Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của sinh viên Học viện Ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.27 KB, 104 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------

VŨ THỊ MINH HẰNG

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHỞI SỰ
KINH DOANH CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------

VŨ THỊ MINH HẰNG

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHỞI SỰ
KINH DOANH CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 8340101

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS BÙI VĂN HUYỀN

HÀ NỘI, 2018


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH ĐỐI
VỚI SINH VIÊN ......................................................................................... 13
1.1. Tổng quan về khởi sự kinh doanh .......................................................... 13
1.2. Cơ sở lý luận và các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của
sinh viên ....................................................................................................... 23
Chương 226: THỰC TRẠNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG26 TỚI
KHỞI SỰ KINH DOANH CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN
HÀNG ........................................................................................................... 26
2.1. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu ......................................................... 26
2.2. Dữ liệu kiểm định................................................................................... 34
2.3. Phân tích hồi quy .................................................................................... 41
2.4. Thảo luận kết quả kiểm định .................................................................. 49
Chương 354: KIẾN NGHỊ.......................................................................... 54
3.1. Đối với Học viện Ngân hàng ................................................................. 54
3.2. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ/Ngành liên quan ........................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 67


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt


Ý nghĩa

AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

APEC

Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

EFA

Phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis)

EVFTA

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU

EU

Liên minh châu Âu

GEM

Global Entrepreneurhip Monitor


KSKD

Khởi sự kinh doanh

KNB

Vị trí xã hội của chủ doanh nghiệp

HMDN

Hình mẫu chủ doanh nghiệp

NGK

Ngoại khóa

SEE

Lý thuyết sự kiện khởi sự

SON

Tác động của xã hội

SPSS

Phần mềm Statistic Packages for Social Sciences

TUT


Tự tin Khởi sự kinh doanh


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số

Tên bảng

Trang

2.1

Thang đo về KSKD

31

2.2

Thang đo ý kiến người xung quanh

32

2.3

Thang đo vị trí xã hội của chủ doanh nghiệp

33

2.4


Thang đo kinh nghiệm KSKD

33

2.5

Thang đo tham gia hoạt động ngoại khóa

34

2.6

Thông tin về đối tượng điều tra

37

2.7

Kết quả tính toán độ tinh cậy thang đo

39

2.8

Kết quả phân tích nhân tố khám phá

41

2.9


Tóm tắt kết quả hồi quy phương pháp Enter/Remove

43


DANH MỤC HÌNH
Số

Tên hình

Trang

1.1

Phát triển kinh doanh tại Việt Nam

21

1.2

Khởi sự kinh doanh ở Việt Nam so với các nước trên thế giới

22

1.3

Khởi sự kinh doanh ở Việt Nam theo độ tuổi

22



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Khởi sự kinh doanh đang là vấn đề thời sự được toàn xã hội quan tâm, tạo
thành một làn sóng mới trong giới trẻ, đặc biệt trong sinh viên với nhiều ý tưởng,
đam mê và khát vọng, cùng khả năng tiếp thu thích ứng và đổi mới sáng tạo.
Những cụm từ như “Thung lũng Silicon” hay “thành phố Bangalore (Ấn Độ) đã
trở nên hết sức quen thuộc đối với những bạn trẻ quan tâm đến khởi nghiệp.
Chúng ta cũng thường nhắc tới Mỹ, Israel hay Singapore như những quốc gia
khởi nghiệp, những điểm sáng nơi những ý tưởng khởi nghiệp được hiện thực
hóa và là điểm đến yêu thích của các nhà đầu tư. Khởi sự kinh doanh không còn
là một khái niệm xa lạ. Sự khuyến khích sáng tạo trong cộng đồng những người
trẻ, sự năng động của một thế hệ sinh viên mới, sự lưu thông dễ dàng của nguồn
vốn trong thời đại toàn câu hóa, sự tiếp sức và hỗ trợ của công nghệ thông tin và
truyền thông, tất cả dần hình thành một cộng đồng khởi nghiệp hội tụ nhiều yếu
tố để dấn thân, chấp nhận thử thách và vươn tới thành công.
Không nằm ngoài xu hướng vận động của thế giới, tại Việt Nam, chính
sách dành cho khởi nghiệp, trong đó có khởi sự kinh doanh trong sinh viên ngày
càng được tạo điều kiện và nhận được sự quan tâm lớn. Năm 2016 đã được
Chính phủ Việt Nam chọn là “Năm quốc gia khởi nghiệp”. Cùng với đó là những
cam kết mạnh mẽ và trách nhiệm rõ ràng của Chính phủ trong Đề án “Hỗ trợ hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Năm 2016
chứng kiến sự bùng nổ về những dự án khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh, đặc biệt
trong giới trẻ - là các bạn sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng, học viện,
được tạo thuận lợi bởi làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam và tiến trình hội nhập
quốc tế của đất nước, đặc biệt là hội nhập về kinh tế trên cả phương diện song
phương và đa phương, những tác động tích cực, từ cộng đồng kinh tế ASEAN

