Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

CƠ sở lí LUẬN về VIỆC tổ CHỨC dạy học một số KIẾN THỨC CHƯƠNG ĐỘNG lực học CHẤT điểm vật lí 10 THPT THEO HÌNH THỨC lớp học đảo NGƯỢC NHẰM bồi DƯỠNG NĂNG lực tự học CHO HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.16 KB, 53 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC TỔ CHỨC
DẠY HỌC MỘT SỐ KIẾN THỨC
CHƯƠNG ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT
ĐIỂM VẬT LÍ 10 THPT THEO HÌNH
THỨC LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC
NHẰM BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ
HỌC CHO HS


Cơ sở lý luận
Giáo dục phổ thông ở Việt Nam đang thực hiện bước
chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp
cận năng lực của người học, có nghĩa là từ chỗ quan tâm đến
việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được
cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải
thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học
theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận
dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo
dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng
lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm
tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá
trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất
lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
Chương trình dạy học định hướng nội dung dẫn đến xu
hướng việc kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa trên việc kiểm tra
khả năng tái hiện tri thức mà không định hướng vào khả năng
vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn [15].


Do phương pháp dạy học mang tính thụ động và ít chú


ý đến khả năng ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con
người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng
động. Do đó chương trình giáo dục truyền thống không đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao
động đối với người lao động về năng lực hành động, khả năng
sáng tạo và tính năng động [15].
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất
lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển
toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận
dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị
cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc
sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của
người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
- Dạy học phát triển năng lực
Là hoạt động của học sinh dưới sự định hướng, tổ
chức của giáo viên để thực hiện các hành vi của các năng lực
nhằm hình thành, vận dụng kiến thức, kĩ năng và do đó góp
phần phát triển năng lực [15].


Dạy học định hướng phát triển năng lực về bản chất
chỉ là cần và coi trọng thực hiện mục tiêu dạy học hiện tại ở
các mức độ cao hơn, thông qua việc yêu cầu HS vận dụng
những kiến thức, kĩ năng một cách tự tin, hiệu quả và thích
hợp trong hoàn cảnh phức hợp và có biến đổi, trong học tập
cả trong nhà trường và ngoài nhà trường, trong đời sống thực
tiễn. Như vậy việc dạy học định hướng phát triển năng lực
được thể hiện ở các trong các thành tố quá trình dạy học như
sau:
Về mục tiêu dạy học: Mục tiêu kiến thức, ngoài các

yêu cầu về mức độ như nhận biết, tái hiện kiến thức cần có
những mức độ cao hơn như vận dụng kiến thức trong các tình
huống, các nhiệm vụ gắn với thực tế. Với các mục tiêu về kĩ
năng cần yêu cầu HS đạt được ở mức độ phát triển kĩ năng
thực hiện các hoạt động đa dạng. Các mục tiêu này đạt được
thông qua các hoạt động trong và ngoài nhà trường [15].
Về phương pháp dạy học: Ngoài cách dạy học thuyết
trình nhằm cung cấp kiến thức, GV cần tổ chức hoạt động dạy
học thông qua trải nghiệm, giải quyết những nhiệm vụ thực
tiễn. Như vậy thông thường, qua một hoạt động học tập, HS
sẽ được hình thành và phát triển không phải một loại năng lực


mà là được hình thành đồng thời nhiều năng lực hoặc nhiều
năng lực thành tố mà ta không cần (và cũng không thể) tách
biệt từng thành tố trong quá trình dạy học [15].
Về nội dung dạy học: Cần xây dựng các hoạt động, chủ
đề, nhiệm vụ đa dạng gắn với thực tiễn .
Về kiểm tra đánh giá: Về bản chất đánh giá năng lực
cũng phải thông qua đánh giá khả năng vận dụng kiến thức và
kĩ năng thực hiện nhiệm vụ của HS trong các loại tình huống
phức tạp khác nhau.Trên cơ sở này, các nhà nghiên cứu ở
nhiều quốc gia khác nhau đề ra các chuẩn năng lực trong giáo
dục tuy có khác nhau về hình thức, nhưng khá tương đồng về
nội hàm. Trong chuẩn năng lực đều có những nhóm năng lực
chung. Nhóm năng lực chung này được xây dựng dựa trên
yêu cầu của nền kinh tế xã hội ở mỗi nước. Trên cơ sở năng
lực chung, các nhà lí luận dạy học bộ môn cụ thể hóa thành
những năng lực chuyên biệt. Tuy nhiên không dừng ở các
năng lực chuyên biệt, các tác giả đều cụ thể hóa thành các

năng lực thành phần, những năng lực thành phần này được cụ
thể hóa thành các thành tố liên quan đến kiến thức, kĩ năng…
để định hướng quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá của GV.
Khác với việc tổ chức hoạt động dạy học, các công cụ đánh


giá cần chỉ rõ thành tố của năng lực cần đánh giá và xây dựng
được các công cụ đánh giá từng thành tố của các năng lực
thành phần [16].
- Một số phương pháp dạy học phát triển năng lực
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết
trình, đàm thoại, luyện tập luôn là những phương pháp quan
trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có
nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen
thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả
và hạn chế nhược điểm của chúng. Vì thế bên cạnh các
phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các
phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và
kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS.
Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích cực, tự lực của HS
trong quá trình thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy
học phát triển năng lực.
- Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù
hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp
và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử


dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và
hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương

hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất
lượng dạy học. Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học
hiện nay, nhiều GV đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp
thuyết trình của GV với hình thức làm việc nhóm, góp phần
tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS. Tuy nhiên hình
thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc
giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết
trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết
những nhiệm vụ lớn hơn phức tạp hơn, có thể chiếm một hoặc
nhiều tiết học, trong đó GV và HS cần sử dụng những phương
pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu
trường hợp, hay DH dự án [15].
- Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề (dạy học nêu
vấn đề, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề) là quan điểm
dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết
và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có
vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức,
thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp HS lĩnh hội tri thức, kỹ


năng và phương pháp nhận thức. Dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực
nhận thức của HS, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy
học với những mức độ tự lực khác nhau của HS. Các tình
huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn,
cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn [15].
- Vận dụng dạy học theo tình huống
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học,
trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp

gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp.
Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa
học chuyên môn, còn cuộc sống thì luôn diễn ra trong những
mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học
phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của
các môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho HS năng lực
giải quyết các vấn đề phức hợp, liên môn. Vận dụng dạy học
theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng
để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống,
góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực
tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông [15].


- Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học
nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp
chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, HS thực hiện các
nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có
sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay
chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận
toàn thể. Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của
dạy học định hướng hành động, trong đó HS tự lực thực hiện
trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn
đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản
phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận
dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý
thuyết kiến tạo, dạy học định hướng HS, dạy học hợp tác, dạy
học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình
huống và dạy học định hướng hành động [15].
- Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công

nghệ thông tin hợp lý trong dạy học
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc
đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực


quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng
các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa
phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Đa phương
tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là
phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện
và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy
học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương
tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy
học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử
(E-Learning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm
ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một
ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là
dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó HS khám phá tri thức
trên mạng một cách có định hướng [15].
- Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích
cực và sáng tạo
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của
của GV và HS trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực
hiện và điều khiển quá trình dạy học. Có những kỹ thuật dạy
học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp
dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay


người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học
phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động

não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ,...[15]
- Tăng cường các phương pháp dạy học đặc thù bộ
môn
Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với
nội dung dạy học. Vì vậy bên cạnh những phương pháp chung
có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng
các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong
dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn
được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn. Ví dụ: Thí
nghiệm là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của
các môn khoa học tự nhiên; các phương pháp dạy học như
trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu thao tác, phân tích sản
phẩm kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án là
là những phương pháp chủ lực trong dạy học kỹ thuật;
phương pháp “Bàn tay nặn bột” đem lại hiệu quả cao trong
việc dạy học các môn khoa học;…[15]
- Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho HS


Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò
quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng tạo của
HS. Có những phương pháp nhận thức chung như phương
pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức
làm việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương
pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình
thức khác nhau, cần luyện tập cho HS các phương pháp học
tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn. Mỗi GV
với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương
hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm
của cá nhân [15].

- Lớp học đảo ngược (flipped classroom)
- Khái niệm về lớp học đảo ngược
Lớp học đảo ngược là một dạng lớp học mà ở đó
người học tiếp thu nội dung bài học trực tuyến qua việc xem
các video bài giảng ở nhà còn bài tập về nhà hay bài tập thực
hành thì GV và HS cùng thảo luận và giải quyết ở trên lớp
thay vì GV giảng bài trên lớp và sau đó học sinh thực hành ở
nhà.


