Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Di chuyển lao động có kỹ năng của việt nam trong cộng đồng ASEAN tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.51 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ MINH ĐỨC

DI CHUYỂN LAO ĐỘNG CÓ KỸ NĂNG
CỦA VIỆT NAM TRONG CỘNG ĐỒNG ASEAN

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2019


Công trình được hoàn thành tại:
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Chiến Thắng
2. PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc

Phản biện 1: GS. TSKH Nguyễn Quang Thái

Phản biện 2: PGS.TS Ngô Quang Minh

Phản biện 3: PGS.TS Hoàng Văn Hải

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Cơ sở tại Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi,
Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi ngày tháng năm 2019



Có thể tìm hiểu Luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hà Thị Minh Đức và Nguyễn Bá Ngọc (2016), “Lợi ích của di chuyển
lao động kỹ năng giữa các nước trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN”, Tạp
chí Phát triển bền vững Vùng, Quyển 6, Số 2.
2. Nguyễn Bá Ngọc, Hà Thị Minh Đức (2016), “Cơ hội, thách thức và hàm
ý chính sách đối với di chuyển lao động kỹ năng theo các Thỏa thuận
công nhận lẫn nhau trong ASEAN”, Tạp chí Khoa học Lao động và Xã
hội, Qúy III.
3. Hà Thị Minh Đức, Nguyễn Bá Ngọc (2016), “How will skill mobility
bring economic benefits to the ASEAN Member Countries and the
region?”, Proceedings of the 5th International Conference o Emerging
Challenges: Partnership Enhancement ICECH2016.
4. Nguyễn Bá Ngọc, Hà Thị Minh Đức (2017), “Dịch chuyển lao động có
kỹ năng trong ASEAN – Các nhóm yếu tố ảnh hưởng”, Tạp chí Khoa học
Lao động và Xã hội, Qúy III.
5. Hà Thị Minh Đức, Nguyễn Bá Ngọc (2017), “Development of Female
Human Resources in Viet Nam”, Proceedings of the 6th International
Conference

o

Emerging

Challenges:


Partnership

Enhancement

ICECH2016.
6. Hà Thị Minh Đức (2018), “Các giải pháp thúc đẩy di chuyển lao động có
kỹ năng của Việt Nam ra nước ngoài đến 2025”, Tạp chí Kinh tế Châu Á
– Thái Bình Dương, Số tháng 11.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước bối cảnh gia nhập Cộng đồng ASEAN, những thay đổi của cuộc cách
mạng công nghệ 4.0 và thực trạng già hóa dân số, việc tham gia thị trường lao động
trong nước và nội khối ASEAN của Việt Nam gặp rất nhiều thách thức. Việt Nam
đã có nhiều chính sách và chiến lược để thúc đẩy nhiều lao động Việt Nam có kỹ
năng đi làm việc ở nước ngoài hơn. Tuy nhiên, cho đến nay kết quả cho thấy Việt
Nam vẫn chưa phát huy hết các lợi thế, chưa nắm bắt được hết các cơ hội sẵn có và
cơ hội tiềm năng để việc đưa lao động có kỹ năng đi làm việc ở nước ngoài có lợi
nhiều hơn, cả trong ngắn hạn và dài hạn. Chính vì vậy, việc đánh giá lại các chính sách,
chiến lược, xu hướng di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam vào ASEAN làm
việc để tìm ra hướng đi hiệu quả hơn là điều cần thiết Nghiên cứu của Luận án ”Di
chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN” hướng tới góp
phần đánh giá toàn diện, khách quan về cơ sở khoa học, thực trạng, bối cảnh, thách
thức và đề ra quan điểm, giải pháp cải thiện khả năng di chuyển lao động kỹ năng trong
khối kinh tế khu vực và nâng cao năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam trong quá
trình hội nhập khu vực và trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
2.1 Mục tiêu chung

Làm rõ cơ sở khoa học và thực trạng di chuyển lao động có kỹ năng của Việt
Nam trong Cộng đồng ASEAN để từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tham
gia chủ động và hiệu quả, đảm bảo lợi ích quốc gia và lợi ích của người lao động
trong di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trên thị trường lao động ASEAN.
2.1 Mục tiêu cụ thể
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về di chuyển lao động kỹ năng
của Việt Nam (dòng lao động kỹ năng đi) trong quá trình Việt Nam tham gia Cộng
đồng Kinh tế ASEAN; nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc hỗ trợ và
quản lý di chuyển lao động kỹ năng trong khu vực và trên thị trường thế giới.
- Đánh giá, phân tích thực trạng di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam
trong ASEAN giai đoạn 2006-2017; những kết quả chính, những hạn chế còn tồn tại
bao gồm cả về hiệu quả quả quản lý, cơ hội, thách thức và tác động của sự di chuyển
lao động có kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội và với bản thân người lao động Việt Nam.
- Đánh giá vai trò và các công cụ can thiệp của Cộng đồng ASEAN (các tuyên
bố, hiệp định, chính sách, thể chế, chương trình thực hiện để hỗ trợ di chuyển lao
động trong ASEAN).
- Đề xuất các giải pháp về cơ chế, chính sách phát triển và quản lý di chuyển
lao động có kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Sự di chuyển của lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN.
1


- Quản lý di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Các số liệu thống kê của luận án sẽ được tập hợp theo
cả ba giai đoạn trước, trong và sau khi Việt Nam gia nhập cộng đồng Kinh tế

