Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 25 trang )

Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà văn M.Gorki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống –
thông qua ngôn từ và hình tượng nghệ thuật sinh động, nó cung cấp cho con người
kiến thức về cuộc sống cũng như khám phá cái đẹp trong tâm hồn con người. Đến
với văn học chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình tượng trong tác
phẩm mà từ đó tác động tâm tư tình cảm, góp phần để hình thành và phát triển nhân
cách. Vậy nhưng, không phải ai cũng hiểu vai trò của văn chương trong đời sống
con người, hiện nay giá trị văn học đang dần bị lãng quên. Nhất là với học sinh. Xu
hướng xem nhẹ các môn xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng là điều mà bất
cứ giáo viên đứng lớp nào cũng có thể dễ dàng cảm nhận. Học sinh học Văn như
một sự bắt buộc để đủ điều kiện lên lớp hay để có được tấm bằng tốt nghiệp cuối
cấp chứ không phải bởi sự đam mê. Học văn là phải đọc, thậm chí là đọc đi đọc lại
nhiều lần, phải ngẫm nghĩ, tìm tòi, liên hệ…Có lẽ vì vậy mà học sinh đang dần dần
“quen” môn Văn.
Tác phẩm văn chương là bức tranh về cuộc sống, con người trong lao động,
trong đấu tranh được tái hiện một cách chuẩn xác mà không hề khô khan, tẻ nhạt.
Học văn, bên cạnh cái cơ bản là học về ngôn ngữ, tiếng nói văn chương của tiếng
Việt để có thể nói, viết, xây dựng ngôn ngữ diễn đạt cho riêng mình thì còn học về
văn hóa, tình cảm, tư duy nghệ thuật của nhân loại thông qua những tác phẩm văn
chương đặc sắc. Và từ đây, ta học cách làm người, học cách chia sẻ, yêu
thương.Văn học giúp ta bồi dưỡng tình đời, tình người, làm cho tâm hồn tình cảm
thêm phong phú, nhạy cảm. Học tốt môn văn là nền tảng vững chắc giúp các em tự
tin trong giao tiếp hàng ngày, góp phần cho những thành công trong cuộc sống mai
sau.
Để học sinh thấy được giá trị to lớn của văn học, để thắp sáng và thổi bùng
ngọn lửa đam mê văn học trong các em, từ đó nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ
Văn, bản thân tôi đã luôn không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện những


biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6 và bước đầu nhận thấy được những
chuyển biến rất tích cực. Các em trở nên hào hứng hơn với các tiết văn, tích cực
hơn trong việc học bài ở nhà, chuẩn bị bài trước khi đến lớp nên chất lượng bộ môn
cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
bộ môn Ngữ văn 6” với mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm riêng của cá
nhân trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn.
II. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng bộ
môn Ngữ Văn 6”, bản thân tôi muốn bày tỏ những suy nghĩ, trăn trở của mình về
Trang 1


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

thực trạng việc dạy và học môn Ngữ văn 6 hiện nay, đồng thời cũng mạnh dạn đề
xuất những giải pháp được rút ra từ thực tiễn giảng dạy của mình. Thực sự tôi rất
mong được các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm, trao đổi, bàn luận
để tìm ra những giải pháp tối ưu nhất, giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về
giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ đó nâng cao chất lượng hiệu
quả của môn Ngữ văn. Mục đích cụ thể mà đề tài hướng đến là:
- Tìm hiểu thực trạng thái độ của học sinh với môn học Ngữ Văn và chất
lượng của bộ môn này.
- Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ môn Ngữ văn chưa cao.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để vận dụng vào việc
giảng dạy Ngữ văn ở các khối lớp để nâng cao chất lượng của bộ môn này
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 6A1, 6A7 năm học
2017-2018 và học sinh lớp 6A3, 6A6 của học kì 1- năm học 2018-2019 tại trường

THCS Nguyễn Trãi.
2. Phạm vi của đề tài
Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số giải pháp mới để giúp học sinh có cái
nhìn đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ đó
nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn 6.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong
quyết nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quyết ngh ị Trung ương 2 khóa
VIII (12 – 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), đ ược c ụ
thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là ch ỉ th ị số 15
(4 – 1999). Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần th ứ XII tiếp tục kh ẳng đ ịnh
“giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào t ạo nh ằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuy ển m ạnh quá trinh giáo
dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng l ực và ph ẩm
chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với th ực tiễn”.
Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp d ạy
học mới đó là:
- Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo
Trang 2


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, d ưới
sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh đ ược tham
gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đinh, nhà
trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ th ể của hoạt động, qua đó
phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy ti ềm năng

sáng tạo của cá nhân minh. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt đ ộng đ ược coi tr ọng
trong từng môn học.
- Phương pháp- kĩ thuật dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất ph ức tạp và đa d ạng. Có
nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Trong tài liệu này, PPDH
được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung gi ữa giáo viên và h ọc
sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm v ụ, kĩ
thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thu ật các
mảnh ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,...
Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách th ức hành động của
giáo viên trong các tinh huống hành động nhỏ nh ằm th ực hiện và đi ều khi ển
quá trinh dạy học.
- Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy)
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi m ới ph ương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luy ện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các ph ương ti ện tiên
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trinh dạy học, đảm bảo điều ki ện và
thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh...”.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) sử dụng đồng thời hinh ảnh, đường nét, màu s ắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ m ở, không yêu c ầu
tỷ lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như các loại bản đồ thông dụng
khác. Như vậy cùng một chủ đề, bài học nhưng mỗi người có th ể vẽ theo m ột
cách khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh d ễ dàng. N ếu
muốn ghi chép bằng SĐTD cũng có nhiều ưu điểm h ơn nh ư: Lôgíc, mạch lạc;
trực quan, sinh động, dễ nhin, dễ hiểu; vừa nhin được tổng th ể, v ừa bi ết
được chi tiết; giúp hệ thống hóa kiến thức dễ dàng; và giúp việc ôn tập khoa
học, nhớ kiến thức lâu hơn...
- Dạy học phát triển năng lực
Trang 3



Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ
chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng
lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề
nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động th ực hành, th ực ti ễn.
Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh
theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã h ội.
- Giáo dục an ninh và quốc phòng
Quốc phòng: là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt.
loạn.

An ninh: là tinh hinh trật tựxã hội binh thường, yên ổn, không có rối

Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hinh thành, bồi d ưỡng
ở học sinh tinh yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý th ức công dân
trong việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh đ ể bảo v ệ đ ất
nước.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, rất nhiều những phương phápđổi mới dạy học
được đưa vào áp dụng, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của học sinh.
Các buổi tập huấn, họp tổ chuyên môn cũng đưa vấn đề phương pháp dạy học cùng
thảo luận, trao đổi nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ môn. Tuy nhiên, vị thế
của môn Văn ngày càng giảm sút, tình trạng học sinh chán học văn ngày càng tăng
thực sự là một vấn đề đáng lo ngại. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để dẫn đến

tình trạng này do một số nguyên nhân sau:
1. Đối với người dạy
Nhìn chung, hầu hết các thầy cô đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo
quan tâm đến học sinh, tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế nhất định sau:
+ Nhiều thầy cô ngại đổi mới, có áp dụng phương pháp mới nhưng chậm, ít
hoặc chưa phù hợp với nội dung bài học, phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù
hợp với đa phần đối tượng học sinh.
+ Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới
với yêu cầu truyền đạt mộtkhối lượng khổng lồ của tri thức nhưng thời gian thực
học của học sinh với bộ môn ngày càng ít.
+ Với đặc thù của bộ môn, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh
ảnh minh họa trong sách không nhiều.
Trang 4


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

+ Trong một lớp, mức tiếp thu nội dung bài học của học sinh nhanh, chậm
khác nhau cũng là một rào cản trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
2. Đối với học sinh
Với địa bàn tập trung lượng dân cư đông đúc, tỉ lệ đồng bào ở các buôn
Eana, buôn Drai, buôn Tơ Lơ phần đa phần điều kiện kinh tế còn khó khăn, ngoài
giờ lên lớp, các em còn phải phụ giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc học. Nhất
là vào mùa vụ, sự chuyên cần của các em các giảm.Điều đó càng khiến cho chất
lượng bộ môn càng khó đảm bảo.
+ Ý thức tự học, vượt khó trong học tập của nhiều em chưa cao. Với môn
Văn, tương lai để chọn ngành nghề, kiếm việc cũng khó hơn nên nhiều gia đình chỉ
hướng con em vào các môn học “thời thượng” như Toán, Lí, Hóa, Tiếng Anh. Vì
vậy, không ít học sinh xem nhẹ môn học, không dành thời gian cho bộ môn này,

hoặc có học cũng chỉ là học lấy lệ hoặc đối phó. Điểm này thể hiện rõ ở việc học
bài cũ, chuẩn bị bài mới của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Có nhiều em giáo viên
hỏi bài cũ cả 4,6 lần thì tất cả cũng chỉ nhận được câu trả lời duy nhất “Thưa cô, em
không thuộc”, “em chưa thuộc”….
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, nhu cầu giải trí như xem ti
vi, chơi game, lướt facebook . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý
thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học.
+ Lười học, chán học nên học yếu. Học yếu lại càng lười học, chán học, cứ
xoay vòng như một quy luật tất yếu, khiến cho giờ học với các em trở rất nên nặng
nề.
Năm học 2017-2018, tôi phụ trách giảng dạy môn Văn ở 2 lớp: 6A1, 6A7.Và
năm học 2018-2019 dạy hai lớp: 6A3, 6A6. Dù là học sinh đầu cấp và mới chỉ là
những tuần học đầu tiên, nhưng học sinh đã tỏ ra thờ ơ, không hào hứng với môn
học. Tôi hướng dẫn các em cách soạn bài, học bài, song ở tiết học mới, có rất ít em
chịu thực hiện.
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Ngữ văn 6 trường THCS
Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau:
Năm học 2017 -2018:
Lớp
Sĩ số

Năm học
2017-2018

Điểm

6A1

29


Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

Kém

0

1

15

8

5

Trang 5

Ghi chú


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

6A7


36

2

7

17

8

2

Tổng
cộng

65

2

8

32

16

7

3%


12,5
%

49%

24,5
%

11%

Tỉ lệ
 Năm học 2018 – 2019:

Điểm
Năm học

2018-2019

Lớp

Sĩ số

6A3

Giỏi

Khá

Trung
bình


26

0

1

14

6

5

6A6

35

2

6

16

9

2

Tổn
g
cộng


61

2

7

30

15

7

Tỉ lệ

3,4%

Yếu

Kém

Ghi chú

11,3% 49,3% 24,6% 11,4%

Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối với
bộ môn Ngữ văn vẫn còn thấp cụ thể như sau:
Năm học 2017- 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ
64,5%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Năm học 2018- 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 64%,

còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Vậy làm thế nào để học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển được
tư duy, tìm tòi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh việc thực
hiện tốt việc dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tôi không ngừng học hỏi, tìm
tòi sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau với hi vọng học sinh sẽ yêu môn
Ngữ văn hơn và từ đó nâng cao được chất lượng bộ môn của mình.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Các bước tiến hành một tiết học:
1.1. Tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện khi vào giờ học
Trong mỗi tiết học, người đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp học
chính là giáo viên.Thái độ, tâm lí, tác phong của người đứng lớp có ảnh hưởng rất
Trang 6


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

lớn đến tâm lí học sinh. Xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” phải
bắt đầu từ “Lớp học thân thiện” và “Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng về đạo đức
và tự học”. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải luôn mẫu mực trong thái độ, tác phong,
cách ứng xử.
Sự thân thiện, tích cực của giáo viên sẽ tạo nên sự gần gũi, thân tình, yêu
mến ở học sinh, xóa bỏ cảm giác áp lực mỗi khi đến tiết học Ngữ văn. Yêu mến
thầy cô, đồng nghĩa với việc các em có hứng thú với môn học. Ngược lại, nếu giáo
viên tỏ ra lạnh nhạt, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ xa lánh, không
tương tác với những bài học, và đồng nghĩa với việc, mục đích của giáo dục coi
như thất bại.
Cuộc sống của giáo viên cũng như bao nhiêu người khác với những lo toan,
gánh nặng bộn bề của cuộc sống đời thường.Nhưng khi lên lớp, đứng trên bục
giảng, chúng ta phải tự mình điều chỉnh tâm lí, gạt bỏ những lo âu, buồn bực, bởi

những tâm lí nặng nề sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tiết học, đến tâm lí học sinh.
Không làm chủ được cảm xúc, không chỉ không có cảm hứng truyền tải nội dung
bài học, mà còn có thể có những thái độ, hành động không chuẩn mực, đánh mất
hình ảnh của chính mình. Vì thế, tạo một không khí vui vẻ, thân thiện, nhẹ nhàng là
tiền đề quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu bài học.
1.2. Coi trọng việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới
Kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới ở nhà của học sinh phải là hoạt
động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi bắt đầu tiết học.Có khi tự
tôi đi một vòng quanh lớp, yêu cầu các em giở vở soạn lên bàn, có khi cho chính
học sinh kiểm tra chéo nhau, có khi là bằng cách lấy ý thức tự giác, trung thực của
học sinh…Để tránh tình trạng không học bài, soạn bài hoặc có nhưng chỉ mang tính
chất đối phó, lấy lệ, vài tuần, tôi sẽ thu vở kiểm tra, có thể là 5-10 em, nửa lớp,
hoặc cả lớp, có chấm điểm, nhận xét rõ ràng theo hướng động viên, khích lệ sự cố
gắng, nỗ lực của các em để học sinh rút kinh nghiệm trong các bài soạn sau. Với
những học sinh yếu hơn, tôi thường có thêm điểm cộng ở sau, khi trả bài, tôi sẽ nói
luôn ở trước lớp, rằng “những bạn đó có nhiều cố gắng nên cô đã cộng thêm 1 điểm
khuyến khích”.Với những trường hợp không tiến bộ thì tôi cũng kiểm điểm nghiêm
khắc, có những hình thức kỉ luật nhất định, từ nhẹ nhàng nhắc nhở đến việc viết
bản kiểm điểm, mời phụ huynh.
Để việc học bài cũ, soạn bài mới có hiệu quả, điều quan trọng là giáo viên
cần có những hướng dẫn cụ thể cho học sinh tự học.Giúp các em có tinh thần tự
học, phát huy tính chủ động trong việc tìm hiểu nội dung bài học. Vì thế, trong buổi
học đầu tiên của năm học mới, tôi dành một khoảng thời gian cho việc đưa ra nội
quy riêng của bộ môn, trong đó tất nhiên không thể thiếu quy định việc học bài cũ,
Trang 7


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6


chuẩn bị bài mới. Tôi hướng dẫn khái quát cách soạn bài của từng phân môn: Văn
bản, Tiếng Việt, Tập làm văn để học sinh nắm rõ phương pháp học ở nhà. Phần dặn
dò sau mỗi tiết học, tôi đều dành vài phút để nêu những hướng dẫn, gợi ý cho việc
học bài cũ, soạn bài mới. Với việc học bài cũ, tôi thường dặn dò các em về xem lại
nội dung bài giảng, chỉ ra những nội dung trọng tâm để học sinh lưu ý nắm vững
kiến thức.Với việc yêu cầu học sinh soạn bài mới, tôi thường cụ thể hóa những yêu
cầu của nội dung bài học theo từng phân môn.
Phần văn bản: Yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xem phần chú thích từ khó
để hiểu đúng nội dung; nắm khái quát về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, bố
cục; trả lời các câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản, lưu ý về nội dung, nghệ thuật và ý
nghĩa của văn bản. và một số lưu ý cụ thể ở từng bài.
Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Bài học đường đời đầu tiên” của
Tô Hoài tôi thường yêu cầu:
+ Tìm hiều thêm về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí”.
+ Đọc phần chú thích, nắm những nét chính về tác giả, tác phầm; đọc kĩ
đoạn trích, nắm vững các từ khó;tìm các chi tiết miêu tả về ngoại hình, hành động,
tính cách của Dế Mèn; tìm chi tiết thể hiện thái độ của Dế Mèn sau khi gây ra cái
chết cho dế Choắt.
+ Soạn bài theo hệ thống câu hỏi phần Đọc - hiểu văn bản trong sách giáo
khoa.
Phần Tiếng Việt và Tập làm văn: Yêu cầu học sinh chú ý trước hết ở từng
mục. Đọc ví dụ, trả lời các câu hỏi để từ đó tự hình thành khái niệm và làm trước
các bài tập phần luyện tập.
Nếu xét thấy nội dung nào quá khó với năng lực của học sinh, tôi sẽ phân
chia công việc theo từng nhóm để các em trao đổi, thảo luận, giúp đỡ những bạn
yếu hơn. Giáo viên cần chú ý để tránh tạo áp lực về điểm số cho học sinh. Học bài
cũ, chuẩn bị bài mới mục đích chính là tạo tâm thế để học sinh tiếp thu bài tốt hơn.
2. Các giải pháp:
2.1. Soạn giảng và đổi mới phương pháp dạy học
Đây là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng dạy học nói riêng,

chất lượng giáo dục nói chung. Dù dạy – học là hai hoạt động có tính độc lập tương
đối nhưng lại là hai mặt của một quá trình: giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng,
hình thành, bồi dưỡng nhân cách, tình cảm cho học sinh, học sinh là người lĩnh hội,
làm chủ kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bắt buộc, người giáo
viên phải thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và rút
Trang 8


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

kinh nghiệm từ thất bại. Tuy nhiên, với suy nghĩ của cá nhân, tôi cho rằng, đổi mới
phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn phương pháp truyền
thống, mà cần biết kế thừa, phát huy trên cơ sở vận dụng phương pháp mới một
cách sáng tạo, có hiệu quả như:
2.1.1. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sơ đồ tư duy
vào giảng dạy
Công nghệ thông tin là một phương tiện dạy học hiện đại với những tính
năng ưu việt, tiện ích nổi trội của nó so với các phương tiện dạy học khác. Giáo án
điện tử là bước cải tiến lớn giúp giáo viên mang lại cho học sinh nhiều thông tin
hơn và các thông tin đó có thể được chứa đựng trong nhiều kênh khác nhau như
văn bản, hình ảnh, âm thanh và các đoạn video. Có thể nói, công nghệ thông tin đã
cung cấp điều kiện và phương tiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho công việc giảng dạy
của giáo viên môn Ngữ văn nói riêng, các bộ môn khác nói chung. Trong thực tế
giảng dạy của mình, tôi nhận thấy với những tiết học có sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin, học sinh tỏ ra rất hào hứng, chăm chú khi được trực quan bằng những
hình ảnh liên quan. Và vì thế, các em cũng nắm bài, nhớ được nội dung bài học tốt
hơn rất nhiều.
Khi có sự hỗ trợ công nghệ thông tin, ta cần chú trọng lồng ghép phương
pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào phần củng cố - đây là cách làm hiệu quả, giúp học

sinh nắm nội dung bài học một cách khái quát nhưng rất đầy đủ. Tôi thường dành 5
phút cuối giờ, yêu cầu các nhóm vẽ sơ đồ tư duy cho bài học sau đó để các em tự
trình bày cách hiểu của mình về nội dung bài học, rồi có thể đối chiếu với bảng sơ
đồ tư duy giáo viên chiếu lên bảng. Với cách này, tôi không chỉ tạo cho các em sự
thích thú khi được tự tay thiết kế một sản phẩm, mà còn rèn luyện tư duy chọn lọc
thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi nội dung cần thiết và logic nhất.
2.1.2. Tích cực dạy học theo chủ đề tích hợp và áp dụng giáo dục an ninh
quốc phòng
Đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học
môn Ngữ văn nói riêng để phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao chất
lượng giáo dục. Nội dung tích hợp cần tập trung vàonhững điểm quy tụ, liên kết nội
dung ba phân môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn trong văn bản để xây dựng các
tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương ứng nhằm giúp học sinh tích
hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có thể là những từ ngữ, câu
thơ, đoạn văn, những chi tiết, hình tượng, các sự kiện, quan hệ, tình huống mà
muốn cảm hiểu, cắt nghĩa, đánh giá đòi hỏi phải vận dụng tri thức liên văn bản,
phải tổng hợp hiểu biết nhiều mặt về lịch sử, văn hóa, xã hội, văn học, ngôn ngữ.
Đó còn có thể là tích hợp kiến thức những bộ môn khác như lịch sử, địa lí, giáo dục
Trang 9


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

công dân... Bằng cách tổ chức, thiết kế các nội dung, tình huống tích hợp để học sinh
vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết
vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp.
Với cách làm này, giáo viên vừa tạo được sự hào hứng của các em với môn học,
giúp các em tích hợp các kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội,xác lập mối liên hệ giữa các
tri thức và kĩ năng thuộc môn Ngữ văn với các môn khác.

Ở năm học 2018-2019, Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana đã triển
khai việc dạy lồng ghép“An ninh quốc phòng” vào giảng dạy. Sau khi được tập huấn
và có sự thống nhất trong tổ bộ môn, tôi đã mạnh dạn đưa vào chương trình học của
học sinh. Bên cạnh nội dung đã được định hướng ở một số văn bản tôi còn mở rộng,
liên hệ thực tế nhằm giáo dục ý thức công dân cho các em.
Ví dụ: Chương trình Ngữ văn 6 học kì 1 lồng ghép giáo dục An Ninh – Quốc
Phòng ở các văn bản: Con Rồng cháuTiên, Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm. Ngoài nội
dung đã có định hướng tôi giảng giải giúp các em tự hào về quê hương đất nước mình,
về trách nhiệm góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ đất
nước.
2.1.3. Dạy học trải nghiệm sáng tạo
Đây là một hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau.
Qua đó phát triển năng lực, phát huy tiềm năng sáng tạo của các nhân.
Trong năm học 2017 – 2018, bản thân tôi được tập huấn về việc dạy học trải
nghiệm sáng tạo theo định hướng năng lực cho giáo viên do Phòng giáo dục và đào
tạo huyện Krông Ana tổ chức, sau đó tôi về có triển khai và thấy kết quả khả quan.
Sang năm học 2018 – 2019, nhận thấy đây là một trong những nội dung không thể
thiếu, tôi đã lên kế hoạch ngay từ đầu năm và đưa vào áp dụng.
Ví dụ: Với chủ đề “Sân khấu hóa truyện dân gian”. Khi bắt đầu học truyện cổ
tích và truyện cười, tôi hướng dẫn học sinh cách thức làm việc, lắng nghe nguyện
vọng của học sinh để học sinh tự tư duy sáng tạo, giao việc và định hình về một tiết
thực hành sau khi học xong bài học. Cuối cùng là chọn thời điểm (có thể là tiết ngoại
khóa: hoạt động ngoài giờ lên lớp hay sinh hoạt lớp) để học sinh thực hành ngay trên
lớp.
Hình ảnh minh họa của các nhóm khi thực hành tiết “ Trải nghiệm sáng tạo”

Trang 10


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng

môn Ngữ văn 6

Trang 11


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

2.1.4. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ quan
tâm đến việc HS học được cái gì đến quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc
học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo
lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện
kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm,
đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng
nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng
riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên
môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh là sự kết hợp linh hoạt phương
pháp – kỹ thuật dạy học tích cực với phương pháp truyền thống, đồng thời với việc sử
dụng các phương tiện kỹ thuật phù hợp với môn học, kiểu bài. Chú trọng nhiều đến
khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề của học sinh.
Ví dụ: Sau khi hướng dẫn đọc thêm văn bản “Con Rồng cháu Tiên”, tôi giúp
học sinh củng cố bằng sơ đồ tư duy:
Trang 12


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6


Bài tập về nhà là học sinh vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản “Con Rồng cháu
Tiên”. Khi kiểm tra bài tập các em tôi đánh giá cao ý tưởng sử dụng đường nét, hình
ảnh, màu sắc ... để thể hiện nội dung. Chỉ có các chi tiết, sự việc là bám sát văn bản,
còn ý tưởng thì không có quy định nào. Học sinh rất hào hứng trong việc tìm tòi ý
tưởng để thể hiện nội dung nên các em hứng thú hơn với môn Ngữ văn.
2.2. Linh hoạt trong kiểm tra, đánh giá
Khi kiểm tra để lấy điểm miệng, không nên cứng nhắc là kiểm tra vào đầu
tiết học. Việc kiểm tra có thể linh hoạt chuyển đổi giữa tiết, hoặc cuối tiết học.
Cũng có thể cho điểm trong quá trình học bài mới, khi học sinh trả lời tốt, tích cực
tham gia xây dựng bài.
Khi kiểm tra 15 phút hoặc kiểm tra định kì, cần có sự phân loại đối tượng
học sinh, không nên ra những câu hỏi đánh đố hay những câu hỏi ngoài kiến thức
sách giáo khoa. Tôi thường ra đề thi có sự phân hóa đối tượng học sinh. Mức độ
nhận biết, thông hiểu, vận dụng ở cấp độ dễ chiếm 60-70% tổng số điểm bài thi,
câu hỏi khó, hoặc câu hỏi vận dụng cấp độ cao chiếm 30-40%. Với những đề như
vậy, học sinh yếu cũng có thể làm được 4-5 điểm, điều đó sẽ không tạo ra sự chán
nản hay thất vọng hoàn toàn với những em có học lực yếu. Cùng với những lời
động viên, khuyến khích kịp thời, những con điểm đó còn khích lệ tinh thần cho
các em, để các em cố gắng hơn trong những bài kiểm tra sau.
Khi chấm bài, bên cạnh đòi hỏi phải chấm chính xác theo yêu cầu đề ra được
thể hiện rõ qua điểm số, còn cần chấm sự sáng tạo, tình cảm chân thành của học
sinh để động viên, khích lệ. Tôi thường chỉ ra cụ thể lỗi sai, sửa trực tiếp trên bài
Trang 13


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

kiểm tra và có những nhận xét, bổ sung để học sinh thấy được hạn chế của mình để

khắc phục lần sau.
2.3. Giáo viên cần làm chủ kiến thức
Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học là giáo
viên phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, đảm bảo kiến thức chuyên môn, làm
chủ được phương pháp trong từng bài giảng, tránh trường hợp bị động, lung túng
trong quá trình dạy học. Điều này sẽ khiến cho học sinh quy phục và sẽ hứng thú
học tập với giáo viên bộ môn đó. Muốn vậy, chúng ta cần không ngừng tìm tòi, học
hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trước mỗi giờ lên lớp, cần phải
soạn giảng cẩn thận, bài bản, kĩ càng, chu đáo và làm chủ kiến thức. Như vậy, ta đã
thành công một nửa.
Giáo án minh họa:
Tuần 2

Ngày soạn:

Tiết PPCT: 5

Ngày dạy:

THÁNH GIÓNG
(Truyền thuyết)

A/MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
Giúp HS:
1. Kiến thức:
- Nắm được nội dung ý nghĩa và một số nét nghệ thuật tiêu biểu của truyện
Thánh Gióng.
2. Kĩ Năng:
- Kể lại được truyện.
- RLKN: Bước đầu nhận biết, phân tích truyện truyền thuyết

3. Thái độ:
-GDHS: Tinh thần đoàn kết, ý thức dân tộc và ý chí đấu tranh bảo vêh đất nước.
Thấy được sức mạnh đánh giặc của dân tộc ta từ xưa đến nay.
B/ PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC:
- Phương pháp quan sát trực quan, vấn đáp, hoạt động nhóm…
- KT “trình bày một phút”, Đọc hợp tác,…
- Sử dụng các dạng câu hỏi: Nêu vấn đề, tái hiện, yêu cầu có sự so sánh đối chiếu,
ứng dụng và liên hệ…
Trang 14


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

C/ CHUẨN BỊ:
1. GV: Giáo án, SGK, SGV, tranh về Thánh Gióng, giấy A4
2. HS: soạn bài, vở ghi
D/ CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NỘI DUNG HỌC TẬP
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
(?) Nêu ý nghĩa truyện Con Rồng cháu Tiên?
- Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới:
Chủ đề đánh giặc cứu nước thắng lợi là chủ đề lớn, cơ bản, xuyên suốt lịch sử
văn học VN nói chung, văn học dân gian VN nói riêng. Thánh Gióng là truyện dân
gian thể hiện rất tiêu biểu độc đáo chủ đề này. Truyện cho chúng ta biết về sức
mạnh đánh giặc có từ rất sớm của người Việt cổ và sức mạnh này luôn theo mỗi
con người VN trong công cuộc đánh giặc cứu nước.
Hoạt động của thầy và trò
 Hoạt động 1


Nội dung kiến thức
I/ Đọc - hiểu văn bản:

1. Đọc – Tìm hiểu
- GV gọi HS đọc tác phẩm. Đọc giọng: Rõ ràng,
chung:
mạch lạc.
- HS đọc và GV nhận xét cách đọc của mỗi HS.

- Đọc, tóm tắt

? Văn bản thuộc thể loại gì?

- Tìm hiểu từ khó

? PTBĐ chính mà tác giả sử dụng là gì?

- Thể loại:Truyền thuyết

?Văn bản có bố cục mấy phần? Nội dung của từng
phần?

- PTBĐ: Tự sự

- Đ1: từ đầu … “nằm đấy”:sự ra đời của Gióng
- Đ2: “Bấy giờ … cứu nước”: Gióng đòi đi đánh
giặc
- Đ3: “Giặc đã đến … lên trời”: Gióng đánh giặc
- Đ4: Phần còn lại: Những dấu tích còn lại.

? Truyền thuyết Thánh Gióng có những nhân vật
nào? Ai là nhân vật chính?
Trang 15

- Bố cục: 4 phần


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

- Hai vợ chồng ông lão, cậu Gióng, sứ giả, nhân dân,

- Nhân vật chính: Thánh Gióng

2. Tìm hiểu văn bản:

? Theo dõi văn bản, em thấy những chi tiết nào kể về
a. Sự ra đời của Thánh
sự ra đời và lớn lên của Thánh Gióng?
Gióng.
(Hs trả lời)
- Bà mẹ ướm chân thụ thai
12 tháng mới sinh
? Một đứa bé được sinh ra như thế là bình thường - Cậu bé lên 3 không biết
hay kì lạ?
nói biết cười
- Kì lạ, khác thường. Bình thường người phụ nữ chỉ  Kì lạ, khác thường
mang thai 9 tháng 10 ngày nhưng bà mẹ TG mang
thai 12 tháng mới đẻ. Hơn nữa khi sinh ra cậu có mặt
mũi khôi ngô nhưng lên ba mà vẫn chưa biết nói, biết

cười cứ đặt đâu thì ngồi đó
? Câu hỏi thảo luận: Nhân vật Thánh Gióng được
xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo như
vậy có ý nghĩ gì ?
Định hướng:
- Một đứa bé như thế nhất định phải là người khác
thường, phi thường. Thứ hai lên ba tuổi mà không
biết nói thì khi nói lời đầu tiên phải là lời thiêng liêng
quan trọng khác thường.
? Thánh Gióng cất tiếng nói khi nào.?

b. Gióng đòi đi đánh
giặc.

-Thánh Gióng cất tiếng nói khi đất nước lâm nguy - Tiếng nói đầu tiên là tiếng
cần người tài giỏi đánh giặc
nói đòi đi đánh giặc
? Tiếng nói đầu tiên của Gióng là gì ? Hãy trình bày -> Biểu lộ lòng yêu nước
hiểu biết của em về ý nghĩa của chi tiết này ?
sâu sắc của TG
- Tiếng nói đầu tiên của Thánh Gióng là tiếng nói đòi
đi đánh giặc
- Biểu lộ lòng yêu nước sâu sắc của TG. TG đang
nằm một chỗ chẳng nói chẳng cười, vừa nghe tiếng
sứ giả kêu gọi người ra cứu nước thì lập tức cậu bé
ngồi bật dậy, lại nói luôn được rành rọt, dõng dạc đâu
ra đó. Điều này cho thấy TG là biểu tượng cho những
Trang 16



Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

người dân bình dị, bình thường thì chăm chỉ làm ăn - Đòi ngựa sắt , roi sắt, giáp
nhưng khi tổ quốc lâm nguy thì vùng lên mạnh mẽ để sắt
bảo vệ tổ quốc
? Thánh Gióng đòi những gì để ra trận?
- Đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt

 Đánh giặc cần có lòng
? Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc. yêu nước, nhưng cần cả vũ
điều này có ý nghĩa gì?
khí sắc bén để đánh thắng
- Đánh giặc cần có lòng yêu nước, nhưng cần cả vũ giặc
khí sắc bén để đánh thắng giặc. Đồng thời phản ánh
thành tựu của nền văn minh dân tộc
? Để có được những vũ khí đó một người có làm
được không. Điều đó được chứng minh trong văn
bản như thế nào ?
- Không, phải huy động công sức của toàn dân. “
Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp”
? Vua đã lập tức cho rèn ngựa sắt, áo giáp sắt… theo
đúng yêu cầu cầu của Gióng. Nó có ý nghĩa gì?
- Gióng là người thực hiện ý chí và sức mạnh của
toàn dân tộc.

- Gióng lớn nhanh như thổi
cơm ăn mấy cũng không no,
- Từ sau hôm gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi áo vừa mặc xong đã căng
cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ.

căng đứt chỉ.
? Sau khi gặp sứ giả sự việc kì lạ gì đã xảy ra ?

? Trong nhân dân còn truyền tụng những câu ca dao
nói về sức ăn uống phi thường của Gióng:
“ Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi nước, cạn đà khúc sông”
Điều đó nói lên suy nghĩ và ước mong gì của nhân
dân về người anh hùng đánh giặc?
- Người anh hùng là người khổng lồ trong mọi sự
việc kể cả sự ăn uống. Điều đó cũng phản ánh ước
mong Gióng lớn nhanh để kịp đánh giặc.
? Những người nuôi Gióng lớn là ai? Nuôi bằng cách
Trang 17


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

nào?

- Dân làng gom góp gạo
- Cha mẹ và bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo nuôi Gióng.
nuôi Gióng.
? Chi tiết bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo  Sức mạnh của Gióng là
nuôi Gióng có ý nghĩa gì?
sức mạnh của cả cộng đồng
- Anh hùng Gióng thuộc về nhân dân. Sức mạnh của
Gióng là sức mạnh của cả cộng đồng.
? Sau khi được dân làng góp gạo nuôi, Gióng trở

thành người như thế nào?
- Vươn vai một cái thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt.
? Em suy nghĩ ntn về cái vươn vai thần kì của Thánh
Gióng?
- Là cái vươn vai phi thường, là ước mong của nhân
dân về người anh hùng đánh giặc.
* Giảng: là một yếu tố thần kì trong truyện dân gian.
Người anh hùng là người đạt tới sự khổng lồ, cái
vươn vai của Gióng là để đạt tới sự khổng lồ ấy…
? Gióng đánh giặc như thế nào ?

c. Gióng đánh thắng
giặc và trở về trời:

- Đón đầu đánh hết lớp này đến lớp khác, giặc chết
- Đón đầu đánh hết lớp này
như rạ
đến lớp khác, giặc chết như
? Trong khi đánh giặc sự việc gì đã xảy ra, Thánh rạ
Gióng xử lí việc đó như thế nào ?
- Roi sắt bị gãy, Gióng nhổ
- Roi sắt bị gãy, Gióng nhổ những cụm tre bên đường những cụm tre bên đường
quật vào giặc
quật vào giặc
? Theo em, chi tiết “ Gióng nhổ những cụm tre bên
đường quật vào giặc” khi roi sắt gãy có ý nghĩa gì?
- Gióng đánh giặc không
- Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà còn chỉ bằng vũ khí mà còn
bằng những thứ dân dã đời thường. Thể hiện tinh bằng những thứ dân dã đời
thần tiến công mãnh liệt của người anh hùng.

thường
Gv liên hệ: Ở nước ta, đến cả cây cỏ cũng thành vũ Tinh thần tiến công mãnh
khí giết kẻ thù, đúng như lời Bác Hồ : “Ai có súng liệt của người anh hùng.
dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Ai không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc …”
Trang 18


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

? Vì sao đánh tan giặc, Gióng cởi áo giáp sắt để lại
và bay về trời? theo em chi tiết này có ý nghĩa gì?
- Gióng ra đời phi thường và ra đi cũng phi thường
 Làm việc nghĩa vô tư không vì vinh hoa phú quí.
- Nhân dân muốn giữ mãi hình ảnh cao đẹp, rực rỡ
- Đánh tan giặc, Gióng cởi
của người anh hùng cứu nước.
áo giáp để lại và bay về trời.
GV đặt câu hỏi liên hệ thực tế phát triển năng lực Là người có công đánh giặc
HS:
nhưng không màng danh
? Truyền thuyết thường liên quan đến lịch sử. Theo vọng.
em, những di tích nào còn lưu lại ?
- Tre đằng ngà, vết chân ngựa, đền thờ ở làng Gióng
? Hãy nêu ý nghĩa của truyện Thánh Gióng?
 Cuối cùng GV chỉ định 1 HS đọc to phần Ghi nhớ
để nắm kĩ nội dung bài học.
 Hoạt động 3


* Ghi nhớ - SGK

- Gv hướng dẫn hs làm bài

II. Luyện tập.

? Hình ảnh nào của Gióng là hình ảnh đẹp nhất trong
Bài tập 1:
tâm trí em? Nêu lí do?
Học sinh tự bộc lộ và giải
thích
? Theo em, tại sao hội thi nhà trường phổ thông lại
mang tên Hội khoẻ Phù Đổng?

Bài tập 2
- Đây là hội thi dành cho
lứa tuổi thiếu niên – lứa tuổi
Gióng.
- Mục đích của hội thi là
khoẻ mạnh, sức mạnh để
học sinh có thể học tập tốt,
lao động tốt góp phần vào
sự nghiệp bảo vệ đất nước.

4. Củng cố: GV hướng dẫn HS củng cố bài bằng sơ đồ tư duy nội dung văn bản.

Trang 19


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng

môn Ngữ văn 6

5. Dặn dò:
- Đọc lại tác phẩm. Xem nội dung bài.
- Học thuộc phần Ghi nhớ. Vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản theo cách của em.
- Soạn bài “ Từ mượn”.
IV. Tính mới của giải pháp
Có thể với những giải pháp trên đây nhiều giáo viên cũng đã từng áp dụng
nhưng riêng bản thân tôi, khi được tập huấn và đưa vào áp dụng trong các tiết học,
tôi nhận thấy những điểm mới ở đề tài này đề cập là:
- Các giải pháp tôi đưa ra đây có quan hệ mật thiết không tách rời, sự kết hợp
đồng bộ các giải pháp sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc khơi gợi niềm đam mê
của học sinh với bộ môn Ngữ Văn.
- Học sinh đã hứng thú hơn khi được học những tiết có ứng dụng CNTT. Học
sinh tự do sáng tạo vẽ sơ đồ tư duy nội dung bài học theo suy nghĩ của mình.
- Hay trong tiết trải nghiệm sáng tạo học sinh có thể tự biến hóa mình thành
những nhân vật yêu thích trong văn học. Qua đó các em cũng tự tin và hứng thú
hơn rất nhiều khi đến tiết văn.
Trang 20


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

- Khi dạy học phát triển năng lực học sinh thì các em được thể hiện mình,
được làm chủ kiến thức. Từ đó, giáo viên sẽ tìm kiếm và phát triển được những học
sinh có năng khiếu của bộ môn một cách rõ nét.
V. Kết quả khảo nghiệm
Với những biện pháp trên đây, chất lượng bộ môn trong hai năm học qua đã
được nâng cao rõ rệt.

- Năm học 2017 – 2018:
Năm học

2017-2018

Giỏi

Khá

29
36

2
7

5
15

Điểm
Trung
bình
16
14

65

9

20


30

Lớp

Sĩ số

6A1
6A7
Tổn
g
cộng

Yếu

Kém

4
0

0
0

4

0

13,5
47,5
32%
7%

0%
%
%
- Đặc biệt trong học kì một (năm học 2018-2019) cụ thể:
Điểm
Lớp Sĩ số
Trung
Năm học
Giỏi
Khá
Yếu Kém
bình
6A3
26
1
3
19
3
0
6A6
35
8
12
15
0
0
Tổn
2018-2019
g
61

9
15
34
3
0
cộng
14,6
24,4
Tỉ lệ
56%
5%
0%
%
%

Ghi
chú

Tỉ lệ

Ghi
chú

Qua kết quả thống kê điểm của học sinh qua các bài kiểm tra, tôi nhận thấy rằng
chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn được tăng lên rõ rệt, tỉ lệ học sinh bị điểm yếu, kém
đã giảm đi đáng kể, cụ thể như sau:
Năm học 2017- 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 93%
Năm học 2018- 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 95%

Với kì thi học sinh giỏi văn hóa cấp huyện vừa qua (năm học 2018 -2019)

học sinh do tôi trực tiếp giảng dạy đạt 1 giải nhì, 2 giải ba. Điều đó cho thấy tính
Trang 21


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

hiệu quả của đề tài khá tốt. Có được kết quả này phần quan trọng là do học sinh đã
có hứng thú với bộ môn Ngữ văn.

Trang 22


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

PHẦN THỨ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với những giải pháp đưa ra trên đây, tôi tin rằng nó phù hợp với điều kiện thực
tế giảng dạy ở trường tôi nói riêng, các trường bạn trên địa bàn huyện Krông Ana,
kể cả ở nhiều cấp học. Đề tài là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm
học sinh nơi tôi đang công tác giảng dạy và còn có những ý kiến, thảo luận từ các
đồng nghiệp nên tôi tin rằng nó giá trị tham khảo, học tập không chỉ đối với giáo
viên môn Ngữ văn mà còn cho các giáo viên bộ môn khác.
2. Kiến nghị
a. Đối với phòng giáo dục
Với mong muốn thực hiện có hiệu quả những giải pháp để nâng cao chất
lượng bộ môn, tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhỏ với cấp trên:
Cần cung cấp thêm những thiết bị dạy học như sách tham khảo, nghiên cứu,
tranh ảnh, đặc biệt là máy chiếu, tiến tới mỗi phòng học có một máy chiếu, giúp

giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học một cách thuận tiện, hiệu quả
nhất.
Tổ chức nhiều buổi ngoại khóa. Hoạt động này vừa giúp các em có thêm
kiến thức vừa giúp các em thoải mái, có hứng thú hơn trong học tập. Đồng thời còn
rèn cho các em kĩ năng sống, hoạt động tập thể.
Thường xuyên tổ chức các chuyên đề về môn Ngữ văn để nâng cao chuyên
môn, để giải quyết những vấn đề khó, xây dựng cách dạy hiệu quả của một bài, một
vấn đề cụ thể nào đó.
b. Đối với nhà trường
Cần tổ chức thường xuyên hơn nữa những buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm
chia sẻ một số kinh nghiệm giảng dạy của những giáo viên có năng lực chuyên môn
vững vàng, để giáo viên trong trường học hỏi để ngày một hoàn thiện phương pháp
giảng dạy của mình.
Eana, ngày 23/04/2019
Người thực hiện

Phạm Thị Thu Huyền
Trang 23


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 6
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004–
2007) môn ngữ văn – quyển 1 và 2 – NXB Giáo dục
3. Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và
tích cực – Đoàn Thị Kim Nhung - NXB Đại học quốc gia TPHCM
4. Bài viết “Vai trò của văn học trong sáng tạo văn hóa” của nhà nghiên cứu

Trần Đình Sử.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải thông tin theo nguồn internet

Trang 24


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

Trang 25


×