũng như những người dân sử dụng bệnh viện đó,
hoặc nằm trong phạm vi phục vụ của cơ sở y tế địa
phương hoặc các cơ sở y tế trong tỉnh). Điều quan

trọng nhất là phải làm rõ ngay từ đầu xem là thông
tin sẽ được sử dụng như thế nào và bởi những ai.

Bộ Công cụ Kiểm toán Xã hội cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội

25


×