ASEAN (2006– 2018).
- Khách thể nghiên cứu: đề tài chỉ giới hạn tìm hiểu lao động kỹ năng đi theo
các hình thức chính thức. Trong đó, Trong đó, lao động kỹ năng, xét theo trình độ đào
tạo, hàm ý , là người được đào tạo từ trình độ cao đẳng trở lên (theo quan niệm thông
thường của ILO).Luận án này cũng không đặt vấn đề nghiên cứu các đối tượng thuộc
phạm vi bao phủ của Hiệp định di chuyển thể nhân (MNP) của ASEAN (trừ đối tượng
chuyên gia) Tuy nhiên, mối quan hệ trong sự so sánh với các hình thức này liên quan
đến cơ cấu, quy mô, chất lượng, chính sách bảo vệ và kinh nghiệm về quản lý sẽ được
xem xét trong quá trình nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận và cách tiếp cận nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nghiên cứu. Các phân tích, đánh giá và đề xuất của luận án được tiếp cận từ lý
thuyết đến thực tế, so sánh đối chiếu thực tế với lý luận, tiếp cận tổng thể, hệ thống
vấn đề nghiên cứu. Luận án kế thừa các quan điểm, các lý thuyết về di cư đã được
thừa nhận rộng rãi; vận dụng các lý thuyết về di cư (Lý thuyết về di dân, lý thuyết
về di cư, thuyết tân cổ điển, thuyết mạng lưới xã hội, thuyết vốn con người, lý thuyết
hội nhập và hợp tác xuyên quốc gia, các lý thuyết thị trường lao động, các lý thuyết
quản lý…).
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng nhiều phương pháp, trong đó các phương pháp được sử dụng
chủ yếu như sau: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp quy nạp và diễn giải, phương pháp thống kê mô tả, phương pháp thu
thập và xử lý số liệu.
5. Dự kiến những đóng góp mới của luận án
* Về lý luận:
- Hệ thống hóa lý luận về hoạt động di chuyển lao động quốc tế, đặc biệt là di
chuyển lao động có kỹ năng trong khối kinh tế khu vực và dưới tác động của CMCN 4.0.
- Xác định nội hàm, yêu cầu của quản lý di chuyển, những nhóm nhân tố ảnh
hưởng và tiêu chí đánh giá di chuyển lao động kỹ năng của một nước đến các quốc

gia khác trong khối kinh tế khu vực.
* Về thực tiễn:
- Nghiên cứu, đánh giá bối cảnh kinh tế vĩ mô, thị trường lao động và lợi ích của việc
tham gia vào di chuyển lao động nội khối ASEAN tới tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam.
- Phân tích thực trạng di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong Cộng
đồng ASEAN thời gian qua, hiệu lực hiệu quả của quản lý di chuyển; chỉ ra những
nhân tố ảnh hưởng chủ yếu, những thành công và hạn chế của Việt Nam, đánh giá
những nguyên nhân dẫn đến hạn chế.
2


- Đánh giá rõ bối cảnh, xu hướng, cơ hội và thách thức, các kịch bản di chuyển
trong thời gian tới và đề xuất quan điểm, giải pháp để Việt Nam chủ động lựa chọn
và tham gia di chuyển lao động kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN một cách hiệu
quả trong thời gian tới một cách hiệu quả trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của Cộng
đồng và dưới tác động của CMCN 4.0.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết cấu
gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở khoa học về di chuyển lao động có kỹ năng trong khối kinh
tế khu vực và kinh nghiệm các nước
Chương 3: Thực trạng di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam trong
Cộng đồng ASEAN
Chương 4: Quan điểm và giải pháp cho di chuyển lao động có kỹ năng của
Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1. Tổng quan các nghiên cứu
Các nghiên cứu chủ yếu đưa ra một số lý thuyết chung về di chuyển lao động

quốc tế, giải thích nguyên nhân của sự di chuyển lao động trong các giai đoạn của
quá trình phát triển kinh tế thế giới nhưng chưa có lý thuyết nào tập trung giải thích
di chuyển lao động trong khối kinh tế khu vực và đặc biệt đề cập đến di chuyển của
lao động kỹ năng trong khu vực đó. Mỗi lý thuyết đưa ra một hướng giải thích khác
nhau nhưng chưa làm rõ bản chất, nội dung, các yêu cầu quản lý di chuyển, các nhân
tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá trong điều kiện bối cảnh mới của hội nhập và
dưới tác động của cách mạng công nghệ. Và do vậy, chưa thể hiện hết những yếu tố
đặc trưng của di chuyển lao động kỹ năng trong khối kinh tế khu vực trong bối cảnh
so sánh và cạnh tranh nhân lực khu vực và quốc tế.
2. Ngoài những công trình nhằm đưa ra khung lý thuyết về di chuyển lao động
quốc tế, còn rất nhiều nghiên cứu thực tiễn hiện đại tập trung phân tích các vấn đề
liên quan để tìm ra xu hướng, quy luật vận động của các dòng di chuyển lao động
nói chung. Các nghiên cứu về di chuyển lao động trong Cộng đồng ASEAN khá
phong phú và liên tục từ trước khi thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN đến nay, từ
nghiên cứu tổng quan về ASEAN đến di chuyển lao động của từng nước vào
ASEAN hay của từng nước ASEAN ra quốc tế. Các nội dung nghiên cứu phân tích
cũng đầy đủ - từ thực trạng đến đánh giá các chính sách và yếu tố tác động đến
luồng di chuyển lao động. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2015 – 2018 và thời gian tới,
với những thay đổi của ASEAN nói chung và từng quốc gia thành viên trong Cộng
đồng ASEAN nói riêng, các nhận định đánh giá đã giảm tính phù hợp và cần được
xem xét lại với các điều kiện, thông tin và xu hướng cập nhật hiện nay về công nhận
kỹ năng nghề của khối, về xu hướng và tác động của CMCN 4.0 khi mà một số
3


ngành nghề có nguy cơ biến mất và định hướng phát triển kinh tế của các nước đã
thay đổi trong bối cảnh mới…
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu có thể rút ra những khoảng trống
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, khoảng trống lý luận về di chuyển lao động kỹ năng trong một cộng

