Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần nhựa an thịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.83 KB, 134 trang )

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 1

Khoa kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật công nghệ. Nền kinh tế của mỗi quốc gia cần được mở
rộng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Mỗi quốc gia đã và đang “ mở cửa”
nền kinh tế, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế.
Trước xu thế tất yếu của thời đại ngày nay, nền kinh tế Việt Nam đã và đang
tích cực hơn nữa việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Chúng ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế với phương châm hoạt
động trong nền kinh tế:
“Việt Nam sãn sàng làm bạn với các nước trên thế giới, với mục tiêu cả
hai bên cùng có lợi và tôn trọng quyền độc lập dân tộc dân chủ của nhau”.
Việc mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển từ
bên ngoài và phát huy thế mạnh kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về
công nghệ sản phẩm…tăng cường mở rộng liên doanh, liên kết. Quá trình hợp
tác là cơ sở là tiền đề tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển
vươn lên bắt kịp trình độ tiến bộ trên thế giới. Để làm được điều này trong mỗi
quốc gia nền kinh tế phải là nền kinh tế thị trường – cạnh tranh phát triển.
Việt Nam trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự cạnh tranh gay
gắt. Mỗi doanh nghiệp ngoài việc tạo uy tín trên thị trường, tìm cách tiết kiệm
chi phí hạ giá thành sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp thì
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm góp phần quan trọng
vào sự thành công của doanh nghiệp.
Quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là nội dung quan trọng
hàng đầu của doanh nghiệp sản xuất. Để đạt được mục tiêu tiết kiệm chi phí và
tăng lợi nhuận của công ty, công việc hạch toán chi phí và tính giá thành phải
được thực hiện phản ánh chính xác, đầy đủ kịp thời tình hình phát sinh chi phí


Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 2

Khoa kinh tế

sản xuất ở từng bộ phận cũng như toàn doanh nghiệp gắn với các loại chi phí
sản xuất khác nhau trong từng loại sản phẩm. Việc tính toán chính xác kịp thời
giá thành của từng loại sản phẩm được sản xuất sẽ cung cấp thông tin kịp thời
cho nhà quản lý.
Doanh nghiệp muốn đạt mục tiêu của mình trong sản xuất kinh doanh thì
phải bỏ ra những chi phí nhất định đó là các chi phí trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất doanh nghiệp phải tiêu hao các
loại vật tư, nguyên vật liệu, nhiên liệu hao mòn máy móc thiết bị công cụ dụng
cụ và trả lương cho công nhân viên. Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm doanh
nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí như bao gói sản phẩm, chi phí vận
chuyển, bảo quản .......
Từ gốc độ của doanh nghiệp có thể thấy chi phí của doanh nghiệp là toàn
bộ các khoản chí phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác.
Vì vậy doanh nghiệp cần quản lý chí phí nếu chi phí không hợp lý, không đúng
với thực chất điều đó sẽ gây ra những khó khăn trong quản lý và làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp và vấn đề quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp, các
nhà quản trị là phải kiểm soát được chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp.
Sau một thời gian thực tập và tìm hiểu tại Công ty Cổ phần Nhựa An
Thịnh dưới sự hướng dẫn tận tình của cán bộ trong Công ty và cô giáo Nguyễn
Thị Hồng Nga em xin chọn chuyên đề : “Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí

sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Nhựa An Thịnh”
cho bài chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung đề tài gồm :
Chương 1: Lý luận chung về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 3

Khoa kinh tế

Chương 2: Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Nhựa An Thịnh.
Chương 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Nhựa An Thịnh.
Trong quá trình thực tâp, mặc dù được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của
cán bộ trong Công ty và cô giáo Nguyễn Thị Hồng Nga đã giúp em hoàn thiện
đề tài này, nhưng vì thời gian còn hạn và kiến thức chuyên môn của bản thân
còn hạn chế nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong
nhận được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô và các cán bộ trong phòng kế toán
Công ty để bài chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp



Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 4

Khoa kinh tế

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.
1.1 LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1.1 CHI PHÍ SẢN XUẤT.
1.1.1.1 Khái niệm chi phí sản xuất.
Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Quá
trình sản xuất, sản phẩm; hàng hoá là quá trình kết hợp của các yếu tố: đối
tượng lao động, tư liệu lao động, sức lao động. Để tiến hành sản xuất hàng hoá
người sản xuất phải bỏ ra các chi phí về trả thù lao cho người lao động, tư liệu
lao động, và đối tượng lao động. Mọi hao phí cho quá trình sản xuất đều được
đo bằng tiền, việc dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị của các tư liệu sản
xuất và giá trị sức lao động đã tiêu hao cho quá trình sản xuất đó được gọi là chi
phí sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp thực chất là việc sản xuất ra các sản phẩm theo yêu cầu của
thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Để đạt được mục đích này thì các doanh
nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Do vậy để tồn tại và phát triển kinh
doanh mang lại lợi nhuận thì buộc các doanh nghiệp phải giảm đến mức tối
thiểu các chi phí của mình bỏ ra trong quá trình sản xuất. * Chí phí sản xuất: là
toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hoá và các chi phí khác mà
doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến việc chế tạo sản phẩm , lao vụ dịch vụ trong
một kỳ nhất định được biểu hiện bằng tiền.


Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 5

Khoa kinh tế

Trong đơn vị sản xuất, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có
những chi phí không có tính chất sản xuất vì vậy chúng ta cần phân biệt chi phí
và chi tiêu.+ Có những chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất mới được
gọi là chi phí sản xuất vật tư, tiền vốn trong doanh nghiệp không kể nó được
dùng vào việc gì.
+ Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật
thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có
chi phí. Chi phí và chi tiêu có sự khác nhau về lượng và thời điểm phát sinh, có
những khoản chi tiêu ở kỳ này nhưng chưa được tính và chi phí ( như : mua
nguyên vật liệu chưa sử dụng ngay mà đưa vào nhập kho) và các những khoản
tính và chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu ( như các chi phí trích trước).
1.1.1.2 Phân loại chi phí sản xuất.

Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp

bao gồm nhiều loại có tính chất, công dụng kinh tế và yêu cầu quản lý khác
nhau. Để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất, tập hợp chi phí riêng biệt vì vậy cần phải phân loại chi phí
sản xuất. Xuất phát từ yêu cầu, mục đích quản lý khác nhau mà chi phí sản xuất
được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại,

từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định sản xuất theo từng loại sẽ
nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán là cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu
giảm chi phí. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu: * Phân loại theo yếu
tố(nội dung của chi phí): Phân loại theo yếu tố là căn cứ vào nội dung kinh tế
để phân loại. Theo quy định hiện hành, toàn bộ chi phí được chia thành các yếu
tố sau:
- Yếu tố chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật
liệu chính, phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,.. sử dụng vào sản xuất
kinh doanh (trừ số nhập không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 6

Khoa kinh tế

- Yếu tố chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ các khoản tiền lương, phụ
cấp lương các khoản trích trên lương và chi phí sản xuất trong kỳ phục vụ cho
quá trình sản xuất
- Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ
phải tính trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng trong sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ
mua ngoài dùng cho sản xuất kinh doanh.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh vào các yếu tố chi phí trên dung vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ.
Tác dụng : biết được kết cấu tỷ trọng của từng yếu tố chi phí trong tổng chi phí

của doanh nghiệp để xác định nhu cầu vốn hợp lý.
Là cơ sở để lập thuyết minh báo cáo tài chính về chi phí sản xuất theo yếu tố.
Là cở sở để phân tích dự toán chi phí lập dự toán chi phí cho kỳ sau
* Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí (theo khoản
mục) Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công
dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này
ta căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các
khoản mục khác nhau, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có
cùng mục đích và công dụng không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế
như thế nào. Vì vậy cách phân loại này còn gọi là cách phân loại theo khoản
mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các mục chi
phí như sau:+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất tạo ra sản phẩm.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 7

Khoa kinh tế

+ Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản
phải trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định(19%) của
công nhân trực tiếp sản xuất.
+ Chi phí sản xuất chung: Bao gồm chi phí liên quan đến quản lý phục vụ sản
xuất chung ở các bộ phận phân xưởng sản xuất, tổ , đội sản xuất như:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng, đội

+ Chi phí nguyên vật liệu.

+ Chi phí công cụ, dụng cụ.

+ Chi phí

khấu hao TSCĐ
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài (chỉ dùng cho phân xưởng) + Chi phí bằng
tiền.
Công dụng: sắp xếp những chi phí có cùng công dụng vào một khoản
mục không quan tâm đến nội dung tính chất chi phí.
Các khoản mục chi phí( chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí SXC) là 3 khoản
mục chi phí sản xuất tạo nên giá thành sản xuất sản phẩm.
Ngoài 3 khoản mục chi phí trên nếu tính giá thành toàn bộ của sản phẩm
tiêu thụ còn có thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Tác dụng: Với cách phân loại chi phí này là cơ sở tập hợp chi phí tính giá thành
sản phẩm theo khoản mục chi phí
Là cơ sở để phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, tình hình
thực hiện định mức chi phí
Là cơ sở xây dựng kế hoạch giá thành sản phẩm cũng như việc xác định mức
cho kỳ sau.
* Phân loại chi phí theo mối liên hệ quan hệ với sản lượng sản xuất:
Chi phí bất biến( chi phí cố định): là những chi phí có đặc điểm tổng chi
phí cố định không thay đổi khi sản lượng thay đổi nhưng chi phí cố định tính
cho một đơn vị sản phẩm không thay đổi. Như chi phí khấu hao tài sản cố định,
chi phí thuê nhà xưởng, chi phí nhân viên phân xưởng
Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp



Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 8

Khoa kinh tế

Chi phí khả biến( chi phí biến đổi): là những chi phí có đặc điểm tổng chi
phí biến đổi khi sản lượng thay đổi( tỷ lệ thuận) nhưng chi phí biến đổi tính cho
một đơn vị sản phẩm không thay đổi. Như chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
* Phân loại chi phí theo mối liên hệ quan hệ với lợi nhuận
Chi phí thời kỳ : là chi phí phát sinh nó làm giảm bớt lợi nhuận kinh
doanh trong kỳ của doanh nghiệp nó bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản
lý doanh nghiệp
Chi phí sản phẩm: là các khoản mục chi phí khi phát sinh tạo thành giá
trị của vật tư, tài sản hoặc thành phẩm và nó được coi là một loại tài sản lưu
động của doanh nghiệp và chỉ trở thành phí tổn khi hàng hoá sản phẩm được
tiêu thụ.
* Phân loại chi phí theo đối tượng tập hợp chi phí và phương pháp tập hợp
chi phí. Chi phí trực tiếp: chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi
phí.
Chi phí gián tiếp: Chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí xong
phải phân bổ. Thông thường chi phí sản xuất chung là chi phí gián tiếp.Tác
dụng: dùng xem cơ cấu có hợp lý không. Dùng cho công tác quản lý
1.1.2 Giá thành sản phẩm
1.1.2.1Khái niệm giá thành sản phẩm.

Trong hoạt động sản xuất kinh

doanh khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất một loại sản phẩm thì doanh
nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

đó, có nghĩa là doanh nghiệp phải xác định được giá thành sản phẩm. Giá thành
sản phẩm thực chất là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm nhất
định đã hoàn thành trong kỳ gọi là tổng giá thành hay tính cho một đơn vị sản
phẩm hoàn thành gọi là giá thành đơn vị sản phẩm.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 9

Khoa kinh tế

Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả của
việc sử dụng tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trính sản xuất kinh
doanh. Giá thành còn là căn cứ quan trọng để xác định giá bán và xác định hiệu
quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Phân loại về giá thành sản phẩm.
Muốn sử dụng chỉ tiêu giá thành vào quản lý, hạch toán và xây dựng kế
hoạch giá thành cũng như yêu cầu của việc xây dựng giá cả sản phẩm lao vụ
dịch vụ hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ và phạm vi tính
toán khác nhau.
Nếu căn cứ và cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành, có 3 loại giá thành sau:
+ Giá thành kế hoạch: Là giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế
hoạch và sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch này chủ yếu do phòng kế
hoạch lập
Giá thành kế hoạch

=


Tổng chi phí sản xuất kế hoạch
Tổng sản lượng kế hoạch

Giá thành kế hoạch là mục tiêu mà doanh nghiệp cần phải đạt được và nó
là căn cứ giúp cho việc tổ chức công tác phân tích tình hình thực hiện công tác
giá thành.
+ Giá thành định mức: Là giá thành được xây dựng trên cơ sở định mức kinh
tế kỹ thuật hiện hành và chỉ cho một đơn vị sản phẩm.
Dựa vào định mức chi phí cho một đơn vị sản phẩm mà người ta có thể
dễ dàng hơn trong việc lập kế hoạch giá thành.
Tác dụng của giá thành định mức là căn cứ thực hiện tiết kiệm trong sử dụng
vật tư tiền vốn của doanh nghiệp.
Được xác định trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời
điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 10

Khoa kinh tế

hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất
sản phẩm.
+ Giá thành thực tế: Là giá thành sản phẩm do phòng kế toán tính toán dựa
trên chi phí sản xuất thực tế và sản lượng thực tế được xác định.
Căn cứ để tính giá thành thực tế căn cứ vào chi phí sản xuất thực tế phát sinh và

khối lượng thực tế hoàn thành
Tác dụng : làm căn cứ để xác định kết quả thực tế
Là một trong những căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch
* Căn cứ vào phạm vi và các chi phí cấu thành
+ Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản
ánh tất cả những chi phí phát sinh có liên quan đến việc sản xuất chế tạo sản
phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất, tổ đội sản xuất.
Giá thành sản xuất = Chi phí NVLTT + Chi phí NCTT + Chi phí SXC
+ Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ): Là chỉ tiêu phản ánh
toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá
thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước thuế thu
nhập của doanh nghiệp.
Giá thành toàn bộ

= Giá thành sản xuất

+

Chi phí bán

hàng
1.1.2.3 Bản chất và chức năng nhiệm vụ của giá thành sản phẩm.

