Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tiềm năng và định hướng phát triển du lịch huyện Nga Sơn – tỉnh Thanh Hóa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 79 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
----------

LÊ THỊ HIỀN

TIỀM NĂNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU
LỊCH HUYỆN NGA SƠN – TỈNH THANH HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, xử lý số liệu mặc dù gặp phải rất nhiều
khó khăn nhưng đến nay khóa luận của tôi cũng đã hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ nhiều người.
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Xuyên đã trực tiếp hướng dẫn và
theo sát tôi trong quá trình để hoàn thành khóa luận.
Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới quý thầy cô trong khoa Lịch sử
đã giúp đỡ tôi nhiệt tình với những ý kiến, kinh nghiệm quý báu góp phần cho việc hoàn
thành đề tài này. Xin gửi lời cảm ơn đến Phòng học liệu khoa Lịch Sử, Phòng văn hóa và
thông tin huyện Nga Sơn, UBND huyện Nga Sơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
việc thu thập tài liệu cần thiết để thực hiện đề tài. Cảm ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của gia
đình và bạn bè để tôi có thể có những điều kiện tốt nhất để hoàn thành đề tài.
Mặc dù bản thân tôi đã cố gắng, nỗ lực trong quá trình thực hiện đề tài nhưng
chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Vì vây, tôi kính mong nhận được sự góp ý chân thành
của thầy cô, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng tháng 5 năm 2012
Sinh viên thực hiện


Lê Thị Hiền


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là ngành kinh tế xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Nó được mệnh danh là:
“Ngành công nghiệp không khói” và có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của
con người. Du lịch đang phát triển mạnh mẽ, mang lại hiệu quả kinh tế cao, được rất
nhiều các quốc gia đầu tư phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vấn đề phát triển du lịch
sao cho xứng với vị trí và vai trò của ngành du lịch lại càng trở nên cần thiết. Những năm
gần đây, hoạt động du lịch của nước ta diễn ra hết sức sôi động và có nhiều đóng góp tích
cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần thực hiện chính sách đổi
mới về đối ngoại và kinh tế đối ngoại..
Thanh Hóa – một vùng đất địa linh nhân kiệt, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ xâm lược. Là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam, nằm ở vị
trí cửa ngõ nối liền Bắc bộ và Trung bộ. Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng du lịch rất lớn,
với những thắng cảnh nổi tiếng, những di tích lịch sử văn hóa có giá trị. Đây chính là
tiềm năng to lớn có tác dụng giáo dục truyền thống yêu đất nước và phát triển du lịch của
tỉnh.
Huyện Nga Sơn nằm ở cực Đông Bắc tỉnh Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá
42km. Đây được coi là miền đất gọi về cội nguồn, dải đất dầm mình bên chân sóng này
từng in dấu những chiến công và kỳ tích phi thường trong suốt chiều dài dựng nước và
giữ nước vẻ vang của dân tộc còn ghi lại qua những di tích lịch sử như: Chiến khu Ba
Đình, đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ nữ tướng Lê Thị Hoa…Bên cạnh đó nơi đây còn
có nhiều tiềm năng du lịch nhân văn và tự nhiên khác. Con người nơi đây hiền hòa, chịu
thương, chịu khó và rất hiếu khách. Ngày nay, hòa chung với công cuộc đổi mới của cả
nước và tỉnh Thanh Hóa, Nga Sơn đang vươn mình phát triển và định hướng của huyện
trong những năm tới là khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch và dịch vụ.



Tiềm năng du lịch ở Nga Sơn rất phong phú và hấp dẫn. Tuy nhiên, hầu như tất cả
những di tích, danh thắng quý báu này chưa được chú trọng phát triển đúng mức nên
ngành kinh tế này còn chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Nhiều tài
nguyên du lịch chưa được đầu tư quy hoạch để phát triển, nhiều giá trị du lịch nhân văn
bị lẵng quên.
Do vậy, việc nghiên cứu những tiềm năng du lịch huyện Nga Sơn là vấn đề cần thiết
nhằm đưa ra những định hướng, giải pháp để thúc đẩy du lịch địa phương này phát triển.
Đồng thời nó cũng góp phần làm cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc
hơn về quê hương mình, từ đó thêm yêu quý, biết bảo tồn và phát huy truyền thống đó
nhằm làm cho huyện Nga Sơn ngày càng giàu đẹp. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho
những ai quan tâm đến Nga Sơn có thêm tư liệu và cũng có thể dùng nó quảng bá cho du
lịch Nga Sơn với du khách gần xa.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, cùng mong muốn góp một phần
công sức nhỏ bé của mình cho du lịch địa phương, tôi chon đề tài: “Tiềm năng và định
hướng phát triển du lịch huyện Nga Sơn – tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nước ta chỉ mới chú trọng phát triển du lịch trong thời gian gần đây nên việc
nghiên cứu, tìm hiểu về du lịch nhằm góp phần đưa ngành du lịch trở thành một ngành
mũi nhọn của đất rất được quan tâm. Với những công trình nghiên cứu như: “Cơ sở địa lý
du lịch”, “Địa lý du lịch”, “Tổ chức lãnh thổ du lịch”, “Xây dựng chỉ tiêu phân vùng du
lịch Việt Nam”…
Trên địa bàn Thanh Hóa chưa có nhiều công trình nghiên cứu về du lịch, đặc biệt
là nghiên cứu về du lịch huyện Nga Sơn. Tuy nhiên, tỉnh cũng đã xây dựng được các
trang web để quảng bá sản phẩm du lịch của Thanh Hóa đến bạn bè trong nước và quốc
tế.
Trong cuốn “ Non nước Việt Nam” (2009) do Tổng cục du lịch soạn thảo, các tác
giả đã giới thiệu khái quát về tỉnh và tiềm năng du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Trong đó có
nhắc đến một địa danh nổi tiếng của Nga Sơn, đó là Động Từ Thức.