đồng kinh tế khu vực (cách tiếp cận nghiên cứu, bản chất, nội hàm lao động kỹ năng
và di chuyển lao động có kỹ năng, hình thức di chuyển, các nhóm nhân tố ảnh
hưởng, tiêu chí đánh giá sự tham gia của một nước đối với di chuyển lao động trong
khu vực, nội dung quản lý Nhà nước về di chuyển).
Thứ hai, khoảng trống phân tích thực tiễn với các thông tin cập nhật về sự
tham gia của Việt Nam đối với di chuyển lao động có kỹ năng trong ASEAN, các
dòng di chuyển đi chủ yếu đến các nước theo trình độ, nghề/lĩnh vực hoạt động, theo
các hình thức di chuyển, thực chất thu nhập, năng lực nghề nghiệp, trình độ tiếng
Anh và sự tham gia của Việt Nam trong thực hiện các Thỏa thuận công nhận lẫn
nhau (MRAs) giữa các nước ASEAN.
Thứ ba, khoảng trống về bối cảnh mới (đặc biệt là hội nhập và tác động của
Cách mạng Công nghiệp 4.0) và các các cơ hội thách thức, quan điểm chiến lược của
Việt Nam và đặc biệt là các giải pháp về mô hình tăng trưởng, tăng cường năng lực và
hiệu quả của quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các dịch vụ hỗ trợ
và hợp tác về lao động nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập phát triển trong di chuyển lao
động có kỹ năng trên thị trường lao động ASEAN.
Do vậy, tiến hành nghiên cứu đề tài: “Di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam
trong Cộng đồng ASEAN” sẽ góp phần làm thu hẹp và khắc phục những khoảng trống về
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và đề xuất các chính sách, giải pháp để Việt Nam có được
nguồn nhân lực có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập phát triển và quản lý hiệu
quả di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN.
2.Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và khung nghiên cứu của đề
tài luận án
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Nội hàm của di chuyển lao động kỹ năng trong khối kinh tế khu vực là gì,
các nhân tố ảnh hưởng ra sao và đánh giá hiệu quả tham gia di chuyển lao động kỹ
năng của một nước trong khối thông qua những tiêu chí nào?
- Năng lực của lao động kỹ năng Việt Nam và khả năng tham gia di chuyển
của họ đang ở mức độ nào so với yêu cầu của thị trường lao động ASEAN? Những
hạn chế chủ yếu trong di chuyển lao động có kỹ năng Việt Nam trong Cộng đồng

ASEAN là gì, do những nguyên nhân chủ yếu nào?
- Bối cảnh hội nhập, cơ hội và thách thức, quan điểm và giải pháp nào đối với Việt
Nam để tham gia hiệu quả vào di chuyển lao động có kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN?
2.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Các vấn đề mà luận án đưa ra được nghiên cứu theo những giả thuyết sau:
- Sự tham gia của Việt Nam vào di chuyển lao động kỹ năng trong ASEAN
còn nhiều hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực cũng như tính cạnh tranh của lao
4


động và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước (mô hình tăng trưởng, khung khổ pháp
lý, tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá và nâng cao hiệu quả di chuyển).
- Việc di chuyển của lao động có kỹ năng của Việt Nam theo MRAs không
phải là phương án tối ưu trong bối cảnh hiện này.
- Việt Nam vẫn có thể tận dụng được nhiều cơ hội, nhất là trong bối cảnh
CMCN4.0, và phát huy điểm mạnh cũng như đối phó với những thách thức và hạn
chế yếu kém để thúc đẩy tham gia và nâng cao khả năng di chuyển của lao động kỹ
năng trong Cộng đồng ASEAN nhằm hội nhập thành công và hiệu quả.
2.4.3. Khung nghiên cứu
Khung nghiên cứu di chuyển lao động kỹ năng Việt Nam trong ASEAN
BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU DI CHUYỂN LAO ĐỘNG KỸ NĂNG CỦA VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP ASEAN, KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ
Quy mô
TIÊU
CHÍ
Cơ cấu di Lợi ích của di
Quản lý di
di
ĐÁNH GIÁ
chuyển

chuyển
chuyển
chuyển
(dựa trên lý
thuyết
hiệu
NỘI DUNG DI CHUYỂN LAO ĐỘNG KỸ NĂNG
ứng di dân):
VIỆT NAM TRONG ASEAN
1. Quy mô, cơ
(dựa trên lý thuyết di chuyển lao động, học thuyết quản
cấu
di
lý nói chung và quản trị thị trường lao động nói riêng)
chuyển:
-Số lượng
- Cơ cấu
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DI CHUYỂN LAO
2. Lợi ích của
ĐỘNG CÓ KỸ NĂNG CỦA VIỆT NAM TRONG
di chuyển:
ASEAN
- Thu nhập
(dựa trên lý thuyết thị trường lao động, lý thuyết vốn
-Trình
độ
con người, lý thuyết di chuyển lao động, thuyết hội
công nghệ và
nhập và phát triển)
năng lực lao

Cầu lao
động
động kỹ
-Linh
hoạt
năng trong
Cung
lao
TTLĐ
ASEAN
Khung khổ
động
kỹ Quy
định
- Kiều hối…
(già hóa
phát triển
năng
của chung về di
3. Hiệu lực,
dân số,
của
Việt
Việt
Nam chuyển lao
hiệu quả quản
thiếu hụt
Nam (trong
(năng
lực, động

kỹ
lý nhà nước
lao động kỹ
đó có di
thu
nhập năng trong
năng, thu
chuyển lao
thấp,
khả ASEAN và
nhập hấp
động)

năng thích cam
kết
dẫn, đời
năng
lực
nghi, tiếng thực hiện
sống văn
quản lý
Anh…)
hóa tinh
thần…)

5


Kết luận chƣơng 1
Chương 1 đã phân tích và tổng quan những nghiên cứu trong và ngoài nước