+

Chi phí
QLDN

* Bản chất của giá thành: Nói đến bản chất của giá thành sản phẩm tức là
nói đến nội dung kinh tế chứa đựng bên trong của chỉ tiêu giá thành. Điểm qua

lịch sử về lý luận giá thành, ta có thể thấy bản chất của giá thành thông qua các
quan điểm sau:
- Quan điểm cho rằng giá thành là sự hao phí lao động sống và lao động
vật hoá được dùng để sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hoặc một khối lượng sản
phẩm nhất định.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 11

Khoa kinh tế

- Quan điểm cho rằng giá thành sản phẩm là toàn bộ các khoản chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bất kể nó nằm ở bộ phận
nào trong các bộ phận cấu thành giá trị sản phẩm.
- Một quan điểm khác cho rằng giá thành là biểu hiện mối liên hệ tương
quan giữa một bên là chi phí sản xuất, một bên là kết quả đạt được trong từng
giai đoạn nhất định.
Ta có thể rút ra kết luận về bản chất của phạm trù giá thành như sau:
+ Bản chất của giá thành: là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố vật chất
vào sản phẩm, công việc lao vụ nhất định đã hoàn thành. Nếu chưa có sự dịch
chuyển này thì không thể nói đến chi phí và giá thành sản phẩm. Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, giá thành sản phẩm bao gồm toàn bộ các khoản hao
phí vật chất thực tế cần thiết được bù đắp, bất kể nó thuộc bộ phận nào trong
cấu thành giá trị sản phẩm.
Hạch toán giá thành chính là tính toán, xác định sự chuyển dịch các yếu tố
vật chất vào khối lượng sản phẩm vừa thoát ra khỏi quá trình sản xuất và tiêu

thụ nhằm mục đích thực hiện các chức năng của giá thành sản phẩm.
* Chức năng của giá thành:
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng, tổng hợp. Nó phản ánh
chất lượng hoạt động của công tác sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là
công cụ quan trọng để nhà quản lý nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất.
Nhằm có căn cứ xem xét tính chất quan trọng của chỉ tiêu giá thành trong công
tác quản lý kinh tế, cần nghiên cứu các chức năng vốn có của chỉ tiêu giá thành.
- Chức năng thước đo bù đắp chi phí: Giá thành sản phẩm biểu hiện những
hao phí vật chất mà các doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Những hao phí vật chất này cần được bù đắp một cách đầy đủ, kịp thời để đảm
bảo yêu cầu tái sản xuất và đây đã trở thành một vấn đề quan tâm đầu tiên của
các doanh nghiệp bởi hiệu quả kinh tế được biểu hiện trước hết ở chỗ doanh
Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 12

Khoa kinh tế

nghiệp có khả năng bù lại những gì mình đã bỏ ra hay không. Đủ bù đắp là khởi
điểm của hiệu quả và là yếu tố đầu tiên để xem xét hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Chức năng lập giá: Giá cả sản phẩm được xây dựng trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết, biểu hiện mặt giá trị sản phẩm. Khi xây dựng giá cả
thì yêu cầu đầu tiên là giá cả có khả năng bù đắp hao phí vật chất để sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm cho các doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất bình
thường có thể bù đắp được hao phí để thực hiện quá trình tái sản xuất. Để thực
hiện được yêu cầu bù đắp hao phí vật chất thì khi xây dựng giá cả phải căn cứ