Cuốn “ Di sản văn hóa xứ Thanh” của Nguyễn Văn Hảo và Lê Thị Vinh, nhà xuất
bản Thanh Niên, năm 2003. Đã nói đến đền và bia thờ một nữ tướng của Nga Sơn đó là
bà Lê Thị Hoa – người đã góp sức rất lớn cho Hai Bà Trưng.
Tác giả Trần Mạnh Thường trong cuốn “ Việt Nam văn hóa và du lịch”, nhà xuất
bản Thông Tấn, năm 2005 đã nêu lên một số thắng cảnh ở Thanh Hóa và nêu lên nét văn
hóa của vùng đất Thanh Hóa. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề mà chỉ
dừng lại ở mức độ giới thiệu một số nét văn hóa và thắng cảnh. Trong đó có hai điểm du
lịch ở Nga Sơn đáng chú ý là Động Từ Thức và lễ hội Mai An Tiêm.
Ở cuốn “ Lễ hội văn hóa và du lịch Việt Nam” của Nguyễn Huyền Trang sưu tầm
và biên soạn, đã giới thiệu khá toàn diện về các lễ hội ở Thanh Hóa. Trong tất cả các lễ
hội đó tác giả không thể không nhắc đến lễ hội Mai An Tiêm, với sự tích quả dưa hấu đỏ.
Đây trở thành miền tự hào của người dân Nga Sơn.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu
được cho người đọc và du khách một số điểm du lịch tiêu biểu, còn nhiều điểm du lịch
khác chưa được đề cập đến. Bên cạnh đó, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể giá
trị, thực trạng du lịch ở huyện Nga Sơn. Đặc biệt là chưa đưa ra được những định hướng
hay giải pháp nhằm thúc đẩy du lịch tại địa phương này phát triển.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về du lịch, từ thực tiễn của du lịch huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa. Đề tài tìm hiểu, phân tích, đánh giá tiềm năng du lịch huyện Nga Sơn, từ đó đưa ra
những định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần cho sự phát triển du lịch
huyện Nga Sơn. Đề tài cũng góp phần tuyên truyền và nâng cao ý thức của người dân
trong việc phát triển du lịch địa phương. Đây cũng là nguồn kiến thức, thông tin tham
khảo thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách,mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao
mức sống cộng đồng địa phương, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển du lịch
theo hướng bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu



Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến du lịch, từ lí tưởng đến thực tiễn du lịch
huyện Nga Sơn . Qua đó khẳng định được vai trò của du lịch đối với sự phát triển của
kinh tế xã hội huyện Nga Sơn.
Tìm hiểu tiềm năng du lịch huyện Nga Sơn từ tài nguyên du lịch tự nhiên đến tài
nguyên du lịch nhân văn. Đánh giá tình hình hoạt động du lịch, tình hình khai thác, tình
hình đầu tư và các chính sách phát triển du lịch của huyện Nga Sơn.
Từ thực trạng du lịch huyên Nga Sơn, đề tài đưa ra những định hướng và đề xuất
một số giải pháp góp phần vào việc phát triển du lịch của huyện trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của vấn đề đề tài là tất cả những tài nguyên du lịch về tự
nhiên và nhân văn trên địa bàn huyện Nga Sơn nhằm phục vụ cho hoạt động du lịch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Tiến hành đi thực địa tại các địa điểm có tài nguyên du lịch trên địa
bàn huyện để thu thập tài liệu, đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển của chúng
nhằm phát triển du lịch. Đó là tiến hành đi thực địa tại các xã: Nga Thiện, Nga Điền, Nga
Phú, Nga Thái, Nga Tân, Nga Tiến, Nga An…
Nội dung: Tìm hiểu tiềm năng du lịch huyện Nga Sơn để phát triển du lịch. Trên
cơ sở đó đưa ra những định hướng chung và cụ thể, đề xuất một số giải pháp nhằm khai
thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch ở địa phương.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Việc tìm hiểu tài nguyên du lịch và đánh giá hiện trạng du lịch ở Việt Nam là vấn
đề thường được nhắc đến nhưng ở huyện Nga Sơn thì chưa có tài liệu nào nêu ra cụ thể.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, tôi đã tiến hành khai thác một số nguồn tài liệu sau:
-

Tài liệu thành văn:


+ Sách chuyên ngành
+ Các bài viết trên báo chí
+ Các tài liệu thành văn và các báo cáo của tỉnh, huyện


-

Tài liệu thực địa: Nguồn tài liệu này rất quan trọng cho đề tài. Nhờ công tác thực

địa, tôi có cơ hội tìm hiểu một cách sâu sắc và có một cái nhìn khách quan hơn về thực
trạng du lịch của huyện.
-

Tài liệu điện tử: Trong quá trình làm đề tài, tôi cũng thường xuyên tìm kiếm thông

tin trên các trang thông tin điện tử như:
+ Http:// www. Vietnamtourism.com.vn
+ Http://www.svhttdl.thanhhoa.gov.vn
+ Http://www.ngason.gov.vn
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp điều tra và phân tích số liệu
Để thực hiện đề tài này, tôi tiến hành phương pháp khảo sát, đánh giá tiềm năng và
hiện trạng du lịch của huyện Nga Sơn. Đây là một công việc hết sức cần thiết, quan trọng
và phức tạp với việc thu thập, điểu tra và xử lý số liệu.
Nguồn số liệu thu thập được từ các cơ quan và sau đó được xử lý, phân tích để làm
rõ tiềm năng, sư phát triển của du lịch trong toàn huyện Nga Sơn như thế nào để đưa ra
những định hướng và đề xuất một số giả pháp thích hợp cho từng vùng.
5.2.2. Phương pháp thực địa
Tiến hành khảo sát thực địa tại các điểm du lịch tự nhiên và nhân văn, các làng

nghề để quan sát, thu thập thông tin và đánh giá tiềm năng du lịch của địa phương. Qúa
trình thực địa sẽ giúp cho việc sưu tầm, thu thập tài liệu được phong phú thêm. Từ đó
giúp cho việc nghiên cứu đạt được kết quả khách quan và chính xác hơn.
5.2.3. Phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp
Đây là phương pháp nhằm định hướng, thống kê các đối tượng quy hoạch, phân
tích mối tương quan để phát hiện ra các yếu tố trong hệ thống lãnh thổ du lịch và sự tác
động qua lại giữa chúng, đánh giá số lượng của các yếu tố. Từ đó mà có được những
nhận định đúng đắn và mang tính khách quan. Kết quả của các phương pháp này là cơ sở
khoa học cho việc xây dựng, thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển,
định hướng, chiến lược quy hoạch phát triển du lịch đạt hiệu quả cao.
5.2.4. Phương pháp chuyên gia