liên quan đến đề tài luận án. Có thể kết luận về những vấn đề đã được nghiên cứu và
thống nhất như sau:
Thứ nhất, các vấn đề lý thuyết về di chuyển lao động quốc tế được quan tâm
rất nhiều nhưng chưa thật sự có nghiên cứu lý thuyết về di chuyển lao động kỹ năng
trong khối kinh tế khu vực, cụ thể là đối với ASEAN. Luận án đã xác đinh khung
nghiên cứu di chuyển lao động có kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN.
Khung nghiên cứu dựa trên lý thuyết về di chuyển lao động, học thuyết quản lý nói
chung và quản lý thị trường lao động nói riêng, thuyết vốn con nguoiwf và thuyết
hội nhập và phát triển. Đây là cơ sở quan trọng để luận án tiếp tục nghiên cứu
chuyên sâu hơn, đặc biệt là về bản chất, nội dung yêu cầu của di chuyển, quản lý di
chuyển, các nhân tố ảnh hưởng, các tiêu chí đánh giá hiệu quả di chuyển.
Thứ hai, mặc dù có một số nghiên cứu đánh giá thực tiễn về sự di chuyển lao
động quốc tế và di chuyển trong các nước ASEAN song vẫn còn thiếu phân tích
chuyên sâu và đánh giá toàn diện về sự tham gia của Việt Nam vào di chuyển lao
động kỹ năng trong khối này với tư cách là thành viên tích cực xây dựng Cộng đồng
ASEAN và thị trường lao động chung của ASEAN, đặc biệt là trong bối cảnh hội
nhập với những điều kiện mới về đầu tư, thương mại, dịch vụ và công nghệ.
Thứ ba, việc xác định các “khoảng trống” nghiên cứu là rất quan trọng; NCS
đã đánh giá được các khoảng trống nghiên cứu, từ đó xây dựng các câu hỏi nghiên
cứu, giả thuyết nghiên cứu và khung nghiên cứu của đề tài luận án để bổ sung vào
những vấn đề nghiên cứu còn tồn tại.
Chƣơng 2
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG KỸ NĂNG
TRONG KHỐI KINH TẾ KHU VỰC VÀ KINH NGHIỆM CÁC NƢỚC
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm cơ bản
Luận án xem xét và đưa ra một số khái niệm cơ bản sau:
- Di chuyển/dịch chuyển1 lao động: chỉ người lao động “di chuyển” tới một
nơi mới để thực hiện hợp đồng lao động trong một khoảng thời gian nhất định
(mang tính chất tạm thời).

- Di chuyển lao động quốc tế là sự di chuyển sức lao động từ nước này sang
nước khác nhằm tìm kiếm các cơ hội việc làm và thu nhập tốt hơn nơi ở ban đầu.
- Di chuyển/dịch chuyển lao động trong khối kinh tế khu vực: là việc người lao
động ở các nước thành viên một khối kinh tế (có liên kết kinh tế chặt chẽ) chuyển
dịch sang nước khác trong cùng khối dưới tác động của cung - cầu trên thị trường
lao động chung, thể chế kinh tế và các cam kết hợp tác kinh tế khu vực.
- Kỹ năng: được hiểu là khả năng thực tế hóa các kiến thức. Khi một hoặc một
nhóm hành động nhất định nào đó được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ hình thành nên kỹ
năng.
1

Thuật ngữ di chuyển hoặc dịch chuyển được NCS sử dụng đồng thời và có nghĩa như nhau.

6


- Lao động có kỹ năng/lao động kỹ năng: (skilled labour) người được gọi là
lao động kỹ năng phải được đào tạo từ trình độ cao đẳng trở lên.
- Công nhận kỹ năng: là sự thừa nhận về kỹ năng theo tiêu chuẩn nhất định
giữa các quốc gia. Một thỏa thuận công nhận/thừa nhận lẫn nhau (MRA- Mutual
Recognition Arrangement) là một thỏa thuận quốc tế trong đó hai hoặc nhiều quốc
gia công nhận sự đánh giá phù hợp của một quốc gia khác. Trong nội dung của Luận
án này, MRA đề cập đến Thoả thuận công nhận lẫn nhau về trình độ chuyên
môn/tay nghề.
- Di chuyển lao động kỹ năng theo Thỏa thuận công nhận lẫn nhau: (MRAs)
giữa các nước ASEAN là sự di chuyển tự do của lao động trình độ cao (lành nghề) giữa
các nước ASEAN nhằm tìm kiếm các cơ hội việc làm và điều kiện làm việc tốt hơn,
chịu sự chi phối của những yêu cầu trong Hiệp định khung về các ngành dịch vụ
ASEAN 1995 (AFAS), trong đó bao gồm các điều khoản về di chuyển thể nhân
(MNP).

- Khả năng tham gia của lao động kỹ năng trong di chuyển lao động quốc tế và
khu vực đề cập đến năng lực của lao động kỹ năng ở các ngành nghề cụ thể và năng
lực can thiệp, tác động từ bên ngoài (các quy định pháp lý về di chuyển lao động của
AEC và của các quốc gia, cung-cầu lao động ở 8 nghề…) để hỗ trợ lao động lao
động kỹ năng có thể thực hiện việc di chuyển lao động trên thị trường lao động quốc
tế và khu vực.
2.2 Một số lý thuyết liên quan đến di chuyển lao động
Nghiên cứu vận dụng một số lý thuyết như: Lý thuyết của Ernest Ravenstein
về di dân vì động lực kinh tế, lý thuyết về di cư do yếu tố kinh tế của Harvey B.
King, thuyết tân cổ điển, lý thuyết “Vốn con người”, thuyết mạng lưới xã hội, lý
thuyết hội nhập và xuyên quốc gia.
2.3 Bản chất, nội dung di chuyển lao động kỹ năng
2.3.1 Bản chất
Bản chất của di chuyển lao động kỹ năng, đối với cá nhân là lợi ích kinh tế và
cuộc sống, lợi ích về kiến thức và kinh nghiệm; còn đối với thị trường lao động là sự
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phụ thuộc vào cơ chế kinh tế của mỗi
vùng, mỗi quốc gia, mỗi khu vực.
2.3.2 Nội dung và yêu cầu
Nội dung di chuyển lao động có tay nghề ở đây được hiểu là: (i) Khung khổ,
chính sách đối với lao động di chuyển; (ii) Nguồn lực và năng lực của di chuyển
(hay còn gọi là kỹ năng và năng lực của di chuyển) của người lao động; (iii) Thực
hiện di chuyển lao động (tự phát hoặc có tổ chức); và (iv) Quản lý quá trình di
chuyển lao động có tay nghề.
Yêu cầu thực hiện hiệu quả di chuyển lao động kỹ năng trong khối kinh tế khu
vực, mỗi quốc gia thành viên cần phải có những cam kết khu vực và song phương và
thực hiện có hiệu quả những cam kết đó thông qua những biện pháp quản lý phù hợp.
7