vào giá thành sản phẩm. Việc đưa ra các định mức hao phí trong giá thành sản
phẩm có ý nghĩa rất tích cực khi sử dụng giá thành làm căn cứ để lập giá.
- Chức năng đòn bẩy kinh tế: lợi nhuận của doanh nghiệp cao hay thấp phụ
thuộc trực tiếp vào giá thành sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm là biện pháp cơ
bản để tăng cường lợi nhuận tạo nên tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Phấn đấu
hạ thấp giá thành bằng các phương pháp cải tiến tổ chức sản xuất và quản lý,
hoàn thiện công nghệ sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất là hướng cơ bản để
các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện nền kinh tế có cạnh
tranh. Cùng với phạm trù kinh tế khác như giá cả, lãi, chất lượng, giá thành sản
phẩm thực tế đã trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy các doanh
nghiệp tăng cường hiệu quả kinh doanh phù hợp với nguyên tắc hạch toán kinh
doanh trong điều kiện cơ chế thị trường.
Hơn nữa, trong sản xuất kinh doanh, giá thành là chỉ tiêu phản ánh giới hạn
chi phí để tính toán, lựa chọn những phương án sản xuất tối ưu, do vậy trong
hạch toán kinh tế cần tính đúng, tính đủ giá thành dựa trên cơ sở khách quan.
Về lý luận cũng như trên thực tế, giá thành sản phẩm không chấp nhận tất cả
các chi phí sản xuất mà chỉ chấp nhận những chi phí cần thiết trong sản xuất.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 13

Khoa kinh tế

Đây là một trong những đặc điểm quan trọng của giá thành mà khi tính toán,
người làm công tác quản lý cần nắm rõ.
Như vậy, chúng ta đều thấy được chi phí, giá cả, giá thành, lợi nhuận là

những phạm trù kinh tế khách quan. Chúng tồn tại gắn liền với sự tồn tại của
quan hệ hàng hoá - tiền tệ và là đòn bẩy kinh tế quan trọng của quản lý kinh tế,
đồng thời chúng hợp thành một hệ thống thống nhất có mối quan hệ mật thiết
và tác động qua lại lẫn nhau trong nền kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay công tác kế toán giá thành có ý nghĩa
và nhiệm vụ quan trọng:
Ý nghĩa của kế toán giá thành sản phẩm: Kế toán giá thành xác định đầy
đủ chính xác các loại chi phí từ đó xác định giá thành thực tế của sản phẩm làm
cơ sở để xác định giá bán.
+ Kế toán giá thành góp phần quản lý một cách chặt chẽ, từ đó tiết kiệm
được vật tư nhân công góp phần làm giảm giá thành tăng lợi nhuậ cho doanh
nghiệp.
Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:
+ Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp và yêu cầu của công tác quản
lý.
+ Tổ chức hạch toán các tài khoản kế toán để hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho mà
doanh nghiệp đã lựa chọn.
+ Tổ chức đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang khoa học hợp lý, xác
định giá thành và hạch toán giá thành sản xuất trong kỳ một cách đầy đủ chính
xác.
+………….
1.1.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 14


Khoa kinh tế

* Giống nhau:
Chúng đều là hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà doanh
nghiệp bỏ ra.
Chi phí biểu hiện về hao phí còn giá thành về kết quản của quá trình sản xuất
đây là 2 mặt thống nhất của một quá trình. Vì vậy chúng giống nhau về chất.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu có quan hệ mật thiết
với nhau, thể hiện ở hai mặt:
- Xét về mặt nội dung: Giá thành sản phẩm sản xuất được tính trên cơ sở
chi phí sản xuất đã tập hợp và số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ báo cáo.
Nội dung giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất được tính cho số lượng và cho
loại sản phẩm.
* Khác nhau:
- Xét về mặt kế toán: Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm phân xưởng là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau.
Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác nhau rõ
rệt. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm khác nhau về phạm vi, chi phí sản
xuất gắn với 1 chu kỳ sản xuất, còn giá thành sản phẩm gắn với từng loại nhóm
sản phẩm nhất định.
- Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là hao phí lao động sống và
lao động vật hoá nhưng tính trong chỉ tiêu giá thành sản phẩm thì chỉ tính
những hao phí cho sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Nếu chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm giống nhau về chất thì chúng lại khác nhau về lượng. Do bộ
phận chi phí giữa các kỳ không đều nhau nên chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm có sự khác nhau về lượng.
Trên thực tế, tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ và tổng giá thành thường không
thống nhất với nhau là vì chi phí sản xuất dở dang đầu và chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ


Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 15

Khoa kinh tế

trong một kỳ thường khác nhau. Có thể phản ánh mối quan hệ giữa CPSX và giá thành sản
phẩm qua sơ đồ sau:

CPXS dở dang đầu kỳ
Tổng giá thành sản phẩm

CPSX phát sinh trong kỳ
CPSX dở dang cuối kỳ

Vậy ta có:
Tổng giá thành
SP hoàn thành

=

CPSXDD
đầu kỳ

+

CPSX phát

sinh trong kỳ

-

CPSXDD
cuối kỳ

Khi giá trị SPDD( CPSXDD) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản
xuất không có SPDD thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng CPSX phát sinh
trong kỳ.
Tóm lại, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết,
hữu cơ với nhau, mối quan hệ này phản ánh tác động tích cực của công việc
ứng dụng khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý vào sản xuất, nên muốn đạt
được thành công trong quá trình quản lý sản xuất phải đưa ra những nguyên tắc
kinh tế - kế toán vào công tác quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm.
1.2 Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm.
1.2.1 Đối tượng tập hợp chi phí.
Chi phí sản xuất phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất bao gồm nhiều
loại, mỗi loại mang một nội dung kinh tế, công dụng khác nhau và phát sinh tại
những địa điểm và thời gian khác nhau. Chi phí sản xuất phát sinh sẽ được tập
hợp theo những địa điểm phát sinh chi phí hoặc theo một phạm vi, giới hạn nào
đó.
Như vậy, việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là
việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh
chi phí và nơi chịu chi phí.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp



Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 16

Khoa kinh tế

Muốn xác định được đối tượng tập hợp chi phí, người ta thường căn cứ
vào đặc điểm quy trình công nghệ, vào loại hình sản xuất kinh doanh hay vào
yêu cầu và trình độ quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh. Việc xác định đối
tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất một cách khoa học, hợp lý, có ý nghĩa rất
quan trọng cho việc tổ chức kế toán chi phí sản xuất từ việc tổ chức hạch toán
ban đầu cho đến việc mở các tài khoản, các sổ chi tiết và tổng hợp số liệu.
1.2.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Đây là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác xác định giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp. Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm gắn liền
với cơ cấu tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ chủ yếu phục vụ cho việc
kiểm tra và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng bộ phận trong mối
liên hệ với việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất các loại sản phẩm cuối cùng đạt
hiệu quả tối ưu. Song đối tượng tính giá thành còn phục vụ cho việc phân phối
chi phí và xác định kết quả kinh doanh trong những trường hợp nhất định, nên
không thể có đối tượng tính giá thành cho những kết quả khó có thể xác định
hoặc xác định một cách thiếu chính xác. Ngoài ra, đối tượng tính giá thành phải
thống nhất, trùng hợp với đối tượng lập giá cả cho từng sản phẩm, chi tiết sản
phẩm. Tuỳ vào từng loại hình sản xuất, vào đặc điểm quy trình công nghệ hay
vào đặc điểm cung cấp, sử dụng của từng loại sản phẩm đó mà đối tượng tính
giá thành có thể là thành phẩm hoặc bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
Đơn vị tính giá thành phải là đơn vị được thừa nhận trong nền kinh tế thị
trường. Đơn vị tính giá thành thực tế cần thống nhất với đơn vị tính giá thành kế
hoạch của doanh nghiệp.
Tóm lại đối tượng tính giá thành sản phẩm là các loại sản phẩm, công
việc, lao vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành đòi hỏi phải tính tổng

giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 17

Khoa kinh tế

1.2.3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành.
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất được xác định là căn cứ để tổ
chức công tác ghi chép ban đầu, để mở sổ chi tiết, tập hợp chi phí sản xuất (chi
tiết theo từng đối tượng) ... giúp cho công tác quản lý chi phí sản xuất và phục
vụ việc tính giá thành.
Còn việc xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán mở các
thẻ tính giá thành, tổ chức công tác tính giá thành theo đối tượng... giúp cho
doanh nghiệp kiểm tra quản lý tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và tính
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy vậy giữa chúng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định hợp lý
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là tiền đề, là điều kiện để tính giá thành. Trên
thực tế, một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể trùng với một đối tượng
tính giá thành. Trong trường hợp khác, một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
lại bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành và ngược lại một đối tượng tính giá
thành cũng có thể bao gồm nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất .
+ Đối tượng tập hợp chi phí bằng đối tượng tính giá thành.
Ví dụ : một phân xưởng chỉ sản xuất 1 loại sản phẩm duy nhất.
+ Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất nhưng có nhiều đối tượng tính

giá thành.
Ví dụ: Phân xưởng 1 sản xuất nhiều loại sản phẩm ( sản phẩm A, sản phẩm B,
sản phẩm C…) đối tượng tính giá thành là các sản phẩm A, B, C…
+ Nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất nhưng chỉ có một đối tượng
tính giá thành.
Ví dụ: Một sản phẩm phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất( mà doanh
nghiệp chỉ quan tâm đến sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng) khi đó

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 18

Khoa kinh tế

mỗi công đoạn là một đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành là sản
phẩm ở giai đoạn cuối cùng.
+ Nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và có nhiều đối tượng tính giá
thành.
Ví dụ: một sản phẩm phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất, doanh
nghiệp cần thông tin về giá thánh bán thành phẩm hoàn thành tại các giai đoạn –
khi đó mỗi công đoạn là một đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành
là các bán thành phẩm hoàn thành ở các giai đoạn.
Căn cứ để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng
tính giá thành có thể dựa vào một số cơ sở sau:
* Căn cứ vào quy trình công nghệ sản xuất ra sản phẩm quy trình công
nghệ giản đơn hay phức tạp.
+ Với quy trình công nghệ giản đơn: Đối tượng hạch toán chi phí sản

xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất( nếu sản xuất 1loại sản
phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm( nếu sản xuất nhiều loại sản phẩm trong
cùng một quá trình sản xuất). Đối tượng tính giá thành là các sản phẩm cuối
cùng.
+ Với quy trình sản xuất phức tạp: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc
nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm…Đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở
giai đoạn cuối cùng hay các bán thành phẩm ở từng giai đoạn chế tạo.
* Căn cứ vào loại hình sản xuất đơn chiếc hàng loạt nhỏ hay sản xuất
hàng loạt với khối lượng lớn.
+ Với sản phẩm đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng hạch toán
chi phí sản xuất là từng sản phẩm hay các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối
tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 19

Khoa kinh tế

+ Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: đối tượng hạch toán chi phí
có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công
nghệ…Đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm cuối cùng hay bán thành
phẩm ở các giai đoạn.
1.3 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh.
1.3.1 Theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh

tình hình hiện có, biến động tăng giảm chi phí sản xuất một cách thường xuyên,
liên tục trên các tài khoản phản ánh chi phí sản xuất.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 20

Khoa kinh tế

1.3.1.1 Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ( CPNVLTT).
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, nửa thành phẩm mua ngoài dùng trực tiếp cho
sản xuất, chế tạo sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong kỳ, kế toán căn cứ vào các chứng từ xuất kho vật tư và phương
pháp tính giá vật liệu xuất dùng để tính ra giá trị thực tế vật liệu xuất dùng. Sau
đó căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định để tập hợp
CPNVLTT. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập
hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương
pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu
thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ
số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm. Công thức phân bổ như sau:
Chi phí vật liệu phân
bổ cho từng đối tượng

=

Tổng chi phí vật liệu

*
Tổng tiêu thức phân bổ

Tiêu thức phân bổ
của từng đối tượng

Để tập hợp CPNVLTT dùng trong kỳ, kế toán sử dụng TK 621"
CPNVLTT"
TK 621
- Trị giá thực tế NVL sử

-Trị giá NVL dùng không

dụng trực tiếp cho việc hết được nhập lại kho.
chế tạo sản phẩm.

– Kết chuyển trị giá NVL thực
tế sử dụng cho sản xuất kinh doanh
trong kỳ vào TK 154.
- Kết chuyển CPNVLTT vượt định
Mức vào TK 632

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 21

Khoa kinh tế


Tài khoản 621 mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và cuối
kỳ không có số dư.
Biểu 1.1:

SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN TỔNG HỢP CPNVLTT
Tk 152

TK 621

Vật liệu xuất kho sử dụng
Trực tiếp cho sản xuất sản phẩm

TK 152

Vật liệu sử dụng không hết nhập
lạikho.

TK 111; 112,141,331

Tk 154

Mua vât liệu sử dụng ngay cho
Sản xuất sản phẩm

Cuối kỳ phân bổ và kết chuyển
CPNVLTT theo đối tượng tập hợp
Chi phí

TK133


Tk 632

Thuế GTGT được

Chi phí NVL vượt mức bình

Khấu trừ( nếu có)

thường.

1.3.1.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp ( CPNCTT)
- Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản phải trả cho người lao
động trực tiếp sản xuất sản phẩm, thực hiện các dịch vụ thuộc danh sách quản
lý của doanh nghiệp và lao động thuê ngoài theo từng loại công việc bao gồm:
tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp có tính chất lương( phụ cấp khu vực,
độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ...) các khoản trích theo lương (quỹ BHXH,
BHYT và KPCĐ) theo tỷ lệ quy định 19%
Trong trường hợp phải phân bổ gián tiếp, tiền lương chính của công nhân
trực tiếp sản xuất thì thường phân bổ theo tỷ lệ với tiền lương định mức hoặc
giờ công định mức. Và tiền lương phụ thường được phân bổ cho sản phẩm theo
tỷ lệ với tiền lương chính.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 22


Khoa kinh tế

Tiền lương

Tổng tiền lương chính của công nhân

chính của

cần phân bổ

CNSX phân bổ

=

Tổng tiền lương định mức của các SP

Tiền lương
*

cho SP A

Tiền lương phụ
của CNSX phân
bổ cho SP A

=

định mức
của SP A


Tổng tiền lương phụ của công nhân

Tiền

cần phân bổ

lương

Tổng tiền lương chính của các SP

*

chính của
SP A

Để hạch toán CPNCTT , kế toán sử dụng TK 622 "Chi phí nhân công
trực tiếp".
Kết cấu TK 622 như sau:
TK 622
- Chi phí NCTT tham gia - Kết chuyển hoặc phân bổ
quá trình sản xuất SP bao CPNCTT và bên Nợ TK154 chi
gồm: tiền lương, tiền công tiết cho từng đối tượng.
… các khoản trích trên tiền – Kết chuyển CPNCTT vượt
lương công theo quy định

định mức vào bên Nợ TK632

phát sinh trong kỳ.

Tương tự như việc hạch toán Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, hạch toán

Chi phí nhân công trực tiếp theo dõi chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi
phí và tài khoản TK 622 không có số dư cuối kỳ.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 23

Biểu 1.2:

Khoa kinh tế

SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CPNCTT

TK 334

TK 622

Tiền lương và phụ cấp lương
phải trả cho CNTTSX

TK 154

Kết chuyển, phân bổ CPNCTT
theo đối tượng tập hợp chi phí.

TK 335


TK632

Trích trước tiền lương nghỉ phép

chi phí nhân công trực tiếp

Của công nhân trực tiếp sản xuất.

Vượt mức bình thường.

TK 338
Các khoản trích theo lương theo tỷ
lệ quy định tính vào chi phí sản xuất
(19%)

1.3.1.3. Hạch toán chi phí sản xuất chung trong phân xưởng.
Chi phí sản xuất chung (CPSXC) là những chi phí cần thiết còn lại để sản
xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực
tiếp.
Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí liên quan đến quá trình sản
xuất trong phạm vi phân xưởng.
Chi phí sản xuất chung thường được tập hợp sau đó phân bổ cho các đối
tượng theo những tiêu thức thích hợp như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, số giờ công lao động trực tiếp…

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp



Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 24

Khoa kinh tế

Chi phí sản xuất chung được phân ra làm 2 loại: chi phí sản xuất chung cố
định và chi phí sản xuất chung biến đổi.
+ Chi phí sản xuất chung cố định: là những chi phí sản xuất gián tiếp
thường không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuât như: chi phí bảo dưỡng
máy móc, thiết bị, nhà xưởng …chi phí quản lý hành chính ở các phân xưởng,
bộ phận tổ đội sản xuất.
Chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn
vị sản xuất sản phẩm được dựa trên công suất bình thường của máy móc sản
xuất. Công suất bình thường là số lượng sản phẩm đạt ở mức trung bình trong
điều kiện sản xuất bình thường.
Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất cao hơn công suất bình thường
thì chi phí sản xuất chung cố định được phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm theo
chi phí phát sinh.
Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất thấp hơn công suất bình
thường thì chi phí sản xuất cố định được phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm theo
mức công suất bình thường phần chi phí sản xuất chung không được phân bổ
được ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ.
+ Chi phí sản xuất chung biến đổi là những chi phí sản xuất gián tiếp
thường thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp số lượng sản phẩm sản xuất
như chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp. Chi phí sản
xuất chung biến đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản
phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
Trên thực tế, CPSXC thường được phân bổ theo định mức, phân bổ theo giờ làm việc thực tế
của CNSX, theo tiền lương CNSX.

Mức CPSXC

phân bổ cho đối

Tổng CPSXC cần phân bổ cho các đối tượng
=

Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng

Tiêu thức
*

tượng A

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

phân bổ của
đối tượng A

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 25

Khoa kinh tế

Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung , kế toán sử dụng tài khoản
TK 627 " Chi phí sản xuất chung".
Kết cấu TK 627:

TK 627
- Tập hợp CPSXC thực tế - Các khoản ghi giảm

phát sinh trong kỳ

trừ CPSXC( nếu có)
- Kết chuyển( phân bổ) CPSXC
vào các đối tượng có liên quan để
tính giá thành

TK 627 cuối kỳ không có số dư do đã kết chuyển hoặc phân bổ hết cho các sản
phẩm, dịch vụ và được chi tiết thành 6 tiểu khoản cấp 2:
TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng.
TK 6272: Chi phí vật liệu.
TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất.
TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ.
TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
TK 6278: Chi phí bằng tiền khác.

Sinh viên: Tô Thị Xuân. Lớp: KT2 – Khoá 01

Chuyên đề tốt nghiệp


×