Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

đề cương triết học cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.99 KB, 7 trang )

Câu 1: Hãy phân tích nội dung và vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật: Từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại. Theo anh ( chị) có nhưng sai làm mang tính chủ quan như thế nào khi vận dụng quy
luật này?
1- Các khái niệm
1.1- Khái niệm về chất
Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc tính và đặc điểm cấu trúc của sự vật. Tính
quy định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua
các thuộc tính. Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì
chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc tính không cơ bản thì trong quá trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản mới
nảy sinh và có những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi. Thuộc tính chỉ bộc lộ thông qua quan
hệ với sự vật khác. Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng
1.2-Lượng của sự vật
Lượng là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc độ, trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói
đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp..v..v..đo bằng các đại lượng cụ
thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác.
1.3- Khái niệm về Độ
Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện tượng đều
tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự vật không còn là nó.
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng
đều có ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến thay đổi về chất. Chỉ
trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật
khác.
1.4-Điểm nút
Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút gọi là đường nút.
1-5-Bước nhảy
Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.
+ Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng một
sự bùng nổ mãnh liệt. VD cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần những yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một
thời gian dài mới loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới.


2. Phân tích nội dung quy luật lượng-chất.
2.1 Nội dung quy luật này được phát biểu như sau
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn
tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật
mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn
tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và
lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
2.2 Phân tích nội dung quy luật
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự
thay đổi dần về lượng được tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương
đối ổn định. Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh
yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự
biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức
độ, nhịp điệu phát triển mới.
a) Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất:
Quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra bằng cách lượng đổi dẫn đến chất đổi. Sự vật tồn tại trong sự thống nhất giữa chất
và lượng. Chất lượng tương đồng qua lại lẫn nhau. Lượng biến đổi dẫn đến tăng hoặc giảm trong giới hạn đó. Sự thay đổi về lượng
chất làm thay đổi hoàn toàn về chất, nhưng ảnh hưởng đến trạng thái của chất. Lượng phát triển đến một mức độ nhất định hết giới
hạn đó thì đó chính là điểm nút ở đây xảy ra nhảy vọt. Đó là sự chuyển biến về chất, chất cũ mất đi, chất mới ra đời thay thế cho sự
vật cũ mất đi nhường chỗ cho sự vật mới ra đời. Nhảy vọt kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn trong quá
trình vận động liên tục của sự vật nhưng nó không chấm dứt sự vận động mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật, chấm dứt
một giai đoạn vận động này sang một giai đoạn vận động khác.
b) Chất mới ra đời tác động đến sự biến đổi của lượng. Chất mới ra đời tạo mọi sự thống nhất mới giữa chất và lượng và đổi mới.
Chất mới hình thành quy định sự biến đổi của lượng. Sự ảnh hưởng của chất đến lượng có thể biểu hiện ở quy mô, mức độ, nhịp
điệu phát triển của lượng mới. Trong sự vật mới, lượng lại tiếp tục biến đổi dẫn đến hết giới hạn đó, đó là điểm nút, ở đây lại xảy ra
nhảy vọt và có sự chuyển biến về chất, chất mới ra đời, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế cho nó. Sự ra đời của chất mới

lại tác động đến sự biến đổi của lượng mới, cứ như vậy, hiện tượng vận động, phát triển lúc thì dẫn đến lượng, lúc thì nhảy vọt về
chất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích lũy về lượng, nếu không coi trọng quá trình này thì không có
sự biens đổi về chất


Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đờiphair biết
xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng cho thích hợp, không được bảo thủ, dừng lại
Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận tích lũy về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn
hữu khuynh thì ngược lại khi lượng biến đổi đã vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.
4. Những sai lầm mang tính chủ quan:
- Việc nắm vững mối liên hệ biện chứng giữa thay đổi về chất có ý nghĩa phương pháp luận tổng quan cho chúng ta nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
- Trong hoạt động thực tiễn nhất là trong đấu tranh cách mạng phải biết chớp thời cơ và tận dụng thời cơ nhằm tạo nên sự phát triển.
- Chống quan điểm sai lầm của chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng nh- chủ nghĩa vô chính phủ tả khuynh.
- Quan điểm của chủ nghĩa xét lại hữu khuynh, cải lương phủ nhận tính tất yếu của bước quá độ mang tính cách mạng, chỉ thừa nhận
tiến hóa là hình thức thay đổi duy nhất của xã hội.
- Chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cơ hội tả khuynh phủ nhận hình thức phát triển mang tính liên tục chỉ thừa nhận những bước
nhảy có tính chất cách mạng mang tính phiêu lưu. Quan điểm chủ quan nôn nóng cũng là biểu hiện của nó.
- Nắm vững quy luật này có ý nghĩa to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã
hội nước ta nói chung.


Câu 1 tham khảo thêm:
Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật.
1. Nội dung cơ bản của quy luật lượng-chất:
- Vị trí quy luật: là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật nói lên cách thức của quá trình vận động phát triển của

sự vật hiện tượng.
- Khái niệm cơ bản:
+ Chất: là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, đặc
trưng làm cho nó là nó và khác với những cái khác.
- Chất của sự vật bộc lộ ra thông qua các thuộc tính về chất của nó, cả chất và thuộc tính về chất đều là khách quan vốn có của sự
vật nhưng bộc lộ ra thông qua mối quan hệ qua lại.
- Chất của hệ thống có liên quan nội tại với chất của các bộ phận cấu thành và phương thức liên kết giữa chúng.
+ Lượng: là khái niệm dùng để chỉ tính qui đinh vốn có của các sự vật về lượng, nó biểu thị quy mô tồn tại của sự vật, quảng tính
của sự vật, số lượng các bộ phận, thuộc tính của sự vật.
- Lượng là mặt khách quan vốn có của sự vật.
- Lượng của sự vật bộc lộ ra thông qua các thuộc tính về lượng, thuộc tính về lượng cũng bộc lộ ra thông qua mối quan hệ.
- Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất:
+ Lượng đổi dẫn đến chất đổi
- Mọi sự vật đều có mặt chất và mặt lượng của nó, khi sự vật vận động và phát triển, cả hai mặt chất và lượng đều biến đổi theo. Sự
thay đổi lượng có thể diễn ra trong một khoảng nhất định mà chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
- Độ: là khái niệm dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, đó là khoảng thưòi gian giới hạn mà trong giới hạn đó lượng thay
đổi nhưng chất chưa thay đổi về cơ bản.
- Điểm nút: là điểm giới hạn trong sự thay đổi về lượng mà sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất
của sự vật.
- Nhảy vọt: là khái niệm dùng để chỉ 1 giai đoạn trong qúa trình vận động và phát triển ở đó sự thay đổi về lượng đang dẫn tới sự
thay đổi căn bản về chất của sự vật.
+ Chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi về lượng: làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, thay đổi nhịp điệu vận động và
phát triển của sự vật đó.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nhận thức: để có tri thức đầy đủ về sự vật, phải có nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó, khi đạt tới tri thức về sự thống nhất
giữa lượng và chất ta sẽ có tri thức hoàn chỉnh về sự vật đó.
- Thực tiễn: cần chống hai chủ quan sai lầm là tuyệt đối hoá qúa trình thay đổi về chất hay tuyệt đối hoá quá trình thay đổi về lượng.


Câu 2: Hãy phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật: “ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập”.

Theo anh ( chị) có nhưng sai lầm mang tính chủ quan như thế nào khi vận dụng quy luật này?
Trả lời:
1) Khái niệm
*/ Để nắm vững được nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, chúng ta cần nắm vững một số quy luật cơ bản
sau:
+ Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính những quá trình có khuynh h-ớng biến đổi trái ngược nhau tạo nên sự tồn tại của sự
vật hiện tượng.
+ Mâu thuẫn là khái niệm chỉ sự liên hệ tác động lẫn nhau của các mặt đối lập, mỗi mâu thuẫn là 1 cặp đối lập trong cùng một sự vật
vừa thống nhất với nhau vừa thường xuyên đấu tranh với nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc lẫn nhau nương tựa vào nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại cho mình.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau sự chuyển hóa lẫn nhau của các
mặt đối lập.
2) Nội dung quy luật:
- Mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập của sự vật hiện tượng thống nhất với
nhau tạo nên một mâu thuẫn khi mới xuất hiện mâu thuẫn biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt trong sự vật khác nhau do dần dần
chuyển thành sự đối lập khi đó mâu thuẫn rõ nét 2 mặt đối lập đấu tranh với nhau sự đấu tranh phát triển dến gay gắt lên đến đỉnh
cao thì xảy ra xung đột giữa hai mặt của mâu thuẫn hai mặt đó chuyển hóa với nhau trong những điều kiện nhất định tức là mâu
thuẫn được giải quyết kết thúc sự thống nhất cũ của các mặt đối lập, một sự thống nhất mới xuất hiện, mâu thuẫn cũ mất đi, mâu
thuẫn mới ra đời, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế cho nó trong sự vật mới có sự thống nhất mới các mặt đối lập lại đấu
tranh với nhau mâu thuẫn lại phát triển và lên đến đỉnh cao thì được giải quyết đó là sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập
diễn ra thường xuyên làm cho sự vật vận động, phát triển không ngừng đó là quy luật vốn có của sự vật hiện tượng, sự chuyển hóa
của các mặt đôi lập là tất yếu và diễn ra muôn hình muôn vẻ đối với các sự vật khác nhau, sự chuyển hóa của các mặt đối lập cũng
khác nhau có 2 hình thức cơ bản:
- Mặt đối lập này trực tiếp chuyển thành mặt đối lập kia, sang cái đối lập với mình.
- Cả hai mặt đối lập đều chuyển hóa thành cái khác lên hình thức cao hơn.
3. ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát

hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái
ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V. I. Lênin
viết: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận của nó..., đó là thực chất... của phép biện chứng"1.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn
nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại
giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu
hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu
thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác, phải
tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau
phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng
loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
4. Những sai lầm mang tính chủ quan:
- Mâu thuẫn là khách quan và phổ biến, chúng là phân tích các mặt đối lập tìm ra mâu thuẫn của nó có như vậy mới nắm được bản
chất của sự vật hiện tượng mới tìm ra khuynh hướng vận động và phát triển của chúng để có biện pháp cải tạo sự vật.
- Phương pháp phân tích mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn có quá trình phát triển cho nên nó được giải quyết khi đã có đủ điều kiện để giải quyết. Việc giải quyết mâu thuẫn phải
luôn theo quy luật khách quan.
+ Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh, các hình thức đấu tranh cũng phải khác nhau để phù hợp với từng loại
mâu thuẫn, mâu thuẫn phải được giải quyết một cách cụ thể có nhiều hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập nên chúng ta phải căn
cứ vào tình hình cụ thể để lựa chọn hình thức đấu tranh phù hợp nhất.


Câu 3: (Tùy theo quan điểm của mỗi người mà trình bày)
1. Từ vị trí công tác của bản thân. Anh ( chị ) hãy vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Trước hết ta phải hiểu được nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phép biện chứng duy vật là học
thuyết nghiên cứu về bản chất biện chứng của thế giới dựa trên thế giới quan duy vật khoa học, là công cụ hữu hiệu cho nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người. Việc nắm vững các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật để có một tư duy

khoa học, linh hoạt, mềm dẻo sẽ chỉ lối cho chúng ta trong quá trình hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hoạt động quản lý trong doanh
nghiệp. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đưa ra một số nội dung vận dụng phép biện chứng duy vật trong quản lý nhân lực
của doanh nghiệp, đó là: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển và nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
Trước những yêu cầu tất yếu đó, các nhà quản lý không thể không quán triệt những nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy
vật trong hoạt động thực tiễn, mà trực tiếp là trong hoạt động khai thác các nguồn lực - trước hết là nguồn lực con người.
Trong doanh nghiệp, con người luôn là yếu tố chủ thể, quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cùng với sự vận động, biến đổi
của thực tiễn, con người cũng luôn vận động và phát triển. Bởi thế, để đạt được hiệu quả tối ưu trong kinh doanh, người quản lý
doanh nghiệp phải có tư duy biện chứng, phải dùng phương pháp biện chứng để quản lý con người. Trong phạm vi bài viết này, em
xin đưa ra một số nội dung vận dụng phép biện chứng duy vật trong quản lý nhân lực của doanh nghiệp, đó là 4 nguyên tắc sau:
nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển và nguyên tắc lịch sử - cụ thể, ta sẽ vận dụng 4 nguyên tắc này
vào trong doanh nghiệp để quản lý nhân lựcnh] sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc khách quan
Nguyên tắc khách quan yêu cầu chủ thể trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần xuất phát từ thực tế
khách quan, không xuất phát từ ý muốn chủ quan của mình. Mọi sự biến xảy ra đều có nguyên nhân khách quan của nó nên chủ
thể nhận thức cần tìm ra các nguyên nhân khách quan bên trong bản thân sự vật hiện tượng, không áp đặt những suy đoán mang
tính cá nhân duy ý chí của mình.
Trong quản lý nhân lực doanh nghiệp, người quản lý cần khách quan trong đánh giá con người ngay từ khâu tuyển chọn đến sắp
xếp, phân công nhiệm vụ.
Trước hết, nhà quản lý khi tuyển nhân sự cần lên một kế hoạch chi tiết, trong đó vạch rõ các yêu cầu cụ thể đối với các vị trí cần
tuyển. Khi đã có một kế hoạch chi tiết như thế rồi thì nhà quản lý căn cứ trên những tiêu chí khách quan đó để lựa chọn ứng viên
và tổ chức thi tuyển (bao gồm cả phỏng vấn). Vận dụng phương pháp này sẽ giảm được chi phí không cần thiết cho việc loại bỏ rồi
lại tuyển mới nhiều lần về sau cho cùng một vị trí. Khi đã tuyển nhân sự với các năng lực cá nhân đúng với yêu cầu của các vị trí
cần tuyển thì cần phân công công việc đúng với các năng lực mà họ có (đó là yếu tố khách quan, không thể áp đặt). Chẳng hạn,
nếu một người không có năng lực làm tiếp thị, mà lại được phân công làm nhân viên tiếp thị thì nguy cơ thất bại là rất lớn. Tất
nhiên, với những người đa năng thì nhà quản lý lại cần vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể để sử dụng
một cách hữu hiệu nhất.
Vận dụng quan điểm khách quan cũng yêu cầu người quản lý khi quản lý và đánh giá nhân viên của mình phải gắn họ với những
điều kiện, hoàn cảnh khách quan, không gian, thời gian cụ thể để tránh những sai lầm không đáng có. Mọi sự tách rời quan điểm
này đều mắc bệnh chủ quan, duy tâm trong quản lý. Chẳng hạn, người quản lý không thể đánh giá nhân viên của mình thiếu trách
nhiệm (khi rời nhiệm sở và đã thông báo với người quản lý đề nghị người thay thế) để về nhà vì con bị ốm nặng; không thể đổ lỗi

cho nhân viên không hoàn thành nhiệm vụ do những nguyên nhân khách quan bất khả kháng như do thời tiết bất thường, do bị cắt
điện, nước... Tương tự như vậy, người quản lý cũng không thể đánh giá nhân viên của mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ vì
mình có cảm tình với nhân viên, mặc dù thời điểm thực hiện nhiệm vụ đó nhân viên của mình đang rời nhiệm sở đi giải quyết
công việc cá nhân mà không có lý do chính đáng.
Thứ hai: Nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu chủ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần có cái nhìn, cách xem xét sự vật hiện
tượng trong vô vàn các mối liên hệ để có những nhận thức đúng và hoạt động cải tạo đạt hiệu quả cao.
Trong quản lý doanh nghiệp, người quản lý cần đặt đối tượng quản lý của mình trong nhiều mối quan hệ qua lại (vì bản chất con
người, xét trong tính hiện thực cụ thể, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội). Mỗi nhân viên của doanh nghiệp không chỉ thể hiện
bản chất con người của mình trong quan hệ công việc mà còn trong nhiều quan hệ khác nữa. Ví dụ là con người, ta phải có
những nhu cầu tối thiểu của con người, mang tính người, đó là nhu cầu khẳng định mình thông qua lao động sáng tạo. Do vậy ta
không dễ dàng chấp nhận làm những công việc nhàm chán thiếu tính sáng tạo và không phù hợp với năng lực của mình. Mặt
khác, vì là con người nên ta không chỉ ngày đêm đem sức mình phục vụ cho doanh nghiệp mà còn có nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí,
yêu thương… … trong vô vàn các mối quan hệ người - người. Chắc chắn những mối quan hệ này sẽ ảnh hưởng phần nào đó (lợi
hoặc hại) đến doanh nghiệp. Do vậy nhà quản lý cần kết hợp nguyên tắc khách quan với nguyên tắc toàn diện, nhìn nhận thấu đáo
để quản lý hiệu quả nhất. Bài học này yêu cầu khi nhìn nhận đánh giá nhân viên thì nhà quản lý cần tìm hiểu những trạng thái
tâm lý của nhân viên từ thực tiễn cuộc sống, thực tiễn công việc của họ, từ các mối quan hệ giao tiếp của họ.
Theo nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật, người quản lý cần phải quan tâm đến các mối quan hệ phong phú giữa


những người lao động trong công ty, phân loại các mối quan hệ, tìm ra các mối quan hệ cơ bản, chủ yếu, mối quan hệ không cơ
bản, thứ yếu. Đồng thời, trong từng quan hệ có nội dung riêng, không thể lấy nội dung của quan hệ này áp đặt cho nội dung của
quan hệ khác.
Thứ ba: Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc phát triển yêu cầu chủ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần đặt sự vật, hiện tượng trong tiến trình
vận động phát triển để nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan (vì bản chất của sự vật là không bất biến).
Quán triệt nguyên tắc này, người quản lý trước hết cần nhận thức rằng mọi năng lực của nhân viên từ khi tuyển dụng cho đến lúc
nghỉ hưu không phải là vĩnh viễn không thay đổi. Chính vì thế, khi tuyển dụng nhân viên, nhà quản lý không chỉ nhìn vào bằng
cấp với sự hiện hữu của những điểm số và các giấy chứng nhận thành tích mà còn phải đánh giá được mức độ quan tâm của ứng
viên về đường hướng phát triển của công ty/ doanh nghiệp. Mặt khác tìm mọi cách để có thể đánh giá được khả năng và mức độ

thích ứng với sự thay đổi, sự phát triển của ngành nghề, của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những nhân viên có khả năng sáng tạo, thích cái mới, năng động, thích ứng nhanh với sự
thay đổi thường được ưu tiên hơn những nhân viên chỉ giỏi một lĩnh vực, trung thành nhưng máy móc, không chấp nhận sự đổi
thay.
Để đảm bảo cho mục tiêu phát triển, người quản lý phải phát hiện và giải quyết tốt những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát
triển của doanh nghiệp.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự phát triển (tuân theo đường xoáy ốc, bao hàm cả bước thụt lùi…) thực hiện
thông qua việc giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân sự vật. Trong doanh nghiệp, tồn tại nhiều mâu
thuẫn mà rõ nét nhất là mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, mâu thuẫn giữa những người lao
động với nhau, mâu thuẫn giữa những yêu cầu mà khách hàng đặt ra với lợi ích của doanh nghiệp…
Người quản lý phải phát hiện ra mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn, song xuyên suốt là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn cơ bản mâu thuẫn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp - đó là mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa khách hàng với doanh
nghiệp. Ở đây, người quản lý phải nắm được tâm lý, thị hiếu, sức mua… của khách hàng, để từ đó điều hành sản xuất, tạo ra
được sản phẩm có mẫu mã, tính tiện ích và giá trị phù hợp với sức mua của khách hàng, bởi nếu một trong các tiêu chí cơ bản đó
không phù hợp sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, sản phẩm sẽ không bán được, khách hàng không thỏa mãn và
doanh nghiệp ế ẩm, thua lỗ, dẫn đến nguy cơ phá sản. Như thế, khi mâu thuẫn cơ bản này được giải quyết sẽ tạo nên động lực
cho sự phát triển của doanh nghiệp, cho nền kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ doanh nghiệp với người lao động có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nếu
như giải quyết mâu thuẫn giữa khách hàng với doanh nghiệp được coi là động lực quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp, thì việc giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa chủ doanh nghiệp với người lao động sẽ là động lực cho sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp. Đối với người lao động, sự cống hiến sức lực và trí tuệ là để thỏa mãn nhu cầu cơ bản về lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần. Bởi vậy, để khai thác tối ưu nguồn lực con người này, nhà quản lý phải giải quyết hài hòa, tốt đẹp mâu thuẫn
bằng việc quan tâm đúng mức đến nhu cầu vật chất và tinh thần, tạo cho người lao động một thái độ tin tưởng, hăng say, tích cực,
chủ động, sáng tạo, trách nhiệm trong công việc, yêu nghề nghiệp và yêu công ty của mình.
Để tạo một môi trường làm việc thân thiện, đoàn kết, phát triển, người quản lý cũng phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa những
người lao động với nhau, mà trước hết là phải bố trí, sắp xếp nhân sự phù hợp với phẩm chất và năng lực một cách khách quan.
Nếu chủ quan trong công tác này, sẽ tạo nên mầm mống cho mâu thuẫn giữa những người lao động.
Thứ tư: Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể chính là sự kết hợp cả nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển và thực chất, xét cho cùng, tất cả
việc quán triệt những nguyên tắc đó chính là quán triệt nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu chủ thể trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có cái nhìn mang tính cụ thể, phù hợp với những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của sự

vật, hiện tượng. Cơ sở khách quan của nguyên tắc này chính là sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển chứ không bất biến.
Thực tiễn luôn vận động, do vậy chân lý luôn mang tính cụ thể chứ không trừu tượng.
Quán triệt nguyên tắc này trong quản lý nhân lực, nhà quản lý cần xuất phát từ con người cụ thể và những công việc cụ thể để có cái
nhìn linh hoạt, mềm dẻo nhưng vẫn đúng đắn, từ đó quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Trước tiên, để tìm ra phương pháp điều hành, giao tiếp thích hợp, người quản lý cần phải xuất phát từ con người cụ thể trong hoàn
cảnh cụ thể để giao nhiệm vụ cụ thể.
Với lực lượng nhân sự đông đảo trong doanh nghiệp, người quản lý phải làm sao lựa chọn, giao việc cho từng người cụ thể như thế
nào để phát huy cao độ năng lực của từng người, đạt hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Như phần trên đã đề cập, để tuân thủ nguyên tắc
khách quan, nhà quản lý tất yếu phải giao nhiệm vụ cho từng người phù hợp với năng lực khách quan của họ, không thể áp đặt.
Tuy nhiên mỗi con người lại có thể tiềm tàng nhiều năng lực khác nhau, do vậy cũng nên linh hoạt trong việc sử dụng nhân sự,
nhất là trong bối cảnh cạnh tranh mang tính toàn cầu như hiện nay. Một nhân viên có nhiều năng lực thường được ưu tiên trong
tuyển chọn. Có thể một nhân viên đa tài khi vừa được tuyển vào doanh nghiệp được phân công làm ở phòng kế toán và đáp ứng rất
tốt yêu cầu, mang lợi ích cho doanh nghiệp. Nhưng một lúc nào đó, phòng quản lý nhân sự lại cần một nhân lực có tài lập kế hoạch
như nhân viên ấy thì quyết định sáng suốt của người quản lý lúc này chính là cần vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể.


Quán triệt nguyên tắc này còn thể hiện ở nhiều mặt khác nữa. Để làm tốt công tác quản lý nhân sự, người quản lý còn cần phải
nghiên cứu các môn khoa học như Tâm lý học, Sinh lý học, Xã hội học, v.v. để hiểu được những nhu cầu tâm lý, sinh lý của con
người nói chung và cá tính của từng người nói riêng.
Như vậy, người quản lý cần xuất phát từ con người cụ thể với tâm lý, sinh lý, cá tính, năng lực cụ thể, để giao việc cho phù hợp,
đạt được hiệu quả công việc như mong muốn.
Tóm lại, để khai thác và sự dụng tối ưu nguồn nhân lực, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, các nhà quản lý không
thể không vận dụng một cách đúng đắn các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật cung
cấp cho người quản lý một tư duy khách quan, khoa học và linh hoạt trong hoạt động - đó là công tác quản lý mà đối tượng của quản
lý là người lao động. Bởi vậy, ngoài kiến thức chuyên môn và kỹ năng làm việc thì việc học tập, trau dồi và quán triệt học thuyết biện
chứng mà đặc biệt là học thuyết biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhiệm vụ tất yếu của mỗi nhà quản lý nếu muốn
thành công trong lĩnh vực hoạt động của mình.

2. Anh ( chị) hiểu như thế nào về nguyên tắc: xuất phát từ điều kiện thực tế khách quan và phát huy nhân tố chủ
quan? Hãy vận dụng nguyên tắc phương pháp luận này vào hoạt động thực tiễn nghề nghiệp của bản thân.




×