2.3.3 Các dòng di chuyển

Các dòng di chuyển chủ yếu của lao động có tay nghề trên thị trường lao động
được xem xét qua các dòng di chuyển sau:
- Di chuyển lao động trong nước.
- Di chuyển nội khối (dòng đi, dòng đến một nước thành viên này từ một nước
thành viên khác).
- Di chuyển lao động quốc tế.
2.3.4 Các hình thức di chuyển
Hiện nay các hình thức di chuyển lao động khá đa dạng. Tuy nhiên, thường có
một số hình thức chủ yếu sau:
- Di chuyển thể nhân: Đây là loại di chuyển theo hợp đồng kinh tế của các
doanh nghiệp của nước này với nước khác.
- Di chuyển cá nhân: Là sự di chuyển đơn lẻ, có thể là di chuyển thể nhân
(hoạt động dịch vụ sản xuất, kinh doanh) hoặc di chuyển tự do.
Di chuyển có tổ chức: theo các hợp đồng cung ứng dịch vụ lao động giữa các
Chính phủ hoặc công ty (doanh nghiệp) của hai nước (hay còn gọi là xuất khẩu lao
động).
2.4. Quản lý di chuyển lao động kỹ năng đi trong khối kinh tế khu vực
Quản lý nhà nước (QLNN) về di chuyển lao động có kỹ năng được xem xét
qua các khía cạnh sau: 1/Xây dựng khung khổ, cơ chế, chính sách; 2/Quản lý, phát
triển kỹ năng trước khi di chuyển; 3/Quản lý quá trình thực hiện di chuyển; và
4/Quản lý sử dụng lao động kỹ năng sau khi trở về.
2.5 Nhân tố ảnh hƣởng đến dòng di chuyển của lao động kỹ năng đi làm
việc trong khối kinh tế khu vực nhƣ: Nhu cầu lao động kỹ năng; Khả năng cung
cấp lao động kỹ năng; Khung pháp lý, mô hình phát triển và năng lực thực hiện của
khối kinh tế khu vực và của từng nước thành viên.
2.6 Tiêu chí đánh giá di chuyển lao động kỹ năng của một nƣớc trong
khối kinh tế khu vực bao gồm: Quy mô và số lượng di chuyển; Cơ cấu và chất
lượng lao động tham gia di chuyển (Cơ cấu di chuyển lao động theo ngành nghề và
cơ cấu di chuyển lao động theo trình độ); và Hiệu quả quản lý nhà nước.
2.7 Lợi ích của di chuyển lao động kỹ năng trong khối kinh tế khu vực

gồm: Lợi ích kinh tế trực tiếp trong thu hẹp khoảng cách phát triển; Lợi ích về tri
thức và công nghệ; và Cải thiện kỹ năng và tính linh hoạt trên thị trường lao động.
2.8. Kinh nghiệm của một số nƣớc và bài học cho Việt Nam
Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm của hai nước điển hình, có số lượng người
lao động di cư lớn so với các nước khác trên thế giới, có lượng kiều hối lớn và lịch
sử di cư tìm việc làm ở nước ngoài lâu dài. Phi-líp-pin là một nước thành viên
ASEAN song không lấy mục tiêu thị trường ASEAN là chính trong khi Băng-la-đét
là nước ngoài khu vực song di chuyển và cạnh tranh rất nhiều với lao động nội khối,
đặc biệt tại thị trường Xing-ga-po, một thị trường khó tính của ASEAN. Từ những
nghiên cứu này, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
8


Thứ nhất, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài được xác định là một giải
pháp lâu dài góp phần vào phát triển kinh tế của đất nước thông qua lượng kiều hối
gửi về để tái đầu tư và tận dụng chất xám của người lao động quay trở về. Đây chính
là cơ hội để những nước đang phát triển, có nhân lực dồi dào như Việt Nam có thể
nhanh chóng đạt được mục tiêu tăng trưởng.
Thứ hai, từng bước nâng cao chất lượng lao động, chuyển hướng dần từ đưa
lao động phổ thông sang xuất khẩu lao động trình độ cao/có chuyên môn. Đặc biệt là
phải nâng cao năng lực, kỹ năng, kiến thức, trình độ ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh
và một số tiếng của các quốc gia có hợp tác kinh tế sâu rộng hoặc của các quốc gia
trong khu vực); tăng cường nhận thức và thái độ của người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hướng chuyên nghiệp; đánh giá đúng nhu cầu lao động kỹ năng của
nước tiếp nhận và thúc đẩy hợp tác về giáo dục dạy nghề với nước tiếp nhận hoặc
theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm tăng cường công nhận trình độ lẫn nhau theo cơ chế
song phương hoặc đa phương.
Thứ ba, đổi mới mô hình tăng trưởng, đổi mới mô hình tăng trưởng, đồng bộ
hóa chiến lược với tổ chức thực hiện; đảm bảo tính khả thi của chính sách ở tất cả
các cấp. Phải quản lý được các dòng di chuyển lao động kỹ năng để hạn chế những

tác động tiêu cực tới nền kinh tế, đặc biệt là chảy máu chất xám trong những ngành
cần phải giữ lao động kỹ năng phục vụ cho nhu cầu trong nước; tận dụng được những
nguồn lực kiều hối và kỹ năng để tái đầu tư và tái cơ cấu nền kinh tế, làm cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới và phù hợp với những thế mạnh về kỹ năng và
tiềm lực của LLLĐ.
Thứ tư, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý lao động trong
nước, nước ngoài phù hợp và thống nhất, khuyến khích lao động di chuyển; tăng
cường hệ thống các dịch vụ hỗ trợ di chuyển và pháp luật bảo hộ người lao động khi
ra nước ngoài làm việc; hoàn thiện hệ thống tổ chức, quản lý, thực hiện cả ở trong
nước và ngoài nước. Đồng bộ hóa chiến lược với tổ chức thực hiện; đảm bảo tính
khả thi của chính sách ở tất cả các cấp. Phải quản lý được các dòng di chuyển lao
động kỹ năng để hạn chế những tác động tiêu cực tới nền kinh tế, đặc biệt là chảy
máu chất xám trong những ngành cần phải giữ lao động kỹ năng phục vụ cho nhu
cầu trong nước; tận dụng được những nguồn lực kiều hối và kỹ năng để tái đầu tư và
tái cơ cấu nền kinh tế, làm cơ sở phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới và
phù hợp với những thế mạnh về kỹ năng và tiềm lực của LLLĐ.
Thứ năm, tôn trọng và đánh giá cao những đóng góp của người lao động di cư
vào việc phát triển đất nước kể cả về nguồn lực tài chính và kỹ thuật, chủ động trong
việc bảo vệ người lao động di cư, mở rộng độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội
và tạo các mạng lưới tiếp nhận, xử lý các vấn đề của người lao động di cư một cách
phù hợp thông qua hợp tác song phương với các nước tiếp nhận.
Thứ sáu, đổi mới căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo nghề theo hướng hội
nhập với khu vực và quốc tế để tạo năng lực thực sự cho người lao động trong tương
lai bao gồm cả kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Khuyến khích sự tham gia của các cơ
9