1



(AEC), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và sự kiện năm
APEC Việt Nam 2017.
Ở Việt Nam, vai trò của đội ngũ doanh nhân và doanh nghiệp ngày càng
được Đảng và Nhà nước đề cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 11 đã khẳng
định: “Doanh nhân - Doanh nghiệp là lực lượng chủ lực xung kích trong sự
nghiệp phát triển kinh tế”. Việt Nam đã có được thành công bước đầu với khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo và đang có thế hệ khởi nghiệp sáng tạo thứ ba trẻ trung
và sôi nổi hơn. Ngoài lợi thế về sự bùng nổ công nghệ, thị trường mở rộng, tư
duy quản lý thông thoáng hơn, thế hệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo này còn có
lợi thế về thị trường khi Việt Nam mở cửa rộng hơn với thế giới qua hàng loạt
thỏa thuận tự do thương mại. Cơ hội này giúp Thủ đô Hà Nội nói riêng và Việt
Nam nói chung trở thành điểm sáng về phong trào khởi nghiệp trong công nghệ
tại châu Á.
Năm 2016 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong việc định hướng, xây
dựng Hà Nội trở thành một thủ đô khởi nghiệp. Hàng loạt các cuộc thi về sáng
tạo khởi nghiệp, các chuỗi hoạt động liên kết giữa các trường đại học của Hà Nội
kết hợp với các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, các hội thảo, diễn đàn giúp
khơi gợi, thúc đẩy các ý tưởng khởi sự kinh doanh, phát triển, bồi dưỡng các kỹ
năng, trau dồi các kiến thức cần thiết, giúp các bạn trẻ nói chung và sinh viên nói
riêng có hành trang vững chắc, tự tin thực hiện các ý tưởng khởi sự kinh doanh
của mình.
Chúng ta cần nhận thức được khởi sự kinh doanh từ khi trong trường đại
học là thời điểm thuận lợi nhất và ít sức ép nhất cho các bạn. Đây là thời điểm ít
có cái để mất nhất trong cuộc đời, cũng là thời điểm nhiều nhiệt huyết và nhiều
thời gian nhất. Chính vì vậy, khởi nghiệp ngay từ trường đại học cho sinh viên
cái nhìn xã hội văn minh và tích cực hơn, tích lũ được nhiều kinh nghiệm và kiến

2



thức hơn. Một sinh viên khởi nghiệp từ trong trường đại học không nhất thiết sẽ
là một chủ doanh nghiệp sau này, tuy nhiên, dù làm gì thì những kiến thức công
nghệ thông tin và xã hội các bạn học được cũng nhiều hơn, giúp các bạn trở nên
tôt hơn trong công việc tương lai.
Tuy nhiên, đối với sinh viên muốn khởi sự kinh doanh, hiện tại vẫn còn có
nhiều tư tưởng chưa được tích cực lắm. Rất nhiều sinh viên khởi nghiệp vì muốn
“kiếm tiền”, làm giàu. Ở tuổi đời còn trẻ, ít kiến thức, khi khát khao là tiền thì
thường khó tạo cho mình bệ phóng để phát triển lâu bền. Rất dễ bị nhầm lẫm
giữa “khởi nghiệp” và “buôn”, không tạo ra nhiều giá trị cho xã hội mà chỉ
chuyển các giá trị có sẵn từ nơi này sang nơi khác.
Ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh cho khởi nghiệp cần được chú trọng hơn.
Đây là một trong những điểm yếu nhất của khởi nghiệp Việt. Đây cũng là lý do
hầu như 100% các công ty khởi nghiệp thành công ở Việt Nam đều dính yếu tố
nước ngoài (du học sinh nước ngoài về, Việt Kiều, Người nước ngoài, làm cho
công ty nước ngoài ra làm riêng,…)
Bên cạnh đó, để việc khởi sự kinh doanh của mình có thể cạnh tranh với
các công ty lớn mạnh trong thị trường và tìm được chỗ đứng cho mình, những
người sáng lập luôn luôn cần phải làm việc cực nhiều, cực vất vả. Sức khoẻ là
vấn đề liên quan trực tiếp đến thành bại nhiều hơn các em sinh viên nghĩ. Chính
vì vậy, rèn luyện để có một sức khoẻ tốt từ trong môi trường đại học là một trong
những điều sinh viên cần phải làm.
Một trong các vấn đề lớn của các trường đại học hiện nay là không gian
chia sẻ kiến thức, sân chơi giúp sinh viên được thực hiện hóa những ý tưởng của
mình. Sinh viên luôn luôn tìm kiếm môi trường để được tiếp xúc với những
doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực hoặc những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo với những thành công bước đầu, giúp phần định hình và có lựa chọn đúng
đắn cho nhưng bước đi đầu tiên vào hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.


3


Cũng chung tình trạng đó, sinh viên Học viện Ngân hàng – vốn được đánh
giá là một trong những trường dẫn đầu về khối kinh tế và quản trị kinh doanh sau khi ra trường thích nghi rất tốt đối với các công việc trong Ngân hàng như
quản trị rủi ro, quan hệ khách hàng (Tô Kim Ngọc, 2016), song lại rất ngại khởi
nghiệp, vì một số lý do như thiếu vốn, thiếu kỹ năng quản lý, thiếu thị trường…
[7]. Nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng chính phủ kiến tạo, đồng thời tăng cường
khả năng kinh doanh của người dân Việt Nam nói chung và sinh viên Học viện
Ngân hàng nói riêng thì ngoài những chính sách hỗ trợ chung của nhà nước, điều
cần thiết là phải tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng khởi sự của bản
thân những người đang ngồi trên ghế nhà trường. Điều này, ngoài giúp ích cho
việc phát triển những kỹ năng của một thế hệ tương lai, còn góp phần giúp nhà
trường thay đổi chiến lược đào tạo để góp phần thích ứng với những nhu cầu của
xã hội. Do đó, đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của
sinh viên Học viện Ngân hàng” đã được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới tiềm
năng KSKD của sinh viên đại học qua 2 khía cạnh mong muốn KSKD và tự tin
KSKD trên các góc độ và quan điểm và phạm vi khác nhau. Các nhân tố tác
động đến KSKD có nhiều, và cũng theo rất nhiều quan điểm khác nhau như
ngành nghề được đào tạo, tuổi tác, giới tính, tôn giáo, tình trạng của cha mẹ…
Về cơ bản thì có một số các yếu tố sau:
Các yếu tố môi trường: Lý thuyết đầu tiên được đề cập đến trong các
nghiên cứu về KSKD là lý thuyết bối cảnh (Hoàng Thị Phương Thảo và cộng sự,
2013; Gnyawani etal, 1994…) [9]; [23]. Nội dung của lý thuyết này cho rằng,
bối cảnh của môi trường xung quanh có tác động lớn đến ý định khởi sự của các
cá nhân, từ đó có tác động đến ý muốn và khả năng sẽ tiến hành KSKD. Môi
trường hoạt động của cá nhân có thể được chia thành 2 nhóm. Nhóm các yếu tố


4


môi trường hoàn cảnh (lý trí) gồm: các yếu tố thực tế diễn ra trên thị trường như
định hướng của chính phủ, khả năng thực tế và tiềm lực kinh tế của người có ý
định khởi nghiệp, ý tưởng về các nhóm ngành sẽ hifnht hành trong tương lai và
những nhân tố khác. Nhóm thứ hai có thể hình thành là yếu tố môi trường cảm xúc
bao gồm hình mẫu chủ doanh nghiệp, ý kiến người xung quanh và vị trí xã hội của
chủ doanh nghiệp (Elfving, 2009) [22]. Lý thuyết này được phát triển bởi lý
thuyết hành vi hợp lý – nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến các cá nhân
trên thị trường; và lý thuyết hành vi phù hợp – được sử dụng với các hành vi liên
quan đến ngành công nghệ. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2003) còn cho rằng, đối với
các quốc gia có ảnh hưởng bởi Nho giáo và Phật giáo như các nước Đông Á thì ý
tưởng khởi nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi các quan điểm phương Đông và tư
tưởng phương Tây [29]. Đây là điểm bổ sung rất tốt cho lý thuyết bối cảnh.
Các yếu tố về đặc điểm cá nhân: Mặc dù được khuyến khích và tạo lập bởi
nhiều nhóm người, song về cơ bản, các đặc điểm của cá nhân như tuổi, công việc
hiện tại, ngành học, tôn giáo, định hướng của người xung quanh sẽ ảnh hưởng
đến KSKD (Lowell, 2003; Susa, 2008) [27], [31]. Lý thuyết này được bổ sung
khá nhiều và khá tốt bởi lý thuyết người đại diện: Cá nhân có tiếng nói trong
nhóm sẽ có ảnh hưởng quyết định đến khởi nghiệp của các cá nhân khác.
Các yếu tố trải nghiệm cá nhân: các trường đại học có đào tạo chương trình
về kinh tế thường được nghiên cứu về các yếu tố trải nghiệm cá nhân đối với
khởi nghiệp (Lüthje and Franke, 2004; Phan Anh Tú và cộng sự, 2015) [28],
[13]. Những nghiên cứu trước đồng thời cho rằng: trải nghiệm trong thực tế cuộc
sống như kinh nghiệm KSKD và kinh nghiệm kinh doanh, vốn xã hội, vốn con
người, kinh nghiệm lãnh đạo có ảnh hưởng đến ý định KSKD của các sinh viên.
Thậm chí, mở rộng hơn, các chương trình thực tế về khởi nghiệp có tác động đến
khả năng của sinh viên sau khi ra trường.


5


Ở Việt Nam cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra động cơ khởi sự của thanh niên
như:
Tác giả Phan Anh Tú (2015), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định
khởi sự doanh nghiệp: Trường hợp sinh viên khoa kinh tế và quản trị kinh doanh
Trường đại học Cần Thơ, Tạp chí Khoa học trường đại học Cần Thơ. Nghiên
cứu này chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh
viên khoa kinh tế và quản trị kinh doanh trương đại học Cần Thơ. Trong đó có
đề cập đến các nhân tố như: giới tính, thái độ, nhân thức về khởi sự kinh doanh,
nguồn vốn, nền tảng giáo dục trong trường đại học và nhu cầu thành đạt của sinh
viên. [13]. Bài viết này, tác giả cho rằng khởi sự doanh nghiệp là khởi sự kinh
doanh.
Nhóm tác giả Ngô Thị Thanh Tiên và Cao Quốc Việt (2016), Tổng quan lý
thuyết về ý định khởi nghiệp của sinh viên. Nghiên cứu này cũng đưa ra các nhân
tố như giới tính, tính cách, tư duy, thái độ của sinh viên, môi trường kinh doanh,
chương trình giáo dục… tuy nhiên nghiên cứu này chỉ tập trung vào xây dựng
khung lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh mà không đi vào
các nghiên cứu thực tiễn ở một không gian cụ thể. [10]
Nguyễn Ngọc Huyền (2012), Khởi sự kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế quốc dân. Đây được coi như một giáo trình cơ bản dành cho sinh viên
học về khởi sự kinh doanh. Tác giả đã đưa ra những đinh nghĩa cơ bản liên quan
đến khởi sự kinh doanh và các tố chất cần có cho người khởi sự kinh doanh. [5]
Nghiên cứu của Ngô Thắng Lợi (2017), tập trung nghiên cứu đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng tự tạo việc làm cho thanh
niên nói chung. Tuy nhiên, tác giả không nghiên cứu cụ thể về khởi sự kinh
doanh và các giải pháp phát triển hoạt động này ở thanh niên trong bối cảnh hiện
nay. [6]


6


Nghiên cứu của Nguyễn Thu Thủy (2015) về tiềm năng khởi sự kinh doanh của
sinh viên đại học trên địa bàn Hà Nội. Tác giải có đưa ra các nhân tố như kinh
nghiệm thương mại, kinh nghiệm lãnh đạo, đào tạo đại học, truyền cảm hứng khởi
sự… [11]
Nhìn chung nghiên cứu về khởi sự kinh doanh luôn là một đề tài có nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm. Trong khởi sự kinh doanh thì nghiên
cứu về các nhân tố ảnh hưởng hay yếu tố tác động đến các hoạt động khởi sự của
sinh viên luôn là một nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn và cần thiết. Nó giúp những
người khởi sự kinh doanh nhận diện được các yếu tố cản trở trong quá trình khởi sự
của mình đồng thời giúp nhà trường và xã hội lên những phương án hỗ trợ sinh viên
trong quá trình khởi sự của bản thân.
Các nghiên cứu trên tuy đã đạt được nhiều thành tựu, song vẫn để lại một
số hạn chế lớn như đa phần đều chỉ nghiên cứu định tính, không tập trung vào
các yếu tố định lượng như sử dụng phương pháp hồi quy để tiến hành. Thêm vào
đó, các nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa một hoặc một vài
yếu tố tới tiềm năng KSKD, chưa có nghiên cứu nào kết hợp xem xét tác
động của các trải nghiệm cá nhân bao gồm kinh nghiệm tiếp thu qua các hoạt
động đào tạo trong trường đại học, kinh nghiệm từ hoạt động của chính cá
nhân, môi trường cảm xúc tới tiềm năng KSKD của sinh viên. Điều đáng
quan tâm là các yếu tố được đề cập ở các nghiên cứu trên rõ ràng có tác
động đến KSKD của không chỉ sinh viên đại học, song lại chưa có công bố
quốc tế nào liên quan đến việc sẽ sử dụng tất cả các biến đó (Và phát triển
thêm các biến khác) vào một mô hình. Do vậy, đây là khoảng trống nghiên
cứu còn lại rất lớn cho bản thân tác giả trong nghiên cứu về Học viện Ngân
hàng, và những người làm nghiên cứu tiếp theo. Thêm vào đó, với đa phần các
nghiên cứu trước đây, nếu là nghiên cứu ngoài nước thì chỉ tập trung tại các
trường đại học tổng hợp (vì một lý do đơn giản là các trường đại học nước ngoài

không tập trung vào 1 ngành nào cả, ví dụ như khối kinh tế, khối công nghệ
7


thông tin, thậm chí khối Lao động xã hội như Việt Nam) – không có một trường
chuyên biệt nào như đặc trưng của Việt Nam nên không chỉ ra được các nhân
tố cụ thể tác động đến KSKD. Đối với các nghiên cứu trong nước, cũng đa
phần tập trung vào một số ngành như công nghệ thông tin (Phan Anh Tú,
2015; Nguyễn Thị Thanh Tiên, 2016), đồng thời các nghiên cứu này không
đưa ra được tổng quan nghiên cứu cụ thể cũng như các mô hình được sử
dụng trong bài áp dụng trên cơ sở lý thuyết gốc nào [10], [13]. Do đó, có thể
nói, tại Việt Nam, chưa có một nghiên cứu nào chuyên sâu về KSDN đối với
sinh viên nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng nói riêng. Chính vì thế, đề
tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của sinh viên Học viện
Ngân hàng” là một đề tài mới, không trùng lắp với các công trình trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Kiểm định nhân tố ảnh hưởng tới tiềm năng khởi
sự kinh doanh ở sinh viên đại học chính quy trong bối cảnh nền kinh tế chuyển
đổi như ở Việt Nam.
Các nhiệm vụ cụ thể gồm: (1) Tìm hiểu các lý thuyết gốc liên quan đến
KSKD và tiềm năng KSKD – trong đó tập trung vào sinh viên đại học ngành
Kinh tế và Công nghệ thông tin có liên quan đến kinh tế. (2) Kiểm định mô hình
dựa trên các giả thuyết đã có trước về KSKD dựa trên những trải nghiệm của cá
nhân và các nhân tố xung quanh của sinh viên Học viện Ngân hàng (3) đưa ra
một số gợi ý giải pháp cho Học viện Ngân hàng và các cơ quan quản lý vĩ mô
trong việc thúc đẩy tiềm năng KSKD của sinh viên Học viện Ngân hàng nói
riêng, các trường đại học tương tự như Kinh tế Quốc dân, Ngoại Thương, Tài
chính… nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố tác động tới tiềm năng khởi sự kinh

doanh của sinh viên Học viện Ngân hàng.
8


- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung:
Trong luận văn của tác giả, do đặc trưng riêng biệt của trường đào tạo về khối
kinh tế, nên tác giả tập trung nhiều vào các yếu tố trải nghiệm cá nhân như có tham
gia khởi nghiệp trong quá trình học không, có được học các môn liên quan đến
KSKD không; và các yếu tố thuộc về môi trường bên ngoài như vai trò và vị trí của
doanh nhân trong xã hội, ý kiến về vị trí của doanh nhân thông qua truyền thông của
nhà trường và của nhà nước. Các nhân tố khác như tình hình tài chính gia đình, hay
tôn giáo… sẽ không nghiên cứu để đảm bảo được tính khách quan của đề tài. Thêm
vào đó, tác giả cũng sẽ hiểu KSKD dựa trên tinh thần doanh nhân là kết hợp các yếu
tố nội tại và bên ngoài để tạo ra một công việc mới, không hiểu theo các ý nghĩa như
phát triển trên nền tảng sẵn có hoặc chấp nhận phát triển trở thành một bộ phận của
doanh nghiệp.
+ Khách thể nghiên cứu: Tác giả lựa chọn sinh viên bắt đầu học từ năm thứ 3
đến trước khi ra trường, vì (1) đây là đối tượng đang chuẩn bị các công tác liên quan
đến tìm kiếm việc làm (2) Học viện Ngân hàng (cũng như các trường đại học lớn
về Kinh tế ở Việt Nam) đang đào tạo theo hình thức tín chỉ, và đa phần các sinh
viên có học lực tốt đều tốt nghiệp trong khoảng 3,5 – 4 năm. Tác giả cũng không
nghiên cứu sinh viên văn bằng 2 – do đa phần các sinh viên này đã có việc làm, sinh
viên liên thông hay vừa làm vừa học (do hiện tại, các đối tượng này khá ít, và khá
khó tiếp cận).
+ Không gian nghiên cứu: Sinh viên tại Học viện Ngân hàng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Duy vật biện chứng theo quan điểm của chủ nghĩa
Marx – Lenin. Đây là phương pháp làm nền tảng cho nghiên cứu, và cũng phù
hợp với mục tiêu đào tạo sinh viên của chính phủ Việt Nam đương thời.


9


Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: tác giả tổng hợp các nghiên cứu đã có trong nước
và trên thế giới về lĩnh vực đề tài, tổng hợp những dữ liệu đã có trong quá trình
tìm hiểu về KSKD của sinh viên nói chung và sinh viên khối ngành kinh tế và
đào tạo có liên quan đến kinh tế nói riêng, thu thập thông tin thông qua sách báo,
tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở
cho lý luận của đề tài luận văn, hình thành giả thuyết khoa học, dự đoán về
những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mô hình lý thuyết
hay thực nghiệm ban đầu. Từ đó có cơ sở thực hiện phương pháp định lượng
kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến KSKD của sinh viên Học viện Ngân hàng.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kiểm định mô hình
và các giả thuyết nghiên cứu. Để thực hiện được phương pháp này, tác giả sẽ tiến
hành phương pháp nghiên cứu định tính trước. Phương pháp nghiên cứu định
tính được thực hiện qua phỏng vấn sâu qua các sinh viên năm cuối có tham gia
khởi nghiệp (phỏng vấn riêng rẽ), và nhóm sinh viên đã từng có ý tưởng khởi
nghiệp (phỏng vấn sâu) – được thực hiện dựa trên sự giúp đỡ của Hội sinh viên
Học viện Ngân hàng. Nghiên cứu này nhằm sẽ xác định xem những biến nào có
thể sử dụng dựa trên tổng quan nghiên cứu và nhân tố nào sẽ bị loại ra khỏi mô
hình. Sau đó, tác giả lựa chọn các biến và tiếp đó, đưa vào mô hình để chạy. Các
phương pháp định lượng được sử dụng ở đây là nhân tố khám phá để nhóm các
biến lại với nhau, bên cạnh việc sử dụng các dữ liệu liên quan đến tự tương quan
và đa cộng tuyến.
+ Để có được dữ liệu, tác giả sẽ tiến hành thực hiện qua khảo sát. Đa phần các
khảo sát này sẽ được tiến hành online để tiếp cận với số lượng sinh viên rộng rãi
hơn, phù hợp với xu hướng công nghệ 4.0 hiện tại và các câu hỏi cũng tương đối
nhỏ gọn.

Phần mềm sử dụng: SPSS

10


Khung nghiên cứu
Để thực hiện được nghiên cứu, tác giả tiến hành theo khung sau
Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu thăm dò xác định các yếu tố tác động

Xây dựng mô hình, giải thiết và biến nghiên cứu chính thức

Xác định mẫu nghiên cứu

Xây dựng thang đo và thiết kế bảng câu hỏi

Triển khai thu thập dữ liệu

Phân tích và xử lý dữ liệu bằng các công cụ thống kê
Kết luận về các vấn đề nghiên cứu

(Nguồn: Đề xuất của tác giả)
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Tác giả tổng hợp 2 nhóm nhân tố là trải nghiệm của cá nhân đối với cuộc
sống (đã được tích lũy từ trước) và trải nghiệm các môn học trong đào tạo đại
học. Đây là các nhóm nhân tố chưa được nghiên cứu trước đây mà tác giả được
biết.


11


Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cho thấy rằng, các môn học mà Học viện Ngân hàng đang giảng
dạy, trong đó có các môn liên quan đến KSKD hay quản trị kinh doanh có tác
động đến ý muốn KSKD của sinh viên, và từ đây củng cố thêm quan điểm rằng,
đào tạo một số môn liên quan đến quản trị kinh doanh sẽ có tác động tích cực
đến KSKD, nhằm giúp các nhà nghiên cứu trên thế giới bớt những tranh cãi trái
chiều về vai trò của đào tạo đại học với tiềm năng khởi sự kinh doanh. Các hoạt
động khác như định hướng của nhà trường, vai trò – vị trí của chủ doanh nghiệp,
tác động của người xung quanh đa phần đều ủng hộ quan điểm của các nhà
nghiên cứu đi trước.
Kết quả nghiên cứu của tác giả cũng gợi ý cho các cơ quan quản lý vĩ mô
và Học viện Ngân hàng (và một số trường tương tự như Đại học Ngân hàng
Thành phố Hồ Chí Minh) một số đề xuất để tạo điều kiện cho sinh viên nuôi
dưỡng thúc đẩy tinh thần doanh nhân, gia tăng tiềm năng KSKD của sinh viên
Học viện Ngân hàng nói riêng và sinh viên đại học khối kinh tế hoặc có liên
quan đến kinh tế ở Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Khởi sự kinh doanh đối với sinh viên
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của sinh viên
Học viện Ngân hàng
Chương 3: Một số thảo luận và kiến nghị từ kết quả nghiên cứu

12



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH ĐỐI VỚI SINH VIÊN
1.1.

Tổng quan về khởi sự kinh doanh

1.1.1. Các khái niệm về khởi sự kinh doanh
Khởi sự kinh doanh
Hoàng Phê (2005, trang 1024) cho rằng: “Khởi sự là bắt đầu một cái gì mới”
[8]. Từ đây, có thể hiểu Khởi sự kinh doanh (KSKD) là việc bắt đầu tạo lập một
công việc kinh doanh mới, dựa trên những nền tảng mới hoặc nền tảng đã có, song
không còn phù hợp nữa. Nghiên cứu về KSKD chia ra làm hai ngành rõ rệt, đó là
ngành quản trị nhân lực (hoặc kinh tế lao động tại 1 số trường phái) và quản trị
kinh doanh.
- Đối với quan điểm về quản trị nhân lực, thì KSKD chỉ đơn giản là việc
một cá nhân sẽ phải lựa chọn cách mà mình sẽ tiếp cận công việc: hoặc trở thành
một thành phần của doanh nghiệp, tổ chức nào đó (quan điểm này có thể dùng
với từ “đi làm thuê”) hoặc tự đứng ra kinh doanh riêng biệt mà không phụ thuộc
vào đơn vị nào (quan điểm này có thể dùng với từ “tự làm chủ”) (theo Nguyễn
Quang Dong, 2013) [1]. Cách hiểu này tuy không sai, song chỉ nhìn trên một góc
độ rất rộng rằng, mỗi cá nhân sẽ tự tìm cho mình một công việc nhằm đảm bảo
cuộc sống. Đây là quan điểm phổ biến tại các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung trước đây, và thậm chí còn dai dẳng đến khi các nước này trở thành các
nước có nền kinh tế chuyển đổi. Thời điểm hiện tại, các tác giả trong lĩnh vực
quản trị nhân lực ít khi chấp nhận quan điểm rộng như thế, mà chỉ bó hẹp trong
quan điểm tự làm chủ (Trần Thọ Đạt, 2017) [3].
Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, KSKD cũng có cách hiểu khác nhau,
và đều gắn với thuật ngữ “tinh thần doanh nhân”. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp nhất
thì KSKD là việc cá nhân tự sử dụng những nguồn lực khác nhau để có thể tự
13



nuôi sống được chính mình, bao gồm cả nhân lực, vật lực và tài lực. Nếu theo
nghĩa rộng nhất thì KSKD dựa trên tinh thần doanh nhân là việc các cá nhân –
bằng thái độ tích cực của mình – có tác động đến môi trường kinh doanh để tiến
hành các hoạt động tự đổi mới, tự phát triển. Các hoạt động KSKD tiến tới tinh
thần làm chủ, dựa trên tìm ra ngành nghề mới, hoặc phát triển dựa trên lĩnh vực
mới, hoặc dựa trên những nền tảng sẵn có mà phát triển. Ngày nay, quan điểm về
quản trị chiến lược đều tập trung vào hướng thứ hai để phát triển các hoạt động
của chính mình. Tuy nhiên, quan điểm này quá rộng, và thường tập trung vào
các chiến lược phát triển một ngành, một lĩnh vực nào đó. Do đó, KSKD trong
luận văn sẽ được hiểu theo nghĩa hẹp của từ tinh thần doanh nhân, tức là KSKD là
việc một cá nhân sẽ sử dụng các nguồn lực của thị trường và của chính bản thân
mình để phát triển một hoạt động mới.
Người khởi sự kinh doanh
Người KSKD có nhiều cách định nghĩa. Theo quan điểm rộng nhất thì
người KSKD là người sử dụng những nguồn lực của thị trường để phát triển một
công việc mới, không dựa vào các nguồn lực sẵn có. Bird (1988) định nghĩa
người KSKD là người bắt đầu (hoặc tạo dựng) một công việc kinh doanh mới
[20]. Kim et al (1993) cho rằng người KSKD là người sẽ phát triển hoạt động
kinh doanh mới dựa trên các loại rủi ro trên thị trường [26]. Tuy nhiên, quan
điểm này rất khó chấp nhận, vì hoạt động nào cũng hàm chứa rủi ro. Nguyễn
Quang Dong (2016) cho rằng người KSKD là người tạo dựng doanh nghiệp mới
và phát triển kinh doanh, họ năng động trong các hoạt động kinh tế, quản trị các
thay đổi về công nghệ thông tin và tổ chức trong doanh nghiệp, tạo dựng văn hóa
đổi mới và học tập trong doanh nghiệp. Do hạn chế của luận văn, tác giả cũng
chỉ quan niệm rằng người KSKD là người bắt đầu một công việc kinh doanh mới
trên tinh thần “tự làm chủ” [2].

14



Các loại hình khởi sự kinh doanh
Có nhiều hướng để KSKD, và cũng có nhiều cách khác nhau để phân
loại KSKD. Theo tổng hợp của tác giả thì có những cách phân loại sau:
- Phân loại theo động cơ:
+ KSKD để nắm bắt cơ hội: Baughn (2006) cho rằng KSKD là việc tận
dụng các cơ hội kinh doanh để làm giàu trong điều kiện nguồn lực có hạn bằng
việc khởi xướng các hoạt động sáng tạo. [17]
+ KSKD vì cần thiết: quan điểm này cho rằng, các cá nhân trên thị trường
bị bắt buộc phải tạo ra một công việc kinh doanh mới vì một lý do nào đó.
Thường thì tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi, quan điểm về vai trò trọng
tâm của kinh tế nhà nước nhạt dần đi, và quá trình cổ phần hóa hoặc thoái vốn
nhà nước – cùng với cơ chế quản lý kém đã làm cho một lượng lớn cá nhân trong
nền kinh tế bị mất việc làm. Không có việc, đồng nghĩa với không có thu nhập,
trong khi vẫn phải chi tiêu các khoản khác, làm cho cá nhân buộc phải KSKD để
tìm kiếm các cơ hội tạo ra tiền trên thị trường. Người KSKD trong trường hợp
này rơi vào thế bị động, trong khi những người KSKD theo quan điểm chủ động
lại phát hiện cơ hội thường phát triển hoạt động kinh doanh mới đưa ra thị
trường những sản phẩm và dịch vụ mới, tạo ra giá trị mới và mang giá trị đó đến
đông đảo người tiêu dùng bằng cách sáng tạo và tận dụng những nguồn lực sẵn
có (Chen et al., 1998) [21].
- Phân loại theo số lượng người tham gia khởi sự kinh doanh:
+ Khởi sự kinh doanh bằng cách bản thân độc lập tự tạo dựng, thực hiện kinh
doanh.
+ Khởi sự kinh doanh bằng cách hình thành một nhóm người cùng mục
tiêu, ý tưởng, cùng nhau tạo dựng, thực hiện kinh doanh.
- Phân loại theo mục đích khởi sự kinh doanh:
+ Khởi sự kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận
+ Khởi sự kinh doanh vì mục tiêu phi lợi nhuận


15


Như vậy, dù phân loại theo tiêu chí nào thì khởi sự kinh doanh đều là công
việc phù hợp với những cá nhân ưa mạo hiểm, thử thách và luôn tìm kiếm sự
sáng tạo. Những đặc điểm này rất phù hợp với đối tượng là sinh viên đại học –
những người đang trong giai đoạn suy nghĩ, tìm kiếm và lựa chọn nghề nghiệp
cho tương lai, đang có nhu cầu muốn nắm bắt, tận dụng các cơ hội nghề nghiệp
và tạo dựng sự nghiệp cho bản thân. Đối với các trường đại học về kinh tế thì
sinh viên có nguyện vọng rất lớn trong việc muốn tạo ra một tổ chức kinh doanh
mới, kiếm được lợi nhuận cao bằng việc tận dụng thị trường hiện có. Qua những
đặc điểm này, càng cho thấy việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu là sinh viên
Học viện Ngân hàng là hoàn toàn phù hợp.
Vai trò của Khởi sự kinh doanh
Quan điểm của KSKD tại Việt Nam mới chỉ phát triển mạnh trong gần 10
năm trở lại đây. Trong giai đoạn bao cấp (trước năm 1986), các quan điểm về
kinh doanh bị phê phán nặng nề, là “tư hữu tiểu tư sản”, là “bóc lột giai cấp”, là
“đi ngược lại với lợi ích của nhân dân lao động” (trích dẫn lại của Đặng Phong,
2013 trong Phạm Văn Hùng, 2015) [4]. Thời điểm này, gần như chỉ những cá
nhân “liều lĩnh” mới dám KSKD và phát triển các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Sau khi đổi mới, một vài doanh nghiệp đã dần có tiếng trên thị trường,
song, trong nền kinh tế chuyển đổi, quan điểm “làm việc tại các cơ quan nhà
nước mới tốt, mới đáng được trọng vọng” đã vô cùng ăn sâu vào một thế hệ
người Việt. Sau khi có những nghiên cứu và thành công trên thế giới, mà điển
hình tại Singapore, thì vai trò của KSKD mới được chú ý. Trong giai đoạn đầu,
KSKD toàn bộ tập trung vào quan điểm “trở thành bộ phận của doanh nghiệp”,
vì cho rằng các doanh nghiệp lớn mới có khả năng chiếm giữ thị trường. Về sau,
khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, và chiếm giữ một thị trường lớn –
chủ yếu trong mảng sản xuất và phân phối nhỏ - thì quan điểm này dần thay đổi,

và các nhà nghiên cứu chú ý dần đến nguồn lực để KSKD, trong đó có vốn
KSKD. Vốn KSKD – đặc biệt trong các nền kinh tế như Việt Nam – là khả năng
tạo ra bao nhiêu nguồn để các cá nhân có thể KSKD, dựa trên quan điểm của nhà
nước về vấn đề này. Quan điểm này dựa vào lý thuyết về kinh tế học thể chế để

16


phát triển. Và cũng dựa trên vốn KSKD thì KSKD lại có tác động ngược lại đến
phát triển kinh tế. Theo Carree và Thurik (2003), hoạt động KSKD trong nền
kinh tế tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội, những nơi có tỷ lệ thành lập
doanh nghiệp cao thường có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao [15]. KSKD góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trên 3 phương diện: tăng cường đổi
mới và chuyển giao tri thức, tăng cạnh tranh và tăng cường mức độ đa dạng hóa
trong ngành và trong doanh nghiệp. Tầm quan trọng của khởi sự kinh doanh
trong việc tăng trưởng kinh tế và thay đổi công nghệ luôn được đưa ra để tranh
luận và bàn cãi trong suốt nhiều năm qua, thông qua các nhận định sau:
Thứ nhất, KSKD giúp đẩy nhanh quá trình khai thác các cơ hội kinh doanh
trong nền kinh tế, từ đó giúp phát triển một ngành nào đó. Từ đây, khi một ngành
có cơ hội phát triển thì sẽ đẩy nhanh quá trình phát triển những ngành có liên
quan. Thành lập doanh nghiệp mới là cơ sở cho gia tăng việc khai thác, vận dụng
các tri thức mới một cách hiệu quả hơn. Lý thuyết về phát triển và truyền bá tri
thức mới cho rằng, hoạt động này sẽ giúp các cá nhân trên thị trường tìm kiếm
được các cơ hội khác nhau, từ đó hình thành nên các doanh nghiệp mới – vừa tạo
ra thu nhập của chính chủ sở hữu, vừa tạo ra công ăn việc làm và mạng lưới cung
cấp cho các doanh nghiệp sản xuất. Từ đây, các hoạt động KSKD sẽ có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu lại không
đồng ý với các nghiên cứu này, vì hiện tại, ở các thị trường mới nổi và các thị
trường có nền kinh tế chuyển đổi thì số người KSKD rất lớn, và thất bại tương
đối lớn (trên 80% người KSKD thất bại – theo Trần Thọ Đạt, 2017), và lại trở

thành lực cản cho nền kinh tế [4]. Vì vậy, nghiên cứu KSKD trên góc độ Kinh tế
học Thể chế là một góc độ mới, cần được quan tâm hơn.
Thứ hai, KSKD thường tiến hành với những lĩnh vực mới, và những lĩnh
vực không có quá nhiều rào cản gia nhập thị trường. Đồng thời, việc phát triển
những lĩnh vực mới đó luôn đồng hành cùng với việc không ngừng cải tiến, đi
lên của công nghệ: tăng việc tương tác giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp;
tăng về tốc độ và tần suất sử dụng dịch vụ, hàng hóa của doanh nghiệp; việc
thanh toán và sở hữu dịch vụ, hàng hóa của người tiêu dùng cũng trở nên nhanh

17


chóng, thuận lợi. Quá trình tiêu dùng được thúc đẩy sẽ làm cho sản xuất gia tăng,
giá cả giảm xuống (với các hàng hóa thông thường), làm tăng trưởng kinh tế đi
lên. Trong quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế thì KSKD sẽ góp phần đẩy nhanh
quá trình xâm nhập vào các thị trường mới, từ đó tìm được cơ hội mới đối với
các cá nhân trên thị trường.
Thứ ba, KSKD với quan điểm tạo ra các doanh nghiệp mới, và thậm chí là
các doanh nghiệp đã từng tồn tại trên thị trường sẽ làm tăng năng suất lao động.
Các doanh nghiệp này sẽ tận dụng những cơ hội của thị trường nhằm phát hiện
ra những cơ hội kinh doanh mới hoặc sản xuất mới, từ đó tiết kiệm chi phí, giảm
sự tham gia của nhân công bằng máy móc thiết bị và các vấn đề về ô nhiễm môi
trường. Vấn đề này đặc biệt phù hợp đối với các ngành sản xuất dịch vụ, nhất là
đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi, khi chi phí này phải trả tương đối
cao.
Thứ tư, thành lập nhiều doanh nghiệp mới tạo ra nhiều việc làm. Vấn đề
hiển nhiên là khi tiến hành thành lập doanh nghiệp, các cá nhân thường sẽ tiến
hành liên kết với nhau để cùng vận hành, hoặc phải thuê người để triển khai dần
các công việc có thể phát sinh. Khi quá trình vận hành trở nên phù hợp với nhu
cầu phát triển, thì các vị trí trong doanh nghiệp nhất thiết phải cần thêm người.

Do đó, một lượng lớn lao động trong xã hội sẽ được giải quyết. Vấn đề này còn
tác động tích cực đến an sinh xã hội thông qua việc giảm lượng trợ cấp xã hội
đến cá nhân không có việc làm. Đặc biệt, tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi
thì việc hình thành nên một lực lượng lao động không có việc làm sẽ trở thành
vấn nạn đối với an ninh, thì tuyển lực lượng này vào các doanh nghiệp khởi
nghiệp sẽ có tác động tích cực đối với nền kinh tế.
1.1.2. Xu hướng khởi nghiệp trên thế giới và tình hình khởi sự kinh
doanh tại Việt Nam
* Xu hướng khởi nghiệp trên thế giới:
Theo số liệu của Viện nghiên cứu GEDI (The Global Entrepreneurship and
Development Institute), Chỉ số GEI (The Global Entrepreneurship Index) năm
2016 cung cấp một cái nhìn chi tiết về sức khỏe hệ sinh thái khởi sự của các

18


Quốc gia, chỉ số này cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách một công cụ để
hiểu về điểm mạnh và điểm yếu của khởi sự kinh doanh trong nước mình và giúp
cho họ đẩy mạnh khởi sự kinh doanh hướng tới sự phát triển bền vững của nền
kinh tế. Chỉ số GEI đo lường chất lượng và quy mô của quá trình khởi sự kinh
doanh trong 132 quốc gia trên thế giới. Nó cung cấp sự hiểu biết đầy đủ về khởi
sự kinh doanh trong các quốc gia này cũng như cái nhìn chính xác về điểm mạnh
và những nút thắt trong hệ sinh thái khởi sự đó.
Top 10 nước năm 2016 cho thấy một xu hướng tương tự các năm trước, hầu
hết các nước thành viên Châu Âu - có thu nhập cao.
GEI 2016 GEI 2016
GEI
Rank GEI
Rank
Nước

(Giới hạn (Giới hạn
2016
2016
2015
2015
dưới)
trên)
91.4
81.1
86.2
1
85.0
1
Mỹ
85.5
73.4
79.5
2
81.5
2
Canada
87.4
68.6
78.0
3
77.6
3
Úc
85.5
66.3

76.0
4
71.4
6
Đan Mạch
84.6
67.1
75.9
5
71.8
5
Thụy Điển
77.0
62.4
69.7
6
69.1
8
Đài Loan
78.7
59.2
68.9
7
70.4
7
Ai Len
75.7
59.8
67.8
8

68.6
9
Thụy Sĩ
71.8
63.5
67.7
9
72.7
4
Vương Quốc Anh
76.8
56.0
66.4
10
67.3
12
Pháp
(Nguồn: Theo số liệu của Viện nghiên cứu GEDI năm 2016)
Trong 132 quốc gia trên thế giới thì Mỹ, Canada và Úc dẫn đầu trong bảng
xếp hạng. Điều đáng ngạc nhiên lớn là trong năm 2016, Anh rơi xuống vị trí thứ
9, cái xuất phát từ sự suy giảm bốn biến số qua giai đoạn 3 năm: Trình độ giáo
dục (của người khởi sự), các đối thủ cạnh tranh và xuất khẩu. 3 trong 5 nước Bắc
Âu như: Đan Mạch, Ai len, Thụy Điển trong top 10 thì Phần Lan ở vị trí thứ 18.
Đài Loan là nước có vị trí cao nhất trong các quốc gia Châu Á trong bản xếp
hạng - đứng ở vị trí thứ 6, và Singapore ở vị trí thứ 11, ngay sau Pháp. Trong khi
Netherlands giữ vị trí thứ 13, nó vẫn được coi là một trong các quốc gia khởi sự
lớn nhất thế giới. Bên cạnh kết quả đạt được tốt trong khởi sự kinh doanh, những
quốc gia này còn được biết tới là các quốc gia có mức thu nhập cao. Mỹ được

19



×