Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Sử dụng phối hợp các phương tiện trong dạy học địa lí lớp 11 trung học phổ thông theo định hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 68 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA ĐỊA LÍ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

Sử dụng phối hợp các phƣơng tiện trong dạy
học Địa lí lớp 11 trung học phổ thông theo định
hƣớng phát triển năng lực

GVHD
: PGS.TS Đậu Thị Hòa
Họ và tên ngƣời thực hiện : Đinh Thị Ngọc Diễm

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2018
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì
một công trình nào khác.

Tác giả luận văn
Đinh Thị Ngọc Diễm

2


LỜI CẢM ƠN


Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS Đậu Thị Hòa, người đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn, động viên tác giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
` Xin chân thành cảm ơn các trường TPHP Phan Thành Tài, THPT Hòa Vang
thành phố Đà Nẵng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả thực nghiệm sư phạm
và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô thuộc Tổ Bộ môn Lí
Luận và Phương Pháp khoa Địa lí Trường ĐHSP Đà Nẵng.
Cuối cùng, tác giả bày tỏ lòng biết ơn tới sự giúp đỡ của các Thầy, Cô cộng
tác thực nghiệm sư phạm và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ
và tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả hoàn thành luận văn này. Tác giả bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến mọi người.
Luận văn này được hoàn thành tại Bộ môn Lí Luận và Phương Pháp dạy học
môn Địa lí, Khoa Địa lí, Trường ĐHSP Đà Nẵng.

Tác giả luận văn

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DH

Dạy học

ĐC

Đối chứng

GV

Giáo viên


HS

Học sinh
Nhà xuất bản giáo dục

NXBGD

Phương pháp

PP

Phương pháp dạy học

PPDH

Phương tiện

PT
PTDH

Phương tiện dạy học

THPT

Trung học phổ thông
Thực nghiệm

TN
TNSP


Thực nghiệm sư phạm

SGK

Sách giáo khoa

4


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Nhà nước ta đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng và toàn dân”, giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động đến toàn hệ
thống xã hội, góp phần cơ bản cho phát triển xã hội, giáo dục luôn đổi mới đáp ứng
yêu cầu thời đại. Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể được Bộ Giáo
Dục và Đào tạo năm 2015 nêu rõ quan điểm: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, cách khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực…”.
Chủ trương chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào Tạo là phải thúc đẩy đổi mới
PPDH, khắc phục những lối mòn dạy học cũ. Vấn đề đổi mới PPDH được thể hiện
trong điều 28 – luật Giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc nhóm; rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại nềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Từ vấn đề đổi mới PPDH kéo theo hàng loạt
các vấn đề khác đó là đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đổi mới thiết bị, PPDH,
đổi mới kiểm tra – đánh giá…vì vậy đổi mới PP giáo dục theo định hướng năng lực

đồng nghĩa với việc sử dụng PPDH Địa lí theo hướng đi mới nhằm vào trọng tâm là
đối tượng người học.
PPDH có ý nghĩa to lớn trong môn địa lí ở phổ thông, đặc trưng trong khoa
học Địa lí bởi vì các sự vật hiện tượng địa lí được hiểu đi liền với không gian lãnh
thổ, HS không thể quan sát trực tiếp được, phải thông qua các PT trực quan. Hơn
nữa các sự vật, hiện tượng địa lí lại đa dạng và phức tạp, dựa vào PTDH mới trở nên
gần gũi, cụ thể hơn đối với nhận thức của HS. Việc đổi mới PPDH theo hướng phát
triển năng lực người học, PTDH vừa là công cụ để GV tổ chức hoạt động nhận thức,
rèn luyện năng lực cho học sinh, vừa là cơ sở để HS hoạt động tích cực, chủ động
tìm ra những kiến thức cần thiết. Hiện nay, PTDH bao gồm các phương tiện truyền
thống như bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, tranh ảnh, atlat, bảng số liệu, phiếu học tập…và
các phương tiện hiện đại: Các phần mềm dạy học, sơ đồ tư duy,…góp phần tích cực
5


vào việc đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học địa lí trong nhà
trường.
Trên thực tế hoạt động dạy học môn Địa lí lớp 11 THPT còn nhiều hạn chế,
bất cập trong sử dụng PT Địa lí. PTDH đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy
học, có tác dụng rất lớn trong quá trình nhận thức và hình thành năng lực của học
sinh. Tuy nhiên, PTDH còn chưa đồng bộ, mặt khác nhiều GV sử dụng chưa tốt các
PT trong các tiết dạy. Tình trạng dạy “chay” vẫn còn khá phổ biến, việc đổi mới,
tích cực sử dụng PTDH của GV có chuyển biến tích cực nhưng chưa mạnh mẽ. Đa
số các GV ít khi phối hợp các PTDH để thấy được mối liên hệ giữa những tri thức
chuyên môn Địa lí và chưa chú ý đến phát triển năng lực HS. Chương trình Địa lí
lớp 11 đề cập đến vấn đề các khu vực và quốc gia trên thế giới, xét về nội dung và
PP, chương trình có đầy đủ điều kiện thuận lợi để sử dụng kết hợp các PT trong dạy
học nhằm hình thành năng lực giải quyết vấn đề cho HS.
Trong nghiên cứu khoa học giáo dục Địa lí, những đề tài nghiên cứu sử dụng
phối hợp các PTDH trong Địa lí còn chưa rõ ràng. Đa số chỉ đề cập đến một hình

thức sử dụng PT Địa lí và sử dụng theo hướng phát huy tính tích cực của HS. Để
hoạt động dạy học ở trường trung học đáp ứng được mục tiêu đổi mới căn bản và
toàn diện của giáo dục cần có những nghiên cứu cơ bản có hệ thống. Việc nghiên
cứu sử dụng kết hợp PTDH địa lí trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục có ý nghĩa to lớn về mặt lí luận và thực tiễn. Từ những lí do trên, tác giả đã lựa
chọn đề tài nghiên cứu “Sử dụng phối hợp các phương tiện trong dạy học Địa lí
lớp 11 trung học phổ thông theo định hướng phát triển năng lực”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu PP sử dụng phối hợp các PT trong dạy học Địa lí 11 theo định
hướng phát triển năng lực HS. Qua đó góp phần thực hiện hiệu quả đổi mới chương
trình giáo dục hiện nay ở trường THPT.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Địa lí.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
- PTDH Địa lí 11.
6


- Sử dụng phối hợp các PTDH Địa lí.
- Năng lực người học.
- Địa lí 11 THPT.
4. Phạm vi nghiên cứu:
4.1. Phạm vi nội dung:
- Sử dụng phối hợp các PT thông dụng trong dạy học địa lí 11 THPT.
- Sách giáo khoa Địa lí lớp 11 ban cơ bản.
4.2. Phạm vi thời gian:
4.3. Phạm vi không gian:
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định cơ sở lí luận của việc sử dụng PTDH Địa lí theo định hướng năng lực.
- Điều tra thực trạng sử dụng PTDH môn Địa lí của GV một số trường THPT thành

phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu sử dụng phối hợp các PT trong dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh lớp 11.
- Thực nghiệm sư phạm.
6. Lịch sử đề tài nghiên cứu:
PTDH Địa lí rất phổ biến và thông dụng, chính vì thế đã có nhiều công trình
nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên các đề tài nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu
đơn lẻ phương pháp sử dụng phương tiện dạy học, chưa phối hợp các phương tiện
với nhau:
- Nguyễn Trọng Phúc (1997), phương pháp sử dụng số liệu thống kê trong
dạy học Địa lí kinh tế - xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã phân loại
bảng số liệu thống kê đồng thời đưa ra các hình thức biểu hiện và sử dụng số liệu
thống kê trong các khâu dạy học và các hình thức dạy học.

7


- Nguyễn Trọng Phúc (1998), phương pháp sử dụng các phương tiện dạy học
Địa lí ở trường phổ thông, NXB Giáo dục đề cập đến cách phân loại phương tiện
Địa lí theo 2 loại: cổ truyền và PT – thiết bị kĩ thuật hiện đại đồng thời đề cập đến
quy trình, nguyên tắc sử dụng PTDH, tuy nhiên mới dừng lại hình thức phân tích
từng PT.
- Nguyễn Trọng Phúc (2000), phương tiện, thiết bị kĩ thuật trong dạy học Địa
lí, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội tác giả đề cập đến khái niệm vai trò của PTDH
Địa lí, PP để sử dụng bản đồ giáo khoa cũng như nguyên tắc khi sử dụng PTDH.
- Nguyễn Đức Vũ (2006), phương tiện dạy học Địa lí ở trường THPT, NXB
Giáo dục tác giả có liệt kê hàng loạt những PTDH môn Địa lí ở trường THPT bao
gồm những PT truyền thống và phương tiện hiện đại như sơ đồ tư duy…trong mỗi
PT, tác giả đều chỉ rõ PP dùng cụ thể, là tài liệu hữu ích cho GV cấp THPT.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp tài liệu: vấn đề nghiên cứu
được bắt đầu từ phân tích các tài liệu để tìm ra cấu trúc, xu hướng, phát triển lí thuyết
của đề tài. Từ phân tích lí thuyết, tổng hợp lại xây dựng thành một hệ thống khái
niệm tiến tới tạo thành cơ sở lí luận sử dụng phối hợp PTDH trong môn Địa lí.
- Phương pháp phân loại, hệ thống lí thuyết hóa: PTDH Địa lí tập hợp nhiều
loại với nhiều chức năng khác nhau. Sử dụng PP này để sắp xếp các tài liệu khoa
học thành một hệ thống lô-gic chặc chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức [4].
- Phương pháp lịch sử: sử dụng phương pháp này để sắp xếp tư liệu, tài liệu
theo quá trình lịch sử - thời gian trên, đồng thời kế thừa và phát triển những nghiên
cứu đi trước.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu: xây dựng phiếu điều tra khảo sát nhu cầu
sử dụng phối hợp các PTDH trong môn địa lí, khảo sát một nhóm đối tượng trên một
diện rộng nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triển, đặc điểm của đối
tượng HS. Kết quả của phương pháp là những thông tin quan trọng về đối tượng
nghiên cứu làm cơ sở thực tiễn để đề xuất giải pháp.

8


- Phương pháp phỏng vấn: trực tiếp nói chuyện với giáo viên phổ thông môn
Địa lí và các nhà giáo dục trên hệ thống câu hỏi để phục vụ việc điều tra sử dụng
phối hợp các PTDH trong môn Địa lí.
- Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến của những người có trình độ chuyên
môn, chuyên sâu về giáo dục theo hướng hỏi về việc sử dụng phối hợp các PTDH
Địa lí ở trường THPT.
- Phương pháp quan sát: tiến hành dự giờ thăm lớp của các GV giảng dạy môn
Địa lí tại trường phổ thông. Quan sát trực tiếp các hoạt động của GV và HS trong
giờ dạy học Địa lí có sử dụng PTDH, sản phẩm hoạt động của GV. Từ đó kiểm
chứng các giả thuyết, lí thuyết đã có để chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết
khoa học đồng thời, đối chiếu kết quả nghiên cứu lí thuyết với thực tiễn để tìm sự

sai lệch của kết quả nghiên cứu nhằm tìm cách hoàn thiện [4].
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: tác động vào đối tượng là các quá trình
dạy học Địa lí và HS để kiểm nghiệm tính đúng đắn, thực tiễn của đề tài nhằm thực
hiện mục tiêu nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp toán thống kê: sử dụng các công thức vào trong nghiên cứu
khoa học để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm định giả thuyết thống
kê về sự khác biệt trong kết quả thực nghiệm và đối chứng.
8. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị - đề xuất, hệ thống các bảng biểu, tài
liệu tham khảo, phụ lục…, luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về sử dụng phối hợp các phương tiện
trong dạy học Địa lí 11 THPT theo định hướng phát triển năng lực.
Chương 2: Sử dụng phối hợp các phương tiện trong dạy học Địa lí 11 thpt
theo định hướng phát triển năng lực.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

9


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỬ DỤNG PHỐI HỢP CÁC
PHƢƠNG TIỆN TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
1.1. Phƣơng tiện dạy học địa lí:
1.1.1. Một số khái niệm về phương tiện dạy học địa lí:
1.1.1.1. Khái niệm phương tiện:
- Theo từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng (năm 2003) đề cập, PT là cái dùng
để làm một việc gì, để đạt được mục đích nào đó.
Theo định nghĩa, chúng ta hiểu rằng, trong giáo dục sư phạm nói chung và
dạy học Địa lí nói riêng, cái mà dùng để thực hiện một công việc (ví dụ: bản đồ, sơ

đồ, tranh ảnh…) nhằm đạt được mục đích dạy học (sử dụng theo hướng minh họa tri
thức hay nguồn tri thức…) thì được gọi là phương tiện.
- PT theo tiếng latinh là “medium”, có nghĩa là ở giữa, trung gian liên kết giữa
người cho và người nhận. PT vừa nói lên sự hàm chứa, tính vị trí, vừa có chức năng
chuyển giao, liên kết trong quan hệ giữa người gửi và người nhận.
- Thiết bị theo nghĩa rộng cũng có thể hiểu là PT được sử dụng vào mục đích
dạy học, thiết bị - kĩ thuật là bộ phận hình thành và tạo nên PTDH. Theo như khái
niệm thì PT và thiết bị có thể gọi chung là PTDH.
1.1.1.1. Khái niệm phương tiện dạy học
- Dựa trên nghiên cứu của Đại học Princeton về vấn đề áp dụng PT trong dạy
học (kéo dài từ năm 2003 đến 2012), PTDH với tên gọi “teaching aids” nghĩa là
dụng cụ trợ giảng, “teaching aids” – dụng cụ trợ giảng là bất kì thiết bị, đối tượng
hoặc máy móc nào được sử dụng bởi GV để làm sáng tỏ hoặc làm sinh động một
chủ đề [7].
- Ở Việt Nam, các nhà giáo dục có nhiều cách định nghĩa PTDH khác nhau:
+ Theo Nguyễn Ngọc Bảo, PTDH là tập hợp những đối tượng vật chất được
GV sử dụng với tư cách là PT tổ chức, điểu khiển hoạt động nhận thức của HS và
10


đối với HS, đó là PT để tiến hành hoạt động nhận thức, thông qua đó thực hiện nhiệm
vụ dạy học.
+ Theo quan điểm của giáo dục học, PTDH là đại diện khách quan của đối
tượng nhận thức ẩn chứa trong đó đầy đủ những ý định, hoạch định ban đầu về cả
nội dung truyền đạt và nhận thức, PP truyền đạt của GV và lĩnh hội của HS.
+ Theo Nguyễn Ngọc Quang, PTDH bao gồm mọi thiết bị kĩ thuật từ đơn giản
đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạt
và tiếp thu của kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo.
+ PTDH là những đối tượng vật chất giúp cho GV và HS tổ chức có hiệu quả
quá trình dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học, nhờ những đối tượng vật chất

này, GV tiến hành tổ chức, điều khiển quá trình dạy học giúp HS tự tổ chức hoạt
động nhận thức của mình một cách có hiệu quả.
Các quan điểm nêu trên đều có một điểm chung, đó là coi PTDH là toàn bộ
các dụng cụ, đồ dùng, thiết bị kĩ thuật và các tài liệu trang bị cho quá trình giảng dạy
nhằm nâng cao hiệu quả DH.
- Như vậy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về PTDH, các khái niệm
luôn thay đổi và phát triển theo thời gian. Chúng ta có thể thấy khái niệm sau đây
thể hiện rõ nhất bản chất của PTDH trong dạy học tiếp cận năng lực:
PTDH là những đối tượng vật chất được GV sử dụng để tổ chức, điều khiển
họat động nhận thức và rèn luyện kĩ năng, kỉ xảo của người học. Khái niệm này bao
hàm tất cả những PT dùng trong quá trình dạy học đồng thời cũng nói rõ mục đích
của quá trình dạy học là truyền thụ tri thức và rèn luyện năng lực của người học.
1.1.1.3. Khái niệm phương tiện dạy học Địa lí
- PTDH địa lí là một khái niệm dùng để chỉ tất cả các PT, thiết bị mà GV và
HS sử dụng trực tiếp trong quá trình dạy – học Địa lí, phục vụ các mục đích dạy học
và giáo dục.
- Theo Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc, trong bộ môn Địa lí, các PT và
thiết bị gồm một phần cơ sở vật chất truyền thống hay hiện đại tạo điều kiện cho
việc giảng dạy môn học như: phòng bộ môn địa lí, vườn địa lí…, toàn bộ các đồ
dùng giảng dạy và học tập trực quan như: bản đồ, tranh ảnh, mô hình, mẫu vật, dụng
11


cụ trắc quan, đo đạc, các thiết bị nghe nhìn và cuối cùng là các tài liệu cung cấp
những tri thức cơ bản cho GV và HS như: sgk địa lí, sách tham khảo địa lí…[8].
1.1.2. Vai trò của phương tiện dạy học Địa lí
1.1.2.1. Đối với hoạt động học
- Làm thỏa mãn và phát triển hứng thú học tập, nâng cao lòng tin vào khoa
học, phát huy tính tích cực nhận thức của HS. Phát triển những năng lực chuyên biệt
môn địa lí như sử dụng bản đồ, số liệu thống kê, tranh ảnh, năng lực tư duy.

- Giúp HS tiếp nhận kiến thức nhẹ nhàng hơn, vừa sức và rút ngắn thời gian
lĩnh hội tri thức. HS hiểu bài sâu sắc và nhớ bài lâu hơn, chính là phát huy hiệu quả
học tập. PTDH tạo điều kiện thuận lợi nhất phản ánh các thuộc tính bề ngoài của đối
tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng. PTDH giúp cụ thể hóa
những cái quá trừu tượng thuộc về bản chất môn địa lí như không gian, sự vận động
theo thời gian, hình ảnh cụ thể của các sự vật – hiện tượng.
- Tăng cường khả năng tự lực học tập và nâng cao hiệu quả nghiên cứu tài liệu
học tập.
- Các hoạt động quan sát, phân tích, tổng hợp các hiện tượng xảy ra và giải
thích có cơ sở khoa học các hiện tượng đó sẽ góp phần phát triển tư duy tìm tòi,
khám phá, sáng tạo trong quá trình học tập.
1.1.2.2. Đối với hoạt động dạy
- Giúp GV tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học và có nhiều
thời gian hơn cho công tác sáng tạo trong hoạt động với HS. GV điều khiển được
hoạt động nhận thức của người học, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của người
học được thuận lợi và tạo hiệu suất cao. Tóm lại, PTDH góp phần nâng cao năng
suất lao động sư phạm của thầy và trò.
+ Giải phóng người GV khỏi nhiều công việc có tính chất thuần túy kỹ thuật
trong tiết học chẳng hạn như thông báo thông tin, đọc viết. Người dạy có điều kiện
DH theo các PP trực tiếp rèn luyện năng lực cho HS.
- Cung cấp thông tin, hỗ trợ người dạy điều khiển quá trình nhận thức của HS
một cách tích cực, chủ động.
12


- Tạo điều kiện cho GV kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS được chính
xác, đầy đủ hơn; làm cơ sở để hs phát triển và củng cố năng lực.
1.1.3. Phân loại phương tiện dạy học Địa lí
Có nhiều cách phân loại các PTDH theo một vài cách khác nhau tùy theo quan
điểm sử dụng và có sự thay đổi cách nhìn nhận PTDH theo thời gian.

- Theo Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc trình bày trong cuốn “Phương
pháp sử dụng các phương tiện dạy học địa lí ở trường Trung học Phổ thông” có phân
chia làm hai nhóm: nhóm các PTDH truyền thống, cổ truyền (phòng địa lí, vườn địa
lí, tủ sách địa lí, những bộ sưu tập, bản đồ giáo khoa, quả cầu địa lí, các dụng cụ trắc
quan – đo đạc, các tài liệu và số liệu thống kê); nhóm PT và thiết bị và kỹ thuật dạy
học hiện đại (sử dụng máy bay, sử dụng băng video, sử dụng chương trình trên máy
tính) [8].
- Dựa vào mục đích sử dụng có thể phân loại các PTDH thành hai loại PT
dùng trực tiếp để dạy học và PT dùng để hổ trợ, điều khiển quá trình dạy học:
+ PT dùng trực tiếp để dạy học bao gồm những đồ dùng được GV sử dụng
trong giờ dạy để trình bày kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kỉ xảo cho HS. Đó là: các tài
liệu in (sgk, sách chuyên môn, các tài liệu chép tay, sở tay tra cứu, sách bài tập,
chương trình môn học…); các PT mang tính thính giác, thị giác và hỗn hợp (băng
đĩa ghi âm, phim video, sơ đồ, bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh…).
+ PT điều khiển và hổ trợ quá trình dạy học là những PT được sử dụng để tạo
ra môi trường học tập thuận lợi, có hiệu quả và liên tục như các PT hỗ trợ bao gồm
các loại bảng viết, các giá di động hoặc cố định, thiết bị điều khiển âm thanh, ánh
sáng…
- Dựa vào cấu tạo của PT có thể phân loại các PTDH thành hai loại: các PT
dạy học truyền thống và các PT nghe nhìn hiện đại.
Trong bài luận văn này, tôi sử dụng cách phân loại được nhiều nhà giáo dục
chấp nhận và đem vào giảng dạy: PTDH truyền thống và PTDH hiện đại.
1.1.3.1. Phương tiện dạy học truyền thống

13


- Theo Trần Đức Vượng, Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Đức
Vũ phân loại PTDH truyền thống gồm: tranh, ảnh, biểu đồ, sơ đồ, hình vẽ, phiếu học
tập, bảng kiến thức, lát cắt địa hình, sách giáo khoa, bản đồ giáo khoa, atlat, mô hình,

khối vật, dụng cụ, các thí nghiệm đơn giản, phòng địa lí, vườn địa lí [8], [9], [12].
Trong dạy học địa lí lớp 11, PTDH thông dụng thường tập trung một số loại sau:
tranh ảnh, biểu đồ, sơ đồ, hình vẽ, phiếu học tập, bảng kiến thức, sách giáo khoa,
bản đồ giáo khoa [13]. Trong hoạt động dạy nên chọn năm PT: bản đồ giáo khoa, sơ
đồ tư duy, sơ đồ địa lí, bảng kiến thức, bảng số liệu làm PT chính; các PT khác đóng
vai trò phối hợp và bổ trợ cho PT chính.
- Đặc điểm các PTDH truyền thống là đã có tự lâu đời được khai thác trực tiếp
mà không phải thông qua một khâu trung gian nào, rẻ tiền và dễ sử dụng. Các PTDH
truyền thống hiện nay cần trải qua cải tiến, phối hợp với các PT và PP khác để quá
trình giáo dục đạt hiệu quả hơn.
1.1.3.2. Phương tiện dạy học hiện đại
- Theo Trần Đức Vượng, Nguyễn Đức Vũ các thiết bị kỹ thuật trong dạy học
bao gồm: phim slide, bảng trong dùng cho máy chiếu, băng, đĩa ghi âm và ghi hình,
máy vi tính, phần mềm dạy học [4]. Các PT hiện đại đóng vai trò rất lớn trong việc
phối hợp với các PTDH khác.
+ Phim học tập: chiếu bóng, phim học tập trên truyền hình, phim video.
+ Các phần mềm máy vi tính mô phỏng, minh họa các hiện tượng, quá trình
địa lí, luyện tập cho HS giải bài tập và giải quyết các vấn đề học tập trên máy vi tính.
- Các thiết bị kỹ thuật dạy học có đặc điểm chung là:
+ Muốn khai thác thông tin phải có máy móc chuyên dùng.
+ Mỗi loại thiết bị kỹ thuật dạy học bao gồm hai khối: khối mang thông tin và
khối truyền tải thông tin:
Khối mang thông tin

Khối truyền tải thông tin ứng dụng

Phim silde, phim chiếu bóng

Máy chiếu slide, máy chiếu phim


Băng, đĩa ghi âm

Đầu đĩa, máy vi tính

Băng, đĩa ghi hình

Video, đầu đĩa hình, máy vi tính

Phần mềm dạy học

Máy vi tính

14


+ Phải có lưới điện quốc gia, đắt tiền gấp nhiều lần PTDH truyền thống; phải
có trình độ sử dụng và bảo quản tốt; phải có phòng ốc chuyên biệt để bảo quản và
lắp đặt.
- PTDH hiện đại, nhất là các phần mềm trong giảng dạy, rất thích hợp theo
định hướng DH phát huy năng lực người học. HS học được cách tư duy, phân tích,
tính tự giác, hứng thú học tập nơi những thiết bị PT hiện đại.
1.1.4. Mối quan hệ giữa phương tiện dạy học địa lí với các yếu tố của quá trình
dạy học
Ta có thể thấy dễ dàng PP, PT hay hình thức giáo dục phụ thuộc chặt chẽ vào mục
đích, nội dung, sự lựa chọn của nhà giáo dục và PP, hình thức PT cũng tác động
ngược trở lại các yếu tố khác. Nếu như PP tốt, phù hợp thì sẽ thúc đẩy hoạt động
giáo dục diễn ra tốt hơn. Hay nói cụ thể sẽ giúp cho mục đích, kết quả giáo dục dễ
đạt được hơn, giúp cho nội dung giáo dục dễ thực hiện hơn và cả quá trình giáo dục
của nhà giáo dục lẫn người được giáo dục cũng diễn ra thuận lợi hơn [3].
1.1.4.1. Mối quan hệ giữa phương tiện dạy học với hoạt động dạy và học

- Trong hoạt động dạy, nhà giáo đóng vai trò định hướng với nhiệm vụ chủ
yếu là thiết kế, tổ chức và tạo điều kiện để HS thực hiện việc học một cách tích cực.
Để làm được điều đó một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá trình giáo
dục đó là vận dụng các PTDH.
- GV căn cứ vào nội dung bài học, đối tượng HS rồi lựa chọn PTDH phù hợp
nhằm đạt được mục đích sư phạm. Nhờ có PTDH mà các nhiệm vụ của GV được
thực hiện một cách dễ dàng và hoạt động học của HS cũng trở nên hứng thú và nhẹ
nhàng hơn.
- GV phải bám sát vào PT, biên soạn hệ thống câu hỏi theo năng lực gắn với
PTDH để rèn luyện các năng lực chung cũng như các năng lực chuyên biệt cho HS.
Với vai trò đó, HS sẽ là người chủ động tiếp thu, lĩnh hội tri thức.
1.1.4.2. Mối quan hệ giữa phương tiện với nội dung và phương pháp dạy học
- PT, nội dung và PP luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi nội dung
hoạt động đòi hỏi phải có PT và PP thích ứng, sự xuất hiện của PT có thể làm nảy
sinh những nội dung và PP mới.
15


- PTDH là hình ảnh kép của PPDH. Từng PPDH đòi hỏi phải có PT hoạt động
phù hợp và biểu hiện bằng các hoạt động thông qua các PT cụ thể. Bởi vậy, khi nói
đến PTDH là nói đến PP sử dụng trong dạy học. Ví dụ với PP sử dụng bản đồ thì
phải có bản đồ…
1.1.4.3. Mối quan hệ giữa phương tiện dạy học với hình thức tổ chức dạy học.
- Ngoài mối quan hệ nội dung trong PT với các hình thức dạy học còn có quan
hệ với kích cỡ và số lượng các PT. Kích cỡ, số lượng các PT ảnh hưởng đến hình
thức tổ chức dạy học và ngược lại hình thức tổ chức dạy học tùy thuộc vào kích cỡ
cũng như số lượng các PTDH.
- Trong dạy học địa lí không nên sử dụng những PT có kích cỡ quá nhỏ hay
quá lớn. GV phải tùy thuộc vào hình thức dạy học để sử dụng PTDH thích hợp.
1.1.5. Các nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học trong môn địa lí 11 THPT

1.1.5.1. Sử dụng phương tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chổ
- Sử dụng PTDH có nghĩa là đưa PT vào lúc cần thiết, lúc người học mong
muốn nhất và được quan sát, gợi mở trong trạng thái tâm lý thuận lợi nhất.
+ Hiệu quả của PTDH được nâng cao rất nhiều nếu xuất hiện đúng vào lúc mà
nội dung, PP của bài học cần đến. Cần đưa vào theo trình tự bài giảng, tránh việc
trưng ra hàng loạt PT trong một tiết học hoặc biến tiết học thành phòng trưng bày,
triễn lãm. PTDH phải được đưa ra sử dụng và cất giấu đúng lúc.
+ Nếu các PTDH được sử dụng một cách tình cờ, chưa chuẩn bị trước cho
việc tiếp thu của HS thì sẽ không mang lại kết quả như mong muốn, thậm chí còn
làm tản mạn sự theo dõi của người học.
+ Với cùng một PTDH cũng cần phải phân biệt thời điểm sử dụng: Khi nào
thì được đưa vào trong giờ giảng, khi nào thì dùng trong buổi hướng dẫn ngoại khóa,
trưng bày trong giờ nghĩ…hoặc cho HS mượn về nhà quan sát.
- Sử dụng PTDH đúng chỗ tức là phải tìm vị trí để giới thiệu, trình bày trên
lớp hợp lí nhất, giúp HS có thể đồng thời sử dụng nhiều giác quan để tiếp thu bài
giảng một cách đồng đều ở mọi vị trí trên lớp.

16


+ Một yêu cầu hết sức quan trọng trong việc giới thiệu PTDH trên lớp là phải
tìm vị trí lắp đặt sao cho toàn lớp có thể quan sát rõ ràng, đặc biệt là hai hàng hs ngồi
sát hai bên tường và hàng ghế cuối lớp.
+ Vị trí trình bày PT phải đảm bảo các yêu cầu chung và riêng của nó về điều
kiện chiếu sáng, thông gió và các yêu cầu kỹ thuật riêng biệt khác.
+ Các PT phải được sử dụng ở những vị trí tuyệt đối an toàn cho GV và HS
trong và ngoài giờ giảng, đồng thời phải bố trí sao cho không ảnh hưởng đến quá
trình làm việc, học tập của các lớp khác.
+ Đối với các PT được cất tại các nơi bảo quản, phải sắp xếp sao cho khi cần
đưa đến lớp GV ít gặp khó khăn và mất thời gian.

+ Phải bố trí chổ cất giấu PT ngay tại lớp sau khi sử dụng để không làm mất
tập trung tư tưởng của HS sau khi nghe giảng.
1.1.5.2. Sử dụng phương tiện dạy học phải đúng cường độ.
Nguyên tắc này chủ yếu đề cập nội dung và PP giảng dạy sao cho thích hợp,
vừa với trình độ và lứa tuổi của HS.
- Mỗi loại PTDH có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài việc trình
diễn hoặc dùng lặp đi lặp lại một loại PT quá nhiều lần trong một buổi giảng, hiệu
quả sẽ giảm sút. Theo nghiên cứu của những nhà sinh lí học, nếu như một dạng hoạt
động được kéo dài quá 15 phút thì khả năng làm việc sẽ bị giảm sút rất nhanh.
- Việc áp dụng thường xuyên các PT nghe nhìn ở trên lớp sẽ dẫn đến sự quá
tải về thông tin do HS không kịp tiêu thụ hết khối lượng kiến thức được cung cấp.
Sự quá tải lớn về thị giác sẽ ảnh hưởng đến chức năng của mắt, giảm thị lực và ảnh
hưởng xấu đến việc dạy và học. Để đảm bảo yêu cầu về chế độ làm việc của mắt chỉ
nên sử dụng PT không quá 2-3 lần trong một tiết và mỗi lần không quá 15 phút.
Việc áp dụng có hiệu quả PTDH còn tùy thuộc vào khả năng sáng tạo, kinh
nghiệm nghề nghiệp của GV.
1.1.5.3. Sử dụng phương tiện dạy học phải theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh.

17


- Nguyên tắc này đề cao yêu cầu GV phải tổ chức và hướng dẫn HS tự khai
thác tri thức có trong PT. Luôn đề cao vai trò hoạt động chủ động, tích cực của
người học, luôn tạo điều kiện tối đa cho HS tự làm việc với các PTDH để khám phá
tìm tòi các tri thức cần thiết.
- Trong quá trình DH, hoạt động chính của GV là điều khiển định hướng, tổ
chức họat động học tập, hoạt động chính của HS là tích cực, chủ động tìm tòi tri
thức. Tuy nhiên chất lượng thu lượm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, sự phát triển nhận
thức phụ thuộc vào mức độ tích cực của hs trong quá trình học tập. Việc đổi mới PP,

tích cực sử dụng PTDH địa lí ở trường phổ thông đã được triển khai và thực hiện từ
lâu, song do nhiều yếu tố tác động nên hiện tượng GV giảng dạy chỉ tập trung vào
việc thông báo, cung cấp kiến thức một cách định sẵn hoặc chỉ dạy phục vụ thi cử
đã đi theo lối mòn. Trong xu thế giáo dục mới, đòi hỏi GV không những dạy học
phải phát huy tính tích cực mà còn phải chú ý đến rèn luyện các năng lực cho HS.
1.1.5.4. Sử dụng phương tiện phải đảm bảo tính vừa sức của học sinh.
- Nguyên tắc này yêu cầu trong quá trình GV và HS khai thác tri thức trên
PTDH, GV không nên đặt câu hỏi quá dễ hoặc quá khó. Vì câu hỏi quá dễ thì không
phát huy được tư duy của HS, các em không suy nghĩ vẫn có thể trả lời được dẫn
đến việc chủ quan.
- Nếu câu hỏi quá khó, HS không trả lời được cũng đâm ra chán nản. Do đó
khi chuẩn bị bài giảng, GV cần lựa chọn, cân nhắc để HS trên cơ sở nhận thức của
mình, nắm được tri thức, phát huy được năng lực trí tuệ.
1.1.5.5. Sử dụng phương tiện dạy học phải đảm bảo tính chính xác, khoa học, thẩm
mĩ; phải đáp ứng mục tiêu và phù hợp với nội dung của việc dạy học
- Tính khoa học sư phạm là một chỉ tiêu chính về chất lượng PTDH. Chỉ tiêu
này đặc trưng cho sự liên hệ giữa mục tiêu đào tạo và giáo dục, nội dung PTDH và
nội dung củaPT, thể hiện ở chổ:
+ PTDH phải đảm bảo cho cho HS tiếp thu được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo
tương ứng với yêu cầu của chương trình học, giúp cho GV truyền đạt một cách thuận
lợi các kiến thức, kĩ năng…làm cho HS phát triển khả năng nhận thức và tư duy
logic.

18


+ Nội dung cấu tạo của PTDH phải đảm bảo các đặc trưng của việc dạy lý
thuyết và thực hành cũng như các nguyên lí sư phạm cơ bản.
+ PTDH phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và PP giảng dạy, thúc đẩy khả
năng tiếp thu năng động của người học.

+ Các PTDH hợp thành một bộ phải có liên hệ chặt chẽ về nội dung, bố cục
và hình thức trong đó mỗi cái phải có vai trò và chổ đứng riêng.
+ Các PTDH phải phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức môi trường sư phạm.
Đó là tính thẩm mỹ.
+ PTDH phải đảm bảo tỉ lệ cân xứng, hài hòa về đường nét.
+ PTDH phải đảm bảo làm cho thầy trò thích thú khi sử dụng, kích thích HS
tính ham học hỏi, làm cho HS nâng cao cảm thụ chân, thiện, mỹ.
1.1.5.6. Khai thác tối đa chức năng của phương tiện dạy học có sẵn. Đồng thời luôn
tích cực tìm tòi, tự tạo các phương tiện để phục vụ cho quá trình dạy học địa lí
- Sự phối hợp PTDH hiện đại và các PPDH truyền thống để xây dựng nên các
PTDH tích cực dùng trong dạy học là phương thức làm thay đổi cách dạy từ “lấy
GV làm trung tâm” sang PPDH “lấy HS làm trung tâm”.
+ Đây cũng là phương thức gây ảnh hưởng có chủ định đến hành vi học tập
và quá trình học tập của HS, tạo ra môi trường và những điều kiện để HS duy trì việc
học tập và kiểm soát quá trình, kết quả học tập của mình, đây chính là động lực thúc
đẩy đổi mới PP giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được sự kết hợp này,
GV không nên kết hợp một cách máy móc, khiên cưỡng mà phải tùy thuộc vào điều
kiện, đối tượng và môi trường giáo dục.
+ Những GV giảng dạy lâu năm, có kinh nghiệm nên kết hợp các PTDH truyền
thống với PTDH hiện đại. Những GV trẻ nên tiếp cận với PTDH và PPDH hiện đại
để chuẩn bị cho tương lai.
- GV cũng nên tích cực tìm tòi, sáng tạo những PTDH phục vụ cho quá trình
giảng dạy Địa lí. PTDH tự làm là PT do thầy sưu tầm hay thiết kế, chế tạo. GV cần
lưu ý:

19


+ Phải đảm bảo các yêu cầu chung của PTDH : tính khoa học, thẩm mỹ, kinh
tế…

+ Trước tiên, cần khai thác và tận dụng các PTDH có sẵn. Việc tự làm PTDH
chỉ nên được khuyến khích khi nó tạo hiệu quả giáo dục lớn hơn các PTDH có sẵn.
+ Cần tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn, dễ tìm để giảm giá thành PTDH.
Vệ sinh sạch sẽ các PTDH trước khi sử dụng để đảm bảo tính vệ sinh, an toàn trước
khi sử dụng.
+ Khuyến khích HS tham gia tự làm PTDH để giúp các em nắm chắc, nhớ lâu
bài học, rèn luyện tình yêu lao động, sự khéo léo của các em.
1.1.6. Định hướng chung sử dụng phương tiện dạy học địa lí.
Trên cơ sở phân tích các vái trò, chức năng của PTDH dưới góc độ các quan
điểm của lí luận DH và của tâm lí học tập, có thể rút ra định hướng chung về mặt PP
cho việc sử dụng PPDH Địa lí ở trường THPT:
- Ở các khâu khác nhau của quá trình DH cần sử dụng phối hợp các PTDH
trên các bình diện khác nhau của hoạt động nhận thức: trực quan trực tiếp, trực quan
gián tiếp, nhận thức ngôn ngữ.
- Gắn việc sử dụng PTDH với các hoạt động trí tuệ - thực tiễn của HS, tạo ra
các kích thích đa dạng…phù hợp với quá trình thu nhận và xử lí thông tin của
HS…kích thích sự tranh luận tích cực của HS về đối tượng nhận thức.
- Việc sử dụng PTDH trong quá trình hình thành và vận dụng kiến thức phải
góp phần làm sáng tỏ tính biện chứng giữa cái chung và những cái riêng, cái giống
nhau và cái khác nhau của các hiện tượng, quá trình địa lí.
- Việc sử dụng các PTDH phải góp phần làm tăng tính chính xác và tính hệ
thống của kiến thức mà HS lĩnh hội. Cụ thể, việc sử dụng PTDH thích hợp sẽ tái
hiện lại cảm tính mà HS đã tri giác trong đời sống hàng ngày để không những vận
dụng vốn kinh nghiệm mà còn nhằm phát hiện mà góp phần khắc phục cái sai lầm
của HS[3].

20


1.2 Sử dụng phối hợp các phƣơng tiện trong dạy học địa lí

1.2.1. Quan niệm sử dụng phối hợp các PTDH
- Theo từ điển Tiếng Việt “Phối hợp là cùng nhau làm một kế hoạch cụ thể đã
được vạch ra để đạt được mục đích chung” [7].
- Trong đề tài này, tôi quan niệm rằng: “sử dụng phối hợp các PTDH là kết
hợp, khai thác các PTDH một cách hợp lí, có chủ định về ý đồ sư phạm của GV để
tạo một tổ hợp các PTDH xác định, khả thi đối với nội dung cụ thể, phù hợp với đối
tượng HS và môi trường dạy học thực tế”.
- Trong dạy học ở các trường THPT hiện nay, GV đã được đào tạo và vận
dụng vào thực tiễn giảng dạy rất nhiều PTDH hiện đại cũng như phát huy những
điểm mạnh của những PTDH truyền thống. Việc phối hợp các PTDH nhằm nâng
cao hiệu quả giờ lên lớp cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và cũng có một
số GV áp dụng nhưng cơ sở lí lí luận chưa rõ ràng.
Mặt khác, sự phát triển của công nghệ thông tin đang diễn ra mạnh mẽ. Sự
phát triển này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của giáo dục vì nó cung cấp
cho ngành sư phạm rất nhiều PTDH hiện đại. Sử dụng tích cực các PTDH này trong
DH sẽ phát huy tính tích cực và hứng thú cho HS đồng thời nâng cao chất lượng
giảng dạy. Đồng thời với sự bổ trợ của công nghệ thông tin và các thiết bị hiện đại
trong giảng dạy là cách thức hiệu quả trong rèn luyện những năng lực thiết yếu mà
xã hội cần, đồng thời HS cũng trao dồi được những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống.
1.2.2. Ý nghĩa việc sử dụng phối hợp các phương tiện trong dạy học phát huy năng
lực học sinh.
- Sử dụng phối hợp các PTDH có mối liên hệ khăng khít trong địa lí, giúp HS
tư duy địa lí gắn liền với thực tiễn. Ví dụ: các kiến thức địa lí được chọn lọc và trình
bày trong bài giảng bằng ngôn ngữ viết, còn các sơ đồ, bản đồ phản ánh chúng bằng
ngôn ngữ bản đồ. Sử dụng phối hợp giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ bản đồ làm cho
việc phản ánh thực tế địa lí sinh động hơn, đầy đủ hơn, giúp cho việc nhận thức thực
tế địa lí dễ dàng hơn, sâu sắc hơn.
- Sử dụng phối hợp các PTDH trong Địa lí giúp HS có cái nhìn khái quát về
đặc điểm sự vật – hiện tượng mà nội dung bài học đề cập trong sách giáo khoa. Ví
20



dụ: các sơ đồ, bản đồ trong sách giáo khoa giúp HS nhìn bao quát được các hiện
tượng diễn ra trong khoảng không gian rộng lớn trên trái đất mà HS không thể tri
giác trực tiếp được.
- Nhiều PT phối hợp với nhau, HS không những nắm bắt được đặc điểmbên
ngoài của sự vật – hiện tượng mà còn khai thác, thiết lập bản chất bên trong của các
đối tượng. PTDH giúp HS mở rộng khái niệm không gian, khái niệm địa lí, cho phép
HS thiết lập các mối quan hệ tương hỗ và nhân quả giữa các hiện tượng, trong các
quá trình tự nhiên, kinh tế - xã hội. Phát triển tư duy logic, năng lực quan sát, đồng
thời hình thành trong người học thế giới quan biện chứng.
Ví dụ: các sơ đồ, lược đồ tham gia hình thành trong HS các quy luật phân bố
của các đối tượng địa lí, quy luật phân bố lực lượng sản xuất, quy luật phân công lao
động theo lãnh thổ, khai thác hợp lí nguồn tài nguyên và chống ô nhiễm môi
trường…[13]. Loại hình này nếu được phối hợp sử dụng với các loại hình bản đồ
khác như bản đồ giáo khoa treo tường, tranh ảnh địa lí, bản đồ câm thì kết quả học
tập địa lí còn tăng lên gấp bội.
- Dạy học phải gắn liền với liên hệ thực tiễn, đó là cách dạy vừa ghi nhớ kiến
thức vừa đào tạo tư duy HS. Các PTDH, khi tiến hành giảng dạy nhất thiết phải liên
hệ thực tiễn, phối hợp các PT với nhau là đẩy mạnh quá trình liên hệ thực tiễn, không
liên hệ với thực tiễn thì tri thức không được củng cố vững chắc.
1.3. Năng lực phát triển
1.3.1. Khái niệm
Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực có thể coi là một tên gọi
khác hay một mô hình cụ thể hóa của chương trình định hướng kết quả đầu ra, một
công cụ để thực hiện giáo dục định hướng điều khiển đầu ra. Trong chương trình
dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu dạy học của môn học được mô tả
thông qua các nhóm năng lực.
- Theo John Erpenbeck “năng lực coi tri thức làm cơ sở, được sử dụng như
khả năng, được quy định bởi giá trị, được tăng cường qua kinh nghiệm và được thực

hiện hóa qua chủ định” [2].

21


- Weinert (2001) định nghĩa: “năng lực là những kĩ năng và kĩ xảo học được
hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn
sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách
có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt” [2].
- Khái niệm năng lực có nguồn gốc tiếng la – tinh có nghĩa là gặp gỡ. Ngày
nay, khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa song cách hiểu thông dụng nhất
là:
Năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và trách nhiệm các hành động,
giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong
các tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm, cũng
như sẵn sàng hành động [1], [2].
1.3.2. Chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực.
- Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực, còn gọi là DH định
hướng kết quả đầu ra, được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày
nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng
lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học [1], [2].
- Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình giáo dục định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là
“sản phẩm cuối cùng” của quá trình giáo dục. Việc quản lí chất lượng dạy học chuyển
từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”.
1.3.3. Mức độ thể hiện năng lực của học sinh trong môn Địa lí
1.3.3.1. Năng lực chung trong dạy học định hướng phát triển năng lực
- Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi…làm nền
tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp [1].
- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhằm bồi dưỡng và phát huy

cho HS 9 năng lực chung sau đây:

22


Năng lực
chung

Biểu hiện
Xác định nhiệm vụ học tập có tính đến kết quả học tập trước đây
và định hướng phấn đấu tiếp; mục tiêu học được đặt ra chi tiết.

1. Năng lực
tự học

Đánh giá và điều chỉnh kế hoạch học tập; hình thành cách học tập
riêng; tìm nguồn tài liệu phù hợp với nhiệm vụ học tập khác nhau.
Tự điều chỉnh những hạn chế của bản thân trong quá trình học tập;
biết vạch kế hoạch điều chỉnh cách học để nâng cao chất lượng
học tập.
Phân tích, phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học
tập, trong cuộc sống.

2. Năng lực
giải quyết
vấn đề

Thu thập và làm rõ các thông tin có liên quan đến vấn đề; đề xuất
và phân tích được giải pháp giải quyết.
Thực hiện, đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; suy ngẫm cách

thức, tiến trình giải quyết vấn đề. Điều chỉnh và vận dụng trong
bối cảnh mới.
Đặt câu hỏi có giá trị để làm rõ các tình huống và những ý tưởng
trừu tượng; xác định và làm rõ thông tin, ý thức mới và phức tạp
từ các nguồn thông tin khác nhau; phân tích các nguồn thông tin
độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý tưởng mới.
Xem xét sự vật với những góc độ khác nhau; hình thành và kết nối
các ý tưởng; nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi
của bối cảnh; đánh giá rủi ro và có dự phòng.

3. Năng lực
sáng tạo

4. Năng lực
tự quản lí

Lập luận về quá trình suy nghĩ, nhận ra yếu tố sáng tạo trong các
quan điểm trái chiều; phát hiện được các điểm hạn chế trong quan
điểm của mình; áp dụng điều đã biết trong hoàn cảnh mới.
Say mê; nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và cuộc sống;
không sợ sai; suy nghĩ không theo lối mòn; tạo ra yếu tố mới dựa
trên những ý tưởng khác nhau.
Đánh giá được ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến hành động,
việc làm của mình, trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày;
làm chủ được cảm xúc của bản thân trong học tập và cuộc sống.
Bước đầu biết làm việc học tập theo thời gian biểu; nhận ra được
những tình huống an toàn hay không an toàn trong học tập và trong
cuộc sống hàng ngày.

23



Nhận ra và tự điều chỉnh được một số hạn chế của bản thân trong
học tập, lao động và sinh hoạt, ở nhà, ở trường.
Diễn tả được một số biểu hiện bất thường của cơ thể; thực hiện
được một số hành động vệ sinh và chăm sóc sức khỏe bản thân;
nhận ra được và không tiếp cận với những yếu tố ảnh hưởng xấu
tới sức khỏe, tinh thần trong gia đình và ở trường.
Xác định được mục tiêu giao tiếp với đối tượng phù hợp, bối cảnh
giao tiếp; dự kiến được thuận lợi, khó khăn để đạt được mục đích
trong giao tiếp.
5. Năng lực
giao tiếp

Chủ động trong giao tiếp; tôn trọng, lắng nghe có phản ứng tích
cực trong giao tiếp.
Lựa chọn nội dung, ngôn ngữ phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng
giao tiếp; biết kiềm chế; tự tin nói trước đông người.

Chủ động đề xuất mục đích hợp tác để giải quyết một vấn đề do
bản thân và những người khác đề xuất; lựa chọn hình thức làm
việc nhóm với quy mô phù hợp với nhu cầu và nhiệm vụ.
Tự nhận trách nhiệm và vai trò của mình trong hoạt động chung
của nhóm; phân tích được các công việc cần thực hiện để hoàn
thành nhiệm vụ đáp ứng được mục đích chung, đánh giá khả năng
của mình có thể đóng góp thúc đẩy hoạt động của nhóm.
6. Năng lực Phân tích được khả năng của từng thành viên để tham gia đề xuất
hợp tác
phương án phân công công việc; dự án phương án phân công, tổ
chức hoạt động hợp tác.

Theo dõi tiến độ hoàn thành công việc của từng thành viên và cả
nhóm để điều hòa hoạt động phối hợp; khiêm tốn tiếp thu sự góp
ý và nhiệt tình chia sẽ, hỗ trợ các thành viên khác.
Căn cứ vào mục đích hoạt động của nhóm để tổng kết kết quả đạt
được; đánh giá mức độ đạt mục đích của cá nhân và của nhóm và
rút kinh nghiệm cho bản thân và góp ý cho từng người trong nhóm.
7. Năng lực Lựa chọn và sử dụng hiệu quả các thiết bị ICT để hoàn thành
sử dụng công nhiệm vụ cụ thể; hiểu được các thành phần của hệ thống mạng để
nghệ thông
kết nối, điều khiển và khai thác các dịch vụ trên mạng; tổ chức và
tin và truyền lưu trữ dữ liệu an toàn và bảo mật trên các bộ nhớ khác nhau với
thông
những định dạng khác nhau.

24


×