sở giáo dục, đào tạo nghề vào hệ thống chấm điểm/xếp hạng giáo dục và đào tạo khu
vực và thế giới, tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp/người sử dụng lao
động hay hiệp hội có uy tín vào quá trình đào tạo nhằm tạo danh tiếng và niềm tin

vào chất lượng giáo dục trong nước, gắn với chuẩn đầu ra được các nước hay quốc
tế công nhận.
Kết luận Chƣơng 2
Chương này nghiên cứu những vấn đề lý luận, những lý thuyết về di chuyển
lao động trong khối kinh tế khu vực, chúng được xây dựng trên nền tảng các lý
thuyết tăng trưởng và di chuyển lao động quốc tế cùng sự hình thành các khối kinh
tế khu vực trong quá trình hội nhập.
Toàn bộ Chương này đã phân tích những vấn đề cơ bản của di chuyển lao
động kỹ năng trong khối kinh tế khu vực (bản chất, nội dung, nhân tố ảnh hưởng,
tiêu chí đánh giá), đồng thời cũng phân tích những lợi ích thu được của từng quốc
gia thành viên cũng như của toàn khối trong di chuyển lao động kỹ năng trong Cộng
đồng ASEAN. Trong chương này cũng phân tích các kinh nghiệm của Phi-líp-pin,
Băng-la-đét trong tham gia di chuyển lao động nói chung cũng như di chuyển lao
động kỹ năng nói riêng, các giải pháp thúc đẩy di chuyển lao động có kỹ năng thông
qua tăng cường kỹ năng nghề cho lao động... và rút ra các bài học quan trọng về
hoàn thiện khung khổ pháp lý, đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và cải thiện năng lực quản lý di chuyển. Đây là cơ sở để Luận án không chỉ phân
tích thực trạng Việt Nam tham gia di chuyển lao động kỹ năng trong ASEAN mà
còn để nghiên cứu, đề xuất quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia
di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN một cách rõ ràng và thống
nhất ở các Chương sau.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG DI CHUYỂN LAO ĐỘNG CÓ KỸ NĂNG CỦA VIỆT
NAM TRONG CỘNG ĐỒNG ASEAN
3.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô và thị trƣờng lao động Việt Nam giai đoạn
2006-2018
Qua các phân tích thực trạng về kinh tế vĩ mô, lực lượng lao động, lao động kỹ
năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật và việc làm của Việt Nam giai đoạn 2006-2017,
có thể thấy nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước
tăng trưởng đáng kể với GDP liên tục giữ đà tăng. Chuyển dịch nền kinh tế cũng đã

theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng đóng góp vào GDP của ngành dịch vụ và giảm tỷ
trọng của nông nghiệp. Theo chuyển dịch của nền kinh tế, việc làm của Việt Nam
cũng đã có bước chuyển dịch theo hướng tăng việc làm trong ngành công nghiệp,
dịch vụ và giảm việc làm trong ngành nông nghiệp. Việc dịch chuyển này đã có
10


những tác động tích cực và làm thay đổi cơ cấu ngành nghề theo hướng tăng lao
động có kỹ thuật và chuyên môn trên thị trường.
3.2.Thực trạng dòng di chuyển đi của lao động kỹ năng của Việt Nam
trong ASEAN
Từ những phân tích về Quy mô lao động kỹ thuật của Việt Nam di chuyển vào
các nước thành viên ASEAN và Cơ cấu, chất lượng lao động tham gia di chuyển
trong Cộng đồng ASEAN, có thể thấy rằng những tác động về di chuyển lao động nói
chung và lao động có kỹ năng nói riêng của ASEAN đối với Việt Nam sau khi chính
thức thành lập vào cuối năm 2015 chưa có dấu hiệu tích cực. Thậm chí, số lao động Việt
Nam di chuyển sang các nước ASEAN còn giảm xuống nhanh về số lượng lao động
cũng như cả thị trường của các nước tiếp nhận. Điều này có thể lý giải ở một số nguyên
nhân sau:
- Tính hấp dẫn của các thị trường trong khu vực đã giảm xuống đối với những nghề
di chuyển truyền thống của lao động Việt Nam, và xuất hiện nhiều thị trường mới hấp
dẫn hơn rất nhiều đối với người lao động về cả mức lương và điều kiện sống.
- Mặc dù trình độ học vấn của người Việt Nam không quá thấp so với các nước
khác trong khu vực song khoảng cách kỹ năng so với yêu cầu thực tế của từng nước
vẫn là vấn đề cần phải xem xét. Không có lợi thế nằm ở nhóm các nước có chung
ngôn ngữ trong khu vực, tiếp tục chỉ đưa đi những lao động phổ thông chưa qua đào
tạo nghề hoặc có trình độ kỹ năng thấp, trung bình, không có trình độ chuyên môn
kỹ thuật, Việt Nam khó có thể cạnh tranh với những lao động từ các nước có nhiều
lao động đi trong khu vực và có cùng trình độ như lao động Việt Nam, bao gồm Inđô-nê-xia, My-an-ma và Lào.
- Việc tận dụng những lợi thế của hội nhập, đặc biệt là việc thúc đẩy công nhận lẫn