Trong quá trình nghiên cứu, tôi tranh thủ sự góp ý của chính quyền các xã, huyện
và một số cán bộ trong việc nghiên cứu du lịch để vận dụng vào việc nghiên cứu nhằm
đạt kết quả cao hơn. Công việc này đã rút ngắn quá trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ
sung vào các phương pháp khác nhằm thực hiện đề tài một cách hoàn thiện nhất.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống du lịch huyện Nga Sơn trên các
phương diện: Tiềm năng, thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển du lịch cho địa
phương.
Đồng thời nghiên cứu đề tài này có thể góp phần thêm vào việc khai thác các tiềm
năng sẵn có nhằm định hướng cho việc xây dựng các công trình du lịch trong tỉnh, các
quy hoạch mang tính bền vững nhằm phát huy nguồn lực và các sản phẩm du lịch chính
để phát triển du lịch của địa phương.
Bên cạnh đó, đây là nguồn tư liệu mới góp phần giới thiệu du lịch huyện Nga Sơn
đối với du khách gần xa, là nguồn tư liệu giúp các nhà đầu tư và quy hoach du lịch sử
dụng khi cần thiết.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của đề tài gồm

có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch huyện Nga Sơn – tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Định hướng phát triển du lịch huyện Nga Sơn và đề xuất một số giải pháp


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH
1.1.

Một số khái niệm chung

1.1.1. Khái niệm về du lịch
Từ xa xưa, trong lịch sử nhân loại, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu
được trong đời sống văn hóa – xã hội, hoạt động du lịch đang được phát triển mạnh mẽ
và ngành công nghiệp không khói này trở thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.
Thuât ngữ du lịch rất thông dụng, được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là
đi một vòng. Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành Tornus và sau đó thành “Tourisme”
( Tiếng Pháp), “Tourism” (Tiếng Anh).
Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch được thông qua tiếng Hán. Du lịch có nghĩa là
đi chơi, lịch có nghĩa là sự từng trải. Tuy nhiên, người Trung Quốc gọi du lịch là du lãm
với ý nghĩa đi chơi để nhận thức.
Do hoàn cảnh (thời gian và khu vực) khác nhau, dưới góc độ nghiên cứu khác
nhau, mỗi người có những cách hiểu nhau về du lịch.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc, hoạt động du lịch là tổng hòa hàng loạt quan hệ
và hiện tượng lấy sự tồn tại, phát triển kinh tế xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ thể du
lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hóa, tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp ở
Rôma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “ Du lịch là tổng hợp các

mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và
lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước
họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”.
Theo Pirogiơnic (1985) thì: “ Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong
thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú tường
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bênh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ


nhận thức – văn hóa thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế văn
hóa ”.
Theo điều 4, pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành ngày 05/05/2005 thì: “Du lịch
là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ dưỡng trong
mật thời gian nhất định”. [20; tr.2]
Khi nghiên cứu các định nghĩa khác nhau về du lịch, chúng ta có thể nhận thấy sự
biến đổi trong nhận thức về nội dung thuật ngữ du lịch. Từ thực tế cuộc sống có thể cho
chúng ta thấy rằng, do sự phát triển của xã hội và nhận thức, các từ ngữ thường có nhiều
nghĩa, đôi khi trái ngược nhau. Như vậy, có gắng giải thích đơn vị các từ đa nghĩa bằng
cách gộp các nội dung khác nhau vào một định nghĩa sẽ làm cho khái niệm trở nên khó
hiểu và không rõ ràng. Dựa trên cách tiếp cận trên có thể tách thuật ngữ du lịch thành hai
phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:
+ Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rãnh rỗi của cá nhân
hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức về thế
giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế,
văn hóa, dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng.
+ Một số lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn các nhu cầu nảy sinh
trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá
nhân, tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại
chỗ về thế giới xung quanh.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung của khái niệm có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự

phát triển của du lịch. Cho đến nay, không ít người, thậm chí cả cán bộ, nhân viên đang
làm trong ngành du lịch chỉ cho rằng du lịch là một ngành kinh tế. Điều đó cũng có thể
đồng nghĩa với việc tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội để kinh doanh.
Trong khi đó du lịch còn là một hiện tượng xã hội góp phần nâng cao trình độ dân trí,
phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tình đoàn kết… Chính vì vậy, toàn
xã hội phải có trách nhiệm đống góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển.
1.1.2. Khái niệm về khách du lịch


“Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, từ trường hợp đi học,
làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. [18, tr.2]
1.1.2.1.

Khái niệm khách du lịch quốc tế

“ Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam
ra nước ngoài du lịch”. [20, tr.4]
Khái niệm khách du lịch nội địa

1.1.2.2.

Theo điều 20, chương 4 – Pháp lệnh du lịch Việt Nam 1999 “Khách du lịch nội
địa là công dân Việt Nam và nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam”. [20, tr.4]
1.1.3. Tuyến du lịch
“ Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch gắn với các tuyến giao thông
đường bộ, đướng sắt, đường thủy, đường không”. [18, tr.2]
-Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch quốc
gia:

Nối kết các khu du lịch, điểm du lịch, trong đo có khu du lịch, điểm du lịch quốc
gia, có tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối các cửa khẩu.
Có biện pháp bảo vệ cảnh quan môi trường và cơ sở phục vụ khách du lịch dọc
tuyến.
- Tuyến du lịch có đủ điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch địa
phương:
Nối kết các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phương.
Có biện pháp bảo vệ cảnh quan môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch
dọc tuyến.
1.1.4. Điểm du lịch
Theo khoản 8, điều 4, chương I – Luật du lịch Việt Nam năm 2005: “Điểm du lịch là
nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của du khách du lịch”.
[18, tr2]
-

Các điều kiện để công nhận là điểm du lịch:


+ Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch quốc gia:
Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.
Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo hoạt động phục vụ
ít nhất 100.000 lượt khách tham quan một năm.
+ Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch địa
phương:
Có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.
Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo hoạt động phục vụ
ít nhất 10.000 lượt khách thăm quan một năm.
1.1.5. Sản phẩm du lịch
Điều 4 chương I – Luật du lịch giải thích: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch
vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong tuyến du lịch”. [18,tr.2]

Sản phẩm du lịch được xây dựng dựa trên các điều kiện tài nguyên du lịch, hiện
trạng các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ lao động ngành du lịch ở từng vùng của đất
nước. Mỗi vùng có một đặc điểm riêng và thể khai thác những sản phẩm du lịch đặc
trưng của vùng đó. Vì vậy để phát triển du lịch, phân vùng lãnh thổ du lịch là một trong
nhưng điều được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển du lịch để đảm bảo sự
phát triển của du lịch.
Sản phẩm du lịch đặc trưng bao gồm:
+ các sản phẩm du lịch cụ thể
+ Giao lưu phát triển kinh tế xã hội, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm.
+ Giao lưu nghiên cứu các nền văn hóa: các di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, lễ
hội, làng nghề…
+ Thời gian nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí
Để đạt dược hiệu quả kinh doanh, để có một sản phẩm có chất lượng cao, đòi hỏi
người thực hiện chương trình du lịch có khả năng ngôn ngữ và hiểu sâu sắc về các giá trị
văn hóa, lịch sử, giá trị tự nhiên, phương pháp tổ chức tour.
1.2.

Tài nguyên du lịch


Tài nguyên du lịch là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống. Theo
nghĩa rộng, tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin có trên
trái đất và vũ trụ mà con người có thể sử dụng để phục vụ cuộc sống và sự phát triển của
mình.
Tài nguyên du lịch là một dạng trong toàn bộ tài nguyên được con người sử dụng.
Đã có nhiều tác giả đưa ra định nghĩa về tài nguyên du lịch.
Theo Pirojnik: “Tài nguyên du lịch là những tổng thể tự nhiên, văn hóa lịch sử và
những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thị lực, tinh
thần của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ trong cấu trúc nhu cầu du
lịch hiện tại, tương lại, trong khả năng kỹ thuật cho phép, chúng dùng để sản xuất trực

tiếp và gián tiếp ra những dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi”.
Tại điều 10 của Pháp lệnh Du lịch Việt Nam (1999): “Tài nguyên du lịch được
hiểu là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công
trình sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch; là yếu
tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sức hấp dẫn du lịch” [
20; tr.10].
Khoản 4 (Điều 4 chương I) của luật du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “Tài
nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công
trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng
nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hinh thành các khu du lịch, điểm du
lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch ” [ 18; tr.2].
Về thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các đối tượng văn hóa
lịch sử đẫ bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng
sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch.
Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, bởi vì những thay đổi cơ cấu và lượng
nhu cầu đã lôi cuốn vào hoạt động du lịch những thành phần mới mang tính chất tự nhiên
cũng như tính chất lịch sử - văn hóa. Khái niệm tài nguyên du lịch tự nhiên thay đổi tùy
theo sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự cần thiết về tính hợp lý và mức độ nghiên cứu.
Vì vậy, khi đánh giá tài nguyên và xác định khai thác chúng cần phải tính đến những thay


đổi trong tương lai về nhu cầu cũng như khả năng kinh tế - kỹ thuật khai thác các loại tài
nguyên mới.
Có thể khẳng định rằng, tài nguyên du lịch được xem là tiền đề để phát triển du
lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức
hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu.
1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi trường tự
nhiên bao quanh chúng ta. Theo khoản 1 (Điều 3, chương II, Luật du lịch Việt Nam năm
2005 quy định: “Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố điều kiện đia hình, địa mạo,

khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang được khai thác hoặc có thể được
sử dụng vào mục đích du lịch”) [18; tr.6].
Các dạng địa hình hấp dẫn, tác động mạnh đến tâm lý du lịch của khách ở điểm
hình thái của nó như: Địa hình miền núi với không gian thoáng đãng thích hợp cho loại
hình du lịch dã ngoại, nghỉ dưỡng; đặc biệt là các kiều địa hình caxtơ (đá vôi) có giá trị
lớn cho tổ chức du lịch.
Khí hậu là thành phần quan trọng của môi trường tự nhiên có tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến hoạt động du lịch. Nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các
loại hình du lịch khác nhau ở những điều kiện khí hậu khác nhau.
Tài nguyên nước bao gồm nước chảy trên mặt nước ngầm, tạo ra các loại hình du
lịch khác nhau như du lịch biển, sông, hồ. Đặc biệt là nguồn tài nguyên nước khoáng có
tác dụng chữa bệnh trong loại hình du lịch nghỉ dưỡng.
Tài nguyên sinh vật: các loài động thực vật trong khu bảo tồn thiên nhiên có giá
trị lớn trong du lịch, phát triển du lịch sinh thái, là loại hình du lịch hấp dẫn du khách.
Các loại tài nguyên du lịch không tồn tại độc lập mà luôn tồn tại, phát triển trong
cùng một không gian lãnh thổ nhất định, có mối quan hệ qua lại tương hổ, chặt chẽ theo
quy luật của tự nhiên.
Các loại tìa nguyên du lịch luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện
văn hóa, kinh tế - xã hội và cũng được phân bố gần các tài nguyên du lịch nhân văn.


1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Nhóm tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng và hiện tượng do con người
tạo ra có đặc điểm rất khác biệt so vơi tài nguyên du lịch tự nhiên. Tuy nhiên chỉ có
những tài nguyên du lịch nhân văn có sức hấp dẫn du khách và có thể khai thác phát triển
du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường mới được gọi là tài ngyên du lịch
nhân văn.
Theo Luật du lịch năm 2005 thì “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống
văn hóa, các yếu tố văn hóa nghệ thuật dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ,
kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hó vật thể,

phi vật thể khác có thể được sử dụng cho mục đích du lịch”. [18, tr.6]
Tài nguyên du lịch nhân văn được chia thành 2 loại chính là: tài nguyên du lịch nhân
văn vật thể và tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể.
-

Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể bao gồm:

+ Di sản văn hóa vật thể.
+ Các di sản văn hóa, danh thắng cấp quốc gia và địa phương.
+ Các cổ vật và bảo vật cấp quốc gia.
+ Các công trình đương đại.
-

Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể bao gồm:

+ Các lễ hội truyền thống.
+ Nghề và các làng nghề thủ công truyền thống.
+ Văn hóa thế giới truyền miệng và phi vật thể.
+ Văn hóa nghệ thuật.
+ Văn hóa ẩm thực.
+ Văn hóa ứng xử.
+ Thơ ca và văn học.
+ Văn hóa các tộc người.
+ Các phát minh sáng kiến khoa học.


+ Các hoạt động văn hóa thể thao.
1.2.3. Đặc điểm của tài nguyên du lịch
Một là, tài nguyên du lịch rất đa dạng. Đây là một yếu tố rất quan trọng quyết định
mọi hoạt động du lịch.

Hai là, tài nguyên du lịch có tính hấp dẫn. Đây là đặc trưng bản chất của tài
nguyên du lịch. Nhờ sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch mà thu hút được một lượng lớn
đến tham quan, tìm hiểu.
Ba là, tài nguyên du lịch có tính độc quyền. Dù là tài nguyên tự nhiên hay văn hóa,
chúng dều có đặc tính riêng và là yếu tố riêng có, yếu tố đặc thù của một vùng đất nào đó.
Tính đặc thù càng cao thì sức hấp dẫn của chúng càng lớn.
Bốn là, tài nguyên du lịch có tính mùa vụ. Đặc điểm này bị chi phối bởi điều kiện
địa hình, khí hậu, vị trí địa lý… Ví dụ như tài nguyên biển thì thường chịu ảnh hưởng của
tính mùa vụ rất nhiều, nó được khai thác chủ yếu vào mùa hè.
Năm là, tài nguyên du lịch là không thể di chuyển về vị trí địa lý. Trên thực tế, tại
một số nơi, để tăng thêm sự hấp dẫn du khách, người ta mô phỏng theo một số tài nguyên
cụ thể nào đó. Tuy nhiên, các công trình mô phỏng hoặc các tác phẩm nghệ thuật được tái
hiện không thể có giá trị như tài nguyên gốc.
Sáu là, tài nguyên du lịch có đặc tính dễ tổn thất do các yếu tố khách quan và chủ
quan ( tác động của mưa, bão, lụt, độ ẩm không khí hoặc sự tàn phá của con người…).
Bảy là, tài nguyên du lịch có tính biến hóa, thay đổi trong quá trình phát triển
chung của xã hội. Đặc điểm này được thể hiện rõ đối với tài nghuyên văn hóa vô hình.
Tám là, tài nguyên du lịch có thể là kết quả của lao động sáng tạo. Các tài nguyên
du lịch mơi só thể hình thành và phát triển theo trình độ khoa học công nghệ, phát triển
kinh tế của một quốc gia, một vùng nào đó.
Với đặc trưng đó, việc khai thác tài nguyên du lịch phải đảm bảo nguyên tắc: giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và bảo tồn các giá trị văn hóa và thiên
nhiên; nói cách khác, phải chú ý khai thác theo hướng phát triển bền vững.
1.2.4. Vai trò của tài nguyên đối với phát triển du lịch


Như chúng ta đã biết, một địa phương nào đó muốn phát triển được du lịch thì
điều kiện tiên quyết là phải có tài nguyên du lịch phong phú. Đó có thể là tài nguyên du
lịch tự nhiên hay tài nguyên du lịch nhân văn. Từ thực tiễn của tài nguyên du lịch, người
ta mới có thể dựa vào đó để khai thác, phát huy hết giá trị của nó nhằm phục vụ cho sự

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương – nơi có nguyên du lịch.
Vai trò của tài nguyên du lịch thể hiện rất nhiều mặt. Đây là nguồn lực rất quan
trọng để tạo ra các sản phẩm du lịch. Từ lợi thế về mặt tài nguyên du lịch, người ta mới
có thể xây dựng được các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, mang đặc thù của địa
phương. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào số lượng, chất lượng và sự kết hợp của các loại
tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch cũng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng của tổ chức lãnh
thổ du lịch. Trong khi đó, hệ thống lãnh thổ du lịch lại được chia thành nhiều cấp khác
nhau như: trung tâm du lịch, tuyến du lịch, điểm du lịch…
Từ việc nghiên cứu các loại tài nguyên du lịch, người ta mới thiết kế cơ sở vật chất
– hạ tầng phù hợp với tài nguyên du lịch nhằm tránh trường hợp phá vỡ cảnh quan, môi
trường của vùng có tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch cũng chính là yếu tố thu hút khách. Nhờ sự hấp dẫn của tài
nguyên du lịch, hàng năm các điểm du lịch thu lại được rât nhiều lợi nhuận từ việc bán vé
hay các dịch vụ phục vụ cho hoạt động du lịch của khách. Giá trị của tài nguyên du lịch ở
nơi đến chính là yếu tố giúp khách quyết định có đi du lịch hay không, sẽ trở lại hay
không, sẽ ở lại bao lâu?
Cũng từ nguồn tài nguyên du lịch, người ta mới xây dựng nên các loại hình du lịch
phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Ở một địa phương nếu có
nhiều hệ thống di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đẹp và có giá trị thì người ta
thường xây dựng loại hình du lịch văn hóa. Hay một nơi nào đó có các bãi biển đẹp thì rất
thuận lợi để xây dựng loại hình du lịch biển, nghỉ ngơi ven biển…
Nói chung nguồn tài nguyên du lịch là rất quan trọng cho sự phát triển của hoạt
động du lịch. Vì vậy, trong qua trình khai thác các loại tài nguyên phục vụ du lịch, các
địa phương, các doanh nghiệp, quốc gia phải xây dựng các chiến lược, chính sách phát


triển du lịch hợp lý. Đồng thời phải thường xuyên tôn tạo, bảo vệ tài nguyên du lịch
nhằm hướng tới sự phát triển du lịch bền vững.
1.3.


Các loại hình du lịch
Hoạt động du lịch có tính phong phú và đa dạng về loại hình. Phụ thuộc vào các

nhân tố khác nhau, dựa vào đặc điểm, vị trí phương tiện và mục đích có thể chia các loại
hình riệng biệt khác như sau:
-

Theo nhu cầu của khách du lịch: du lịch chữa bệnh, du lịch nghỉ ngơi, du lịch thể
thao, du lịch văn hóa, du lịch cộng vụ, du lịch tôn giáo, du lịch thăm hỏi.

-

Theo phạm vi lãnh thổ: du lịch trong nước (nội địa), du lịch quốc tế.

-

Theo vị trí địa lý của cơ sở du lịch: du lịch nghỉ biển, du lịch nghỉ núi…

-

Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: du lịch xe đạp, du lịch ô tô, du lịch
máy bay, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy.

-

Theo thời gian của cuộc hành trình: du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày.

-


Theo lứa tuổi: du lịch thanh niên (17 – 35 tuổi), du lịch thiếu niên (17 tuổi), du
lịch gia đình.

1.4.

Theo hình thức tổ chức: du lịch có tổ chức, du lịch cá nhân.
Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Ngày nay trong điều kiện kinh tế phát triển, đời sống con người không ngừng

được nâng cao, chính vì thế nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe…ngày nay
càng tăng. Sự phát triển du lịch không chỉ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn có vai
trò quan trọng trong lĩnh vực văn hóa, an ninh, hòa bình thế giới.
Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước và của một vùng
thông qua việc tiêu dùng của du khách du lịch.
Trước hết, du lịch góp phần làm tăng thu nhập quốc dân trên hai mặt sáng tạo và
sử dụng. Hoạt động du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Ở các
nước có du lịch phát triển, thu nhập ngoại tệ từ du lịch chiếm tới 20% hoặc hơn thu nhập
ngoại tệ của đất nước. Du lịch đã và đang trở thành một nền kinh tế mũi nhọn đối với
nhiều nước. Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới, hiện nay một số quốc gia trên thế


giới có thu nhập từ du lịch và các dịch vụ có liên quan đến dịch vụ chiếm 60 – 70% trong
tổng sản phẩm quốc dân.
Bên cạnh đó, phat triển du lịch sẽ thu hút sức lao động tạo ra công ăn việc làm cho
người lao động, tạo điều kiện tăng thu nhập cho địa phương.
Thông thường tài nguyên du lịch thiên nhiên thường có nhiều ở vùng núi xa xôi,
vùng ven biển hay vùng hẻo lánh. Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng
đòi hỏi phải có đầu tư vào mọi mặt: giao thông, bưu điện, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do
vậy mà phát triển kinh tế xã hội làm thay đổi bộ mặt của những vùng đó, mà cũng chính
vì vậy mà góp phần phân bố lại dân cư, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, các địa

phương trong một nước.
Ngoài các ý nghĩa về kinh tế, du lịch còn có ý nghĩa xã hội quan trọng.
Du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khỏe và tăng cường sức sống cho người
dân, góp phần hạn chế bệnh tât, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động cảu con người…
Thông qua du lịch, con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc
mới, đồng thời góp phần mở mang kiến thức, đáp ứng nhu cầu học hỏi của con người.
Du lịch tạo khả năng cho con người hiểu biết lẫn nhau, thân thiện và gần gủi, xích
lại với nhau hơn, mở mang tầm hiểu biết về phong tục tập quán, đạo đức, chế độ xã hội…
Du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu đất nước, giữ gìn và nâng cao truyền
thống dân tộc, thông qua các chuyến tham quan, nghỉ mát… người dân có điều kiện làm
quen với cảnh đẹp, lịch sử, văn hóa dân tộc từ đó thêm tự hào, yêu quý đất nước mình…
Ngoài ra, sự phát triển của du lịch còn có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai
thác, bảo tồn các di sản văn hóa và dân tộc, góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên và xã
hội.
Cuối cùng, du lịch là chiếc cầu nối hòa bình giữa các dân tộc trên thế giới. Hoạt
động du lịch giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị của văn hóa
nước bạn.


CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN
NGA SƠN – TỈNH THANH HÓA
2.1. Khái quát chung về huyện Nga Sơn
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Nga Sơn là huyện vùng ven biển tỉnh Thanh Hóa, gồm 26 xã và một thị trấn, với
diện tích tự nhiên là 24.632 ha. Với vị trí Đông Bắc của tỉnh, Nga Sơn có tọa độ địa lý là
19056’33’’ đến 2003’45’’ vĩ Bắc và 105034’30’’ đến 106056’30’’ Kinh Đông. Phía Bắc
giáp huyện Kim Sơn – Ninh Bình, phía Nam giáp huyện Hậu Lộc – Thanh Hóa, phía Tây
giáp huyện Hà Trung – Thanh Hóa và phía Đông giáp biển Đông. Nếu nhìn từ trên bản
đồ hành chính, hình dáng của Nga Sơn gần giống như lá cờ đuôi nheo mà cạnh huyền

chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, kéo dài từ Nga Điền qua phần tiếp giáp với biển
xuống xã Nga Thạch.
Nga Sơn nằm trên quốc lộ 10, cách thành phố Thanh Hóa hơn 40km, thị xã Sầm
Sơn chừng 60km, huyện Nga Sơn nối với các điểm du lịch phía Bắc, cách nhà thờ đá
Phát Diện chừng 15km, từ Nga Sơn dọc theo quốc lộ 10 đến Quảng Ninh, Hải Phòng chỉ
nửa ngày đường.
Do giáp với huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, có nhà thờ Phát Diện – một điểm du
lịch khá phát triển và cách chùa Bái Đính khoảng 60km là điểm thu hút được rất nhiều
khách du lịch nhất là khách du lịch quốc tế. Đây là điều kiện thuận lợi để huyện Nga Sơn
thu hút được nguồn khách du lịch từ Ninh Bình đến thăm.
2.1.1.2. Địa hình
Là một vùng do đất phù sa bồi tụ nên địa hình Nga Sơn nói chung được kiến tạo
theo dạng lượn sóng, tạo thành 3 vùng: vùng đồng chiêm; vùng đồng màu và vùng ven
biển với độ cao giữa các vùng chênh lệch từ 0,3 – 0,5m. Với địa hình như vậy rất thuận
lợi cho việc đi lại tham quan của khách du lịch. Các điểm du lịch của Nga Sơn phân bố ở
những nơi có địa hình không quá khó khăn nên tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách
du lịch và xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch.


2.1.1.3. Khí hậu
Vị trí địa lý mang lại cho Nga Sơn loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nền nhiêt
cao, mùa đông không lạnh lắm, mùa hè tương đối nóng, lượng mưa trung bình. Nhiệt độ
trung bình năm là 23 – 240C. Lượng mưa trung bình bình là 1700 – 1900mm. Mùa mưa
kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 đến tháng 10). Có hai thời kì khô ngắn là tháng 5, 6 và tháng
10, 11.
Khí hậu của Nga Sơn không quá khắc nghiệt tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động du lịch diễn ra quanh năm và có thể phát triển được nhiều loại hình du lịch.
2.1.1.4. Thủy văn
Nga Sơn nằm giữa các con sông Hoạt và sông Lèn. Sông Lèn thuộc hệ thống sông
Mã đoạn chảy qua huyện dài 11km, sông Hoạt là nhánh của sông Lèn đoạn chạy qua

huyện khoảng 15km. Tổng lưu lượng nước mùa mưa của các con sông lên tới 1.720m3/s.
Trong các cuộc kháng chiến giữ nước trước đây, sông Hoạt và sông Lèn là đường giao
thông đường thủy rất quan trọng. Không những thế, đôi bờ sông Hoạt là dãy núi Tam
Điệp còn có những cảnh quan kỳ thú “sơn thủy hữu tình”.
2.1.2.Tình hình kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Tình hình kinh tế
Theo báo cáo của UBND Huyện cho biết: Năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Huyện đạt 11%, cơ cấu kinh tế nông lâm thuỷ sản 41%; công nghiệp – xây dựng
26%, dịch vụ 33%, thu nhập bình quân đầu người đạt 9,8 triệu đồng/người/năm. Tổng sản
lượng lương thực 55.0087 tấn, đạt 85,4% kế hoạch, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn: 53 tỷ đồng đạt 151% KH, bằng 100% so với cùng kỳ.
Về sản xuất nông nghiệp, nhờ phát huy được tinh thần đoàn kết, có nhiều giải
pháp phù hợp, và sự quyết tâm cao của các đồng chí lãnh đạo nên nhân dân đã vượt khó
khăn ra sức thi đua thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trên tất cả các lĩnh
vực: Tổng diện tích gieo trồng trong năm 17.586,5 ha bằng 100,1% so với cùng kỳ, trong
đó chủ yếu là trồng một số các loại cây có thế mạnh như lúa, ngô, lạc và đặc biệt là cây
cói.


Trong chăn nuôi tính đến cuối năm 2010 trên địa bàn toàn huyện có 8.840 con trâu
bò, đàn lợn 34,390 con, đàn gia cầm 370 ngàn con. Nhờ có diện tích mặt nước nên tổng
sản lượng khai thác và nuôi trròng thuỷ sản đạt 3.502 tấn. Trong đó lượng nuôi 1.100 tấn,
sản lượng khai thác 2.401 tấn.
Các sản phẩm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng mạnh
so với năm trước, chỉ đạo tốt việc phối hợp với các cơ quan ban ngành, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp đầu tư phát triển. Thành lập mới 07 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh
nghiệp toàn huyện lên 118. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 149,1 tỷ đồng bằng 114,4%
so với cùng kỳ, trong đó các sản phẩm chủ yếu như: Qoại 14.520 tấn, chiếu 3.568 nghìn
lá, gạch 16,1 triệu viên...Các dự án xây dựng từ nguồn vốn của Trung ương, Tỉnh, Huyện
được tiến hành đúng quy trình quản lý, chất lượng công trình đảm bảo. Các công trình thi

công đúng tiến độ và đưa nhiều công trình vào sử dụng: Nâng cấp quốc lộ 508, đường
Bỉm Sơn – Nga Sơn, xây dựng các nhà lớp học bằng nguồn vốn trái phếu Chính phủ,
đường tỉnh lộ Báo Văn – Tư Sy – Nga Phú, nhà văn hoá thanh thiếu nhi, nhà làm việc
Huyện uỷ....với tổng số vốn là 320,9 tỷ đồng.
Trên lĩnh vực dịch vụ - thương mại - xuất khẩu, tổng giái trị sản xuất các ngành
dịch vụ 248,5 tỷ đồng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 571 tỷ đồng. Các
doanh nghiệp thương mại - dịch vụ đã có bước phát triển về quy mô, hình thức kinh
doanh với nhiều hình thức thu hút khách hàng. Các loại hình dịch vụ như vận tải hành
khách, vận tải hàng hóa, khách sạn, nhà hàng phát triển tốt. Đã làm tốt công tác quản lí
thị trường, chất lượng hàng hóa, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Các hoạt động
kinh doanh tại chợ Nga Sơn diễn ra khá sôi động, thu hút ngày càng nhiều khách hàng và
hộ kinh doanh vào kinh doanh, mua bán trong khu vực chợ. Phương tiện cũng như cơ sở
giao thông vận tải tăng lên cả về số lượng và chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển
hàng hoá và đi lại của nhân dân.
2.1.2.2. Tình hình xã hội
Cùng với phát triển các ngành kinh tế, đời sống văn hoá, tinh thần của người dân
trong huyện từng bước được cải thiện. Trong những năm qua, ngành bưu điện đã cung
cấp báo chí kịp thời trong ngày, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ tốt cho đời sống


kinh tế - xã hội của huyện. Hiện nay, số máy điện thoại được hoà mạng của toàn huyện
đạt mức bình quân 2,1 máy/100 dân. Ngoài ra, công tác bưu chính cũng được triển khai
tốt như: bưu phẩm, bưu kiện, thư tín,... được chuyển trả kịp thời, nhanh chóng và chính
xác.
Công tác thông tin - tuyên truyền đã được tổ chức tốt, phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá gắn với xây dựng gia đình văn hoá tiếp tục được phát
động sâu rộng. Khai trương 12 làng văn hoá, cơ quan, trường học có đời sống văn hoá tốt
đạt 150% KH trên giao; đến nay đã có 16/27 xã văn hoá đạt 59,2%, có 27.700/34.600 gia
đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá.
Hoạt động TDTT diễn ra sôi nổi từ huyện đến cơ sở, tổ chức nhiều hoạt động chào

mừng Đại hội Đảng các cấp, chào mừng kỷ niệm 124 năm khởi nghĩa Ba Đình, 64 năm
thành lập Đảng bộ huyện và ngày truyền thống VHTT huyện, tham gia các cuộc thi cấp
tỉnh đều đạt giải nhất. Bên cạnh đó chăm lo công tác bảo tồn di tích lịch sử góp phần giáo
dục truyền thống quê hương. Trong năm có 3 di tích được lịch sử được xếp hạng Di tích
lịch sử văn hoá cấp tỉnh, đó là Phủ Quy Nhân (Nga Thanh), đền Mại Đức (Nga Hưng) và
đền thờ Thám hoa Mai Anh Tuấn (Nga Thạch). Đặc biệt hiện nay trên địa bàn huyện còn
có một số các di tích danh thắng nổi tiếng hàng năm cũng thu hút được một số lượng du
khách thập phương đến tham quan tạo nên nét đẹp về văn hoá tâm linh như: Chùa Tiên,
Động Từ Thức, Đền thờ Mai An Tiêm, Di tích lịch sử Chiến khu Ba Đình, Cửa Thần
Phù, Đền thờ Lê Thị Hoa.
Chất lượng các mặt giáo dục tiếp tục được giữ vững. Triển khai thực hiện nghiêm
túc các cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và chủ để năm học “Đổi mới
quản lí tài chính và nâng cao chất lượng giáo dục”…
Công tác y tế, dân số - KHHGĐ và trẻ em tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất đáp
ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho nhân dân. Đã triển khai xây dựng thêm phòng khám
đa khoa cho Bệnh viện Đa khoa huyện, thực hiện tốt việc xã hội hóa đầu tư thiết bị kỹ
thuật y tế. Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế, dân số trên địa bàn.
Thường xuyên kiểm tra công tác vệ sinh an toàn thực phẩm tại các nhà hàng, trường học


bán trú, chợ, quản lí tốt việc hành nghề y dược tư nhân. Triển khai tốt tháng hành động
phòng chống lây nhiễm HIV – AIDS trên địa bàn. Các chính sách xã hội, giải quyết việc
làm, xóa đói, giảm nghèo được quan tâm triệt để. Chính sách bảo đảm an sinh xã hội
được giải quyết kịp thời.
2.1.3. Lịch sử hình thành huyện và truyền thống văn hóa của nhân dân huyện Nga
Sơn
2.1.3.1. Khái quát về lịch sử hình thành huyện Nga Sơn
Con người luôn gắn bó với tự nhiên, con người sinh ra và lớn lên trong tự nhiên.
Tự nhiên nuôi dưỡng, chở che con người, không có tự nhiên, con người không thể tồn tại

được vì tất cả những thứ không thể tồn tại được vì tất cả những thứ không thể thiếu được
đối với con người đều lấy từ tự nhiên. Và theo truyền thuyết, gia đình Mai An Tiêm là
những người đầu tiên đặt chân đến mảnh đất hoang vu mà từ thời Hùng Vương những
băng chứng lịch sử để khẳng định ngay từ thời đại đồng thau đã có con người sinh sống ở
đây. Họ là chủ nhân của nền văn hóa Hoa Lộc. Một số di chỉ ở Nga Phú, Thần Phù, núi
Yên Ngựa (Nga Điền), chùa Tiên (Nga An), Nga Thiện cho thấy các bộ lạc ở đây đã sinh
sống bằng nghề nông, khai thác thủy sản và săn bắt thú rừng. họ đã biết trồng lúa với
những chiếc cuốc đá dễ sử dụng trên loại đất phù sa ven biển. Trong các di chỉ của Văn
hóa Hoa Lộc, các nhà khỏa cổ đã tìm thấy đã tìm thấy được một số lượng khá lớn xương,
răng trâu bò, chó, lợn bên cạnh dấu vết của các loại thú rung khác như nai, hươu,
hoảng… Điều này cho thấy người Việt cổ ở đây đã bắt đầu chăn nuôi và sử dụng trâu bò
để kéo cày. Cư dân ở đây không chỉ khai thác cá biển mà còn đánh bắt cả các loài thủy
sản nước ngọt.
Các di chỉ Văn hóa Hoa Lộc còn cho thấy người Việt cổ đã đạt tới trình độ khá cao
trong việc sản xuất đồ thông dụng và biết đến kỹ thuật luyện đồng.
Mật độ dân số của vùng duyên hải này cũng khá cao. Điều này được chứng minh
bằng sự phong phú của các di vật cũng như mật độ khá dày của các di chỉ khảo cổ đã khai
quật. Các nhà nghiên cứu đã kết luận từ cách đây mấy nghìn năm, vào thời đồng thau đã
có những cư dân đầu tiên sinh sống trên mảnh đất Nga Sơn. Có thể đây là thời kỳ tan rã
của chế độ công xã nguyên thủy nhưng chưa hình thành Nhà nước.


Vào thời kì xã hội Văn Lang – Âu Lạc, cư dân đông đúc hơn, làng xóm được hình
thành và ngày càng trù phú. Trong suốt thời kì dài phát triển của chế độ phong kiến Việt
Nam, Nga Sơn tiếp nhận nhiều đợt người từ đồng bằng Bắc Bộ vào sinh cơ lập nghiệp,
đó là sự di cư tự nhiên do nhu cầu cuộc sống hoạc theo chế độ phong cấp ruộng đất thời
phong kiến.
Tên gọi của Nga Sơn do vậy cũng có sự thay đổi, “Đại Nam nhất thống chí” tập II
có viết: Huyện Nga Sơn “từ đời Trần về trước gọi là Chi Nga hoặc Nga Lạc; thời thuộc
Minh do Ái Châu lãnh, lệ vào phủ Thanh Hóa; đời Lê Quang Thuận gọi là Nga Giang,

đổi lệ là phủ Hà Trung, sạu lại đổi tên hiệu này là bản triều vẫn theo như thế, năm Tự
Đức thứ 3 bỏ chức tri huyện, do phủ kiên lý. Trước lãnh 7 tổng, năm Minh Mệnh thứ 19
tách lấy tổng Thần Phù cho vào huyện Yên Mô – Ninh Bình, nay lãnh 6 tổng, 1002 xã
thôn Trang”. Từ 1838 (năm Minh Mệnh thứ 19) địa danh Nga Sơn được thay cho các địa
danh cũ và tồn tại cho đến nay.
Tới trước cách mạng tháng 8/1945, huyện Nga Sơn vẫn thuộc phủ Hà Trung. Năm
1977, hai huyện Nga Sơn và Hà Trung sát nhập vào với nhau gọi là Trung sơn. Ngày
30/8/1982 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định 149 – HĐBT chia huyện Trung Sơn thành
hai huyện Hà Trung và Nga Sơn như ngày nay.
Không có vùng đất nào trên đât nước Việt Nam lại không có truyền thống lịch sử
chống ngoại xâm oanh hùng. Để có được cuộc sống bình yên lao động sản xuất, để xây
dựng quê hương giàu và đẹp, người Nga Sơn đã nhiều lần cùng nhân dân tỉnh nhà và cả
nước đứng lên chống ngoại xâm từ buổi đầu công nguyên mà tướng Lê Thị Hoa (ở Nga
Thiện - Nga Sơn) theo Hai Bà Trưng vùng lên khởi nghĩa đánh đổ ách đô hộ của người
Hán, lâp nên nghiệp của các vua Hùng, vua Thục; đến chống ách đô hộ phong kiến
phương Bắc giành lại quyền tự chủ và bước đầu xây dựng bảo vệ quốc gia Đại Việt; rồi
trong kháng chiến chống quân Nguyên lần 2 (thế kỉ XIII) và đặc biệt là phong trào Cần
Vương. Với căn cứ Ba Đình – cái gai án ngữ hai miền Trung – Bắc mà bọn giặc Pháp
cương quyết phải nhổ. Khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công
Tráng lãnh đạo và ghi danh và lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đưa


×