Có một luận điểm mà phương pháp “Flipped
Learning” có tính thuyết phục rất cao đó là khi nghe giảng,
HS được đánh giá rơi vào tình trạng “lowlevel thinking”. Và
khi ứng dụng lý thuyết làm bài tập hoặc các hoạt động học,
HS sẽ ở “high level thinking”. Nghĩa là khi HS đang bị động
tiếp thu kiến thức thì phần lớn sẽ khó suy nghĩ, tưởng tượng,
đào sâu vào kiến thức ngay trong lúc nghe giảng. Vì vậy nên
mỗi khi nghe giảng một kiến thức nào đó mà sử dụng nó đề
giải quyết bài tập, hoặc nghĩ lan man các vấn đề khác ngay
thì sẽ mất toàn bộ phần cô giáo giảng sau đó. Giải pháp mà
“Flipped Learning” đưa ra là hãy đảo ngược quá trình này.
Ở lớp học đảo ngược, thời gian trên lớp dành cho các
bài tập thực hành. HS học thông qua đặt câu hỏi và trả lời câu
hỏi cho các bạn cùng lớp. Đồng thời, người học có thể chia
nhóm và giúp đỡ lẫn nhau. Đây là một quá trình mà cả người
học ở trình độ cao và trình độ trung bình đều có lợi. Kiểu lớp
học này cũng thay đổi vai trò của GV từ “một nhà hiền triết
trên bục giảng” thành “một người hướng dẫn” và cho phép họ
làm việc với từng cá nhân hay nhóm nhỏ xuyên suốt buổi học.



- Lịch sử hình thành
Năm 1993, Alison King xuất bản công trình “From
sage on the stage to guide on the side” (Từ nhà thông thái trên
các tượng đài thành người đồng hành bên cạnh bạn). Trong
đó, King đặc biệt chú trọng vào việc GV cần sử dụng thời
gian ở lớp để tổ chức cho HS tìm hiểu ý nghĩa của bài học
hơn là truyền đạt thông tin. Mặc dù chưa đưa ra khái niệm
flipped classroom nhưng công trình của King thường được
các nhà giáo dục trích dẫn như là sự thúc đẩy và cách tân cho
phép dành không gian lớp học vào các hoạt động học tập tích
cực. Đến năm 2000, các tác giả Lage, Platt và Treglia xuất
bản công trình “Đảo ngược lớp học- cánh cửa dẫn đến sự sáng


tạo môi trường học tập trọn vẹn”, trong đó giới thiệu các
nghiên cứu về lớp học đảo ngược tại các trường cao đẳng.
Đặc biệt, người có công lớn cho mô hình flipped
classroom là Salman Khan. Năm 2004, Khan bắt đầu ghi hình
bài giảng của mình thành các video để phụ đạo cho em họ
sống ở một bang khác. Những video này được đưa lên
YouTube và rất được yêu thích. Từ đó Salman Khan thành lập
học viện Khan, cho đến nay đã có khoảng 2200 video bao
gồm tất cả các môn học, từ những kiến thức đơn giản nhất
như thực hiện phép toán số học của tiểu học đến các bài giải
tích vector trong chương trình đại học. Mỗi tháng có một triệu
người học dùng trang web của Khan, với số lượt xem khoảng
100 đến 200.000 lượt mỗi ngày. Khẩu hiệu mà học viện Khan
đưa ra đầy hấp dẫn. “Bạn chỉ cần biết một điều: bạn có thể
học mọi thứ, miễn phí, cho mọi người, mãi mãi!”

Mùa xuân năm 2007, Jonathan Bergmann và Aaron
Sams, hai GV hóa học trường THPT Woodland Park, ghi lại
những bài giảng của mình và cung cấp cho HS vì nhiều lý do
khác nhau đã không đến lớp một cách đầy đủ để theo kịp
chương trình, qua đó họ đã xây dựng mô hình flipped
classroom, làm thay đổi hoàn toàn cách dạy của GV, cách học


của HS. Jonathan và Aaron đã nhận được phần thưởng của
tổng thống vì những thành công trong mô hình flipped
classroom.
- Tính chất và vai trò của giáo viên,học sinh trong tổ
chức dạy học theo hình thức lớp học đảo ngược
- Vai trò của thầy cô và học sinh trong tổ chức dạy
học theo hình thức lớp học đảo ngược
Lớp học truyền

Lớp học đảo

thống
Vai

Giáo viên chuẩn bị

trò của thầy giáo án lên lớp.
cô giáo

ngược
Giáo


viên

làm video bài giảng.

Vai trò của giáo viên

“Một người

được ví như “một nhà hiền hướng

dẫn”

cho

triết trên bục giảng” giảng phép họ làm việc
dạy cho cả lớp xuyên suốt với từng cá nhân
buổi học.
Người thầy là người
truyền đạt kiến thức mới
cho học sinh.

hay nhóm nhỏ học
sinh xuyên suốt buổi
học.
Người

thầy


là người định hướng

việc tìm hiểu kiến
thức mới cho học
sinh thông qua các
Tốn nhiều thời gian video bài giảng đã
cho việc soạn, chỉnh sửa chuẩn bị sẵn.
giáo án.

Tiết

kiệm

thời gian, mỗi video
Không

chủ

động

được về thời gian và không
gian
- Không có hoặc rất
ít thời gian trợ giúp học sinh
yếu kém.

bài giảng làm một
lần dùng cho nhiều
lớp, nhiều lần.
Hoàn

toàn


chủ động được về
thời gian và không
gian.
- Có nhiều
thời gian trợ giúp
học sinh, giúp học
sinh yếu kém cần
hiểu bài hoặc HS tư


duy tốt mở rộng
kiến thức. Hướng
vào dạy học cá thể.
Nhi

HS bị động tiếp thu

HS chủ động

ệm vụ của kiến thức nên rất khó suy tiếp thu kiến thức
học sinh

nghĩ,tưởng tượng đào sâu
kiến thức ngay trong lúc
nghe giảng.
Buổi học bắt đầu với
việc học sinh chuẩn bị làm
bài tập về nhà buổi trước.


Buổi học bắt
đầu với việc học

HS nghe giảng và sinh xem trước
video bài giảng để
ghi chép bài trên lớp.
hiểu kiến thức mới.
HS được giao bài tập
HS

về nhà để luyện tập.

nghe

giảng tại nhà qua
video
HS lên lớp
HS bị động trong để thực hành và


việc nghiên cứu, tìm hiểu lý thảo luận với giáo
thuyết.

viên và các bạn
cùng lớp.
HS chủ động
trong việc nghiên
cứu, tìm hiểu lý
thuyết, HS có thể
GV là trung tâm


tiếp cận video bất
cứ lúc nào.
HS là trung
tâm

Hoạt động trí não
của HS được mô tả


Chủ động về
Hạn chế về thời gian không gian học
học tập.
thông qua video.
Xem lại nội dung
bài giảng nhiều lần,
phù hợp với tốc độ
và mức độ hiểu bài
của học sinh.
- Có nhiều
cơ hội tương tác với
giáo viên và bạn
- Ít có cơ hội tương cùng lớp.
tác với giáo
cùng lớp.

viên và bạn


- Môi trường học tập của việc tổ chức dạy học theo

hình thức lớp học đảo ngược
Lớp học truyền thống
Một buổi lên lớp sẽ bắt đầu với việc GV chuẩn bị bài
giảng lên lớp và HS chuẩn bị làm bài tập về nhà buổi trước.
Bài mới sẽ được giảng trong giờ trên lớp và thừa một chút
thời gian sẽ làm làm bài tập luyện tập tại lớp. Như vậy, hầu
hết việc giảng và nghe giảng ước chừng đã tốn khoảng 90%
thời gian, 10% thời gian còn lại là luyện tập trên lớp dành cho
cảGV và HS.
Lớp học đảo ngược
HS xem các bài giảng ở nhà qua mạng. Giờ học ở lớp
sẽ dành cho các hoạt động hợp tác giúp củng cố thêm các khái
niệm đã tìm hiểu.
HS sẽ chủ động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu lý
thuyết hơn, HS có thể tiếp cận video bất kỳ lúc nào, có thể
dừng bài giảng lại, ghi chú và xem lại nếu cần (điều này là
không thể nếu nghe GV giảng dạy trên lớp). Công nghệ


eLearning giúp HS hiểu kỹ hơn về lý thuyết từ đó sẵn sàng
tham gia vào các buổi học nhóm, bài tập nâng cao tại giờ học
của lớp.
Điều này giúp việc học tập hiệu quả hơn, giúp người
học tự tin hơn.
Lớp học đảo ngược khiến việc giảng dạy phải lấy
người học làm trung tâm. Thời gian ở lớp được dành để khám
phá các chủ đề sâu hơn và tạo ra những cơ hội học tập thú vị.
Những video giáo dục trực tuyến được thiết kế để truyền tải
nội dung tập trung vào lý thuyết. Ngoài ra, nội dung của lớp
học đảo ngược có thể xây dựng ở nhiều hình thức khác nhau

(thậm chí có thể sử dụng nội dung của đơn vị cung cấp phía
ngoài).
- Hình thức kiểm tra, đánh giá của việc tổ chức dạy
học theo hình thức lớp học đảo ngược
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết
quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến
thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết
quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng
sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau.


Hay nói cách khác, đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ
trong bối cảnh có ý nghĩa.
- Nội dung dạy học của việc tổ chức dạy học theo hình
thức lớp học đảo ngược
Ở lớp học đảo ngược, thời gian trên lớp dành cho các
bài tập thực hành. HS học thông qua đặt câu hỏi và trả lời câu
hỏi cho các bạn cùng lớp. Công việc trên lớp của thầy và trò
sẽ chỉ còn ở dừng ở việc giải đáp các khó khăn, thắc mắc của
HS về bài học, thầy giáo hướng dẫn học sinh đào sâu kiến
thức, thực hiện các hoạt động nhóm phù hợp cũng như dành
nhiều thời gian hơn trong việc luyện tập và tư duy ….. quá
hấp dẫn và hứng thú cho cả thầy lẫn trò. Đây là một quá trình
mà cả người học ở trình độ cao và trình độ trung bình đều có
lợi.
- Vai trò của lớp học đảo ngược trong việc đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay
Theo mô hình lớp học đảo ngược, HS xem các bài
giảng ở nhà qua mạng. Giờ học ở lớp sẽ dành cho các hoạt
động hợp tác giúp củng cố thêm các khái niệm đã tìm hiểu.



HS sẽ chủ động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu lý
thuyết hơn, HS có thể tiếp cận video bất kỳ lúc nào, có thể
dừng đề nghe lại bài giảng, ghi chú và xem lại nếu cần (điều
này là không thể nếu nghe GVgiảng dạy trên lớp). Công nghệ
eLearning giúp HS hiểu kỹ hơn về lý thuyết từ đó sẵn sàng
tham gia vào các buổi học nhóm, bài tập nâng cao tại giờ học
của lớp[12].
Điều này giúp việc học tập hiệu quả hơn, giúp người
học tự tin hơn.
Lớp học đảo ngược khiến việc giảng dạy phải lấy
người học làm trung tâm. Thời gian ở lớp được dành để khám
phá các chủ đề sâu hơn và tạo ra những cơ hội học tập thú vị.
Những video giáo dục trực tuyến được thiết kế để truyền tải
nội dung tập trung vào lý thuyết. Ngoài ra, nội dung của lớp
học đảo ngược có thể xây dựng ở nhiều hình thức khác nhau
(thậm chí có thể sử dụng nội dung của đơn vị cung cấp phía
ngoài).
Lớp học đảo ngược cho phép GV dành thời gian nhiều
hơn với từng cá nhân HS chưa hiểu kỹ bài giảng . Và tại lớp
học, HS có thể chủ động làm chủ các cuộc thảo luận.


Phương pháp lớp học đảo ngược này có tính khả thi
cao đối với HS có khả năng tự học, có kỷ luật và ý chí. Hiệu
quả của phương pháp đã được kiểm chứng từ lâu ở nhiều
quốc gia có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ như Australia,
Mỹ và các nước châu Âu…[12]
Ở lớp học cổ điển, HS đến trường ngồi nghe giảng bài

thụ động và hình thức này được giới chuyên môn gọi là Low
thinking. Sau đó HS về nhà làm bài tập và quá trình làm bài
tập sẽ khó khăn nếu HS không hiểu bài. Lúc này cha mẹ HS
sẽ phải đóng vai người thầy bất đắc dĩ để giúp con mình làm
bài và hầu hết đều không thành công trong vai trò này, hoặc
rất vất vả vì phụ huynh không có chuyên môn [12].


×