nhau để hỗ trợ di chuyển tự do của lao động có kỹ năng chưa được chú trọng và biểu
hiện bằng những tiến bộ vượt bậc và bước đột phá của lao động về cả số lượng và chất
lượng và thị trường tham gia. Điều này là một bất lợi khi sự khác biệt rõ rệt về mức
lương, trình độ ở lao động có kỹ năng song lại nằm ngoài mục tiêu và khả năng di
chuyển của lao động Việt Nam.
3.2.3. Lợi ích của di chuyển lao động đối với Việt Nam
Những tác động của di cư lao động đối với Việt Nam (chủ yếu dưới hình thức
di chuyển ra nước ngoài) bao gồm việc tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, từ đó
giảm áp lực về việc làm đối với nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển kinh tế thông
qua tái đầu tư và khởi nghiệp từ nguồn kiều hối, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong ngắn hạn và dài hạn.
3.2.4. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về di chuyển lao động có kỹ năng
của Việt Nam
Có thể rút ra một số đánh giá chung về hiệu lực, hiệu quả quản lý di chuyển
lao động kỹ năng của Việt Nam như sau:
- Việt Nam đã có chủ trương và chính sách khuyến khích lao động và
chuyên gia (lao động kỹ năng) đi làm việc ở nước ngoài và coi đây là một giải
11


pháp chiến lược nhằm giải quyết việc làm, tăng cường khả năng cạnh tranh và hội
nhập của Việt Nam.
- Hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu quản lý về
di chuyển lao động với việc quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền lợi của bản
thân các cơ quan Chính phủ liên quan, các doanh nghiệp và người lao động. Luật
72/2006/QH11 về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng đã bao trùm tất cả các hình thức di chuyển của lao động, bao gồm cả lao động
kỹ năng và không hề hạn chế sự di chuyển của lao động có kỹ năng. Tuy nhiên, việc
thực hiện luật trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác quản lý lao
động có kỹ năng đi chưa chặt chẽ và nghiêm, còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính

phức tạp do đó không khuyến khích được đối tượng hoặc bên quản lý đối tượng
đăng ký, dẫn đến thông tin về luồng di chuyển lao động kỹ năng chưa đầy đủ.
- Các cơ chế và chính sách, hướng dẫn liên quan đến việc thúc đẩy tham gia di
chuyển trong 8 nghề theo cam kết MRAs của ASEAN chưa hoàn chỉnh, chưa đáp
ứng đầy đủ yêu cầu di chuyển. Hệ thống cung cấp dịch vụ hỗ trợ lao động di chuyển
chưa cập nhật các thông tin, yêu cầu và nội dung về di chuyển lao động của Cộng
đồng ASEAN, nhu cầu của các nước tiếp nhận để cung cấp các dịch vụ phù hợp, đáp
ứng yêu cầu của lao động kỹ năng có nhu cầu di chuyển lao động trong ASEAN.
- Hệ thống giáo dục và phát triển nguồn nhân lực nói chung cũng như giáo dục
nghề nghiệp nói riêng của Việt Nam còn hạn chế, chưa thích ứng với hệ thống giáo
dục quốc tế nói chung và các nước ASEAN nói riêng về chương trình, nội dung kiến
thức, kỹ năng, thực hành... Đặc biệt, tính năng động, sáng tạo và khả năng thích nghi
với những thay đổi của lao động Việt Nam; kỹ năng phân tích, kỹ năng tự học, kỹ
năng mềm xã hội như giao tiếp, phối hợp, làm việc theo tổ nhóm, tiếng Anh... còn
thiếu và yếu là những rào cản chính làm hạn chế khả năng tham gia, khả năng cạnh
tranh của lao động kỹ năng Việt Nam trong ASEAN. Việt Nam vẫn thiếu vắng các
chính sách ưu tiên đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với xu hướng thị
trường lao động giai đoạn hội nhập trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0. Nguồn nhân lực chất lượng chưa cao và năng lực cạnh tranh thấp là
do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do hệ thống đào tạo không đáp ứng được
nhu cầu, người sử dụng lao động chưa có nhiều động lực khuyến khích nâng cao
năng lực thực hiện và cơ chế, chính sách chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chịu sự tác động mạnh của công nghệ
và hội nhập trong điều kiện mới.
- Chính phủ đã chú trọng đến thúc đẩy hợp tác song phương về lao động song
mới chỉ dừng lại việc tăng cường quản lý lao động theo luật pháp, chính sách của
Việt Nam và nước tiếp nhận và thúc đẩy lao động đi làm việc ở một số ngành nghề
có kỹ năng thấp và trung bình chứ chưa đẩy mạnh được kết nối và xâm nhập thị
trường lao động kỹ năng của khu vực.


12


3.3. Thực trạng các nhân tố ảnh hƣởng đến di chuyển lao động kỹ năng
của lao động Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN
3.3.1 Nhu cầu của các nước ASEAN
Đánh giá chung về nhu cầu lao động kỹ năng của các nước ASEAN cho thấy:
- Nhu cầu lao động từ các nước ASEAN là rất lớn với tổng số lao động di cư
chiếm tới 51% lao động di cư thế giới. Đặc biệt, dòng di chuyển lao động của
ASEAN sôi động hơn bất kỳ một khu vực nào trên toàn cầu, trong đó Xing-ga-po là
nước già hoá, cùng Ma-lai-xia và Thái Lan nhận khá nhiều lao động (từ 1,4-2,2 triệu
lao động làm việc tại các nước này hàng năm) song bản thân Ma-lai-xia cũng có
nhiều lao động làm việc tại Xing-ga-po. Bru-nây là nước nhận lao động thuần đang
trên con đường già hoá có số người lao động di cư khoảng 100.000 người làm việc
hàng năm. Sở dĩ ASEAN có tần suất và số lượng di chuyển lớn là do:
+ Sự khác biệt trong phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế của các nước, với số
GDP/đầu người chênh lệch rất lớn giữa các nước thành viên dẫn đến chênh lệch về
năng suất lao động và do đó thu nhập/tiền lương có sự chênh lệch lớn, dẫn đến dòng
lao động được đổ về các nước có thu nhập bình quân cao như Xing-ga-po, Bru-nây,
Ma-lai-xia, Thái Lan. Những khác biệt này sẽ ảnh hưởng đến xu hướng di cư lao
động: người lao động sẽ đến tìm việc ở những thị trường có nhu cầu lao động, mức
lương và năng suất lao động cao hơn.
+ Lực lượng lao động của các nước ASEAN rất khác nhau, từ Bru-nây với
186.000 đến In-đô-nê-xia là 118,2 triệu người. Người dân những nước có thu nhập
cao, dân số ít thường có xu hướng không làm những việc có mức lương thấp, việc
chân tay trong khi những nước đông lao động, có tỷ lệ thất nghiệp cao, lương thấp
có mong muốn tìm được việc làm tốt hơn ở nước ngoài. Sự khác nhau về đặc điểm
dân số này sẽ tạo dòng di chuyển lớn trong khu vực.
- Tuy nhiên, có thể thấy rõ lao động di chuyển trong nội khối thời gian vừa qua
là lao động có trình độ thấp và trung bình chiếm đa số trong khi lao động có kỹ năng

cao ngày cảng giảm đi đối với những nghề có số lao động di cư về truyền thống là
cao. Điều này có thể lý giải ở việc bản thân các nước ASEAN chưa gây dựng được
năng lực thực sự về đào tạo lao động kỹ năng, trừ Xing-ga-po và một phần ít của
Ma-lai-xia, Thái Lan và Phi-lip-pin, phần vì bản thân các nước cũng cố gắng bảo vệ
các vị trí việc làm có kỹ năng cho người dân nước mình, phần nữa là theo truyền
thống vẫn có lao động kỹ năng cao từ các nước khác xâm nhập thị trường này như
Ấn Độ, Úc hay Mỹ…
- Xu hướng nhu cầu lao động di cư trong tương lai sẽ có nhiều thay đổi. Tác
động của cuộc CMCN 4.0, định hướng phát triển các nền kinh tế dựa vào tri thức, và
đặc biệt là ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của mỗi
nước đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế, phát sinh những ngành nghề và nhu cầu kỹ
năng mới, đặc biệt các công việc trực tiếp về ICT hay công việc đòi hỏi kỹ năng liên
quan đến ICT. Các lao động kỹ năng trong ngành tài chính, ngân hàng hay quản lý
là những yêu cầu còn bị thiếu hụt kỹ năng nhưng vẫn phải gắn liền với khả năng xử
13


lý công nghệ. Ngành dịch vụ, đặc biệt là du lịch chữa bệnh và nghỉ dưỡng, điều
dưỡng cũng đang nổi lên là một nhu cầu tương lai trong xã hội già hóa của ASEAN
và có rất nhiều ngành đòi hỏi lao động giỏi về kỹ năng thực hành chứ không chỉ là
học thuật... Do đó, cần phải nghiên cứu kỹ về khả năng thúc đẩy việc công nhận lẫn
nhau về kỹ năng (MRSs) trong thời gian tới.
- MRAs với mục tiêu thúc đẩy dịch chuyển tự do của lao động có kỹ năng
trong ASEAN và là điều kiện tiền đề để mở rộng thị trường lao động có kỹ năng
cao, trước hết trong 8 ngành nghề và sau đó sẽ mở rộng ra các ngành nghề khác. Tuy
nhiên, thực tế thực hiện cho thấy có quá nhiều rào cản trong việc đạt được những
mục tiêu đề ra, dẫn đến số lượng chuyên gia thực tế đã được đăng bạ trong danh
mục chuyên gia ASEAN di chuyển thực sự là vô cùng hạn chế. Cần phải thực hiện
rất nhiều các biện pháp để thúc đẩy MRAs trong thời gian tới.
3.3.2. Khả năng cung cấp của Việt Nam

Nguồn cung lao động của Việt Nam đang trong thời điểm cơ cấu dân số vàng.
Dòng di chuyển lao động của Việt Nam sang các nước nội khối ASEAN trong thời
gian qua chủ yếu là lao động không có kỹ năng, trong những ngành nghề không yêu
cầu trình độ kỹ thuật cao, nhiều nhất là thợ thủ công, tiếp theo là các ngành dịch vụ,
lao động giản đơn và các ngành công nghiệp chế biến. Quy mô lao động kỹ năng của
Việt Nam trong 8 nghề được di chuyển tự do trong nội khối ASEAN rất nhỏ. Năng lực
cạnh tranh của lao động Việt Nam chưa thể vươn lên khỏi vị trí thứ 6 hoặc thứ 7 trong
ASEAN, cả trong quá khứ và tương lai gần với kỷ nguyên 4.0 đang hiện hữu.
3.3.3. Khuôn khổ chính sách chung về di chuyển lao động kỹ năng trong
ASEAN và cam kết thực hiện
Trong phần này, luận án đã rà soát các quy định/sáng kiến hiện có của AEC
liên quan đến di chuyển lao động kỹ năng trong ASEAN về bộ máy thực hiện,
khung pháp lý và các quy trình thủ tục để thực hiện di chuyển lao động như: Hiệp
định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP); Thỏa thuận công nhận lẫn nhau về kỹ
năng (MRA); và Khung tham chiếu trình độ ASEAN (AQRF). Mặc dù đạt được một
số kết quả trong di chuyển lao động kỹ năng ASEAN, góp phần vào xây dựng một
thị trường chung thống nhất nhưng đánh giá chung cho thấy, các nước trong khu vực
vẫn đứng trước 3 rào cản thách thức chủ yếu, đó là:
- Chưa có những đánh giá và chỉ dẫn rõ ràng về lao động kỹ năng nước ngoài
cần thiết đối với một nước trong khu vực; cũng chưa có những đánh giá cụ thể về
ảnh hưởng của di chuyển lao động đến tăng trưởng và cơ cấu nghề nghiệp của một
nước thành viên; vai trò của các cơ quan quản lý, các tổ chức nghề nghiệp chưa
được xác định rõ ràng.
- Vẫn còn những cản trở liên quan đến hợp đồng lao động (bản chất là có thời
hạn hoặc ngắn hạn), thời hạn cư trú và thực hiện các quyền của người di cư. Những
chính sách tiếp nhận lao động từ nước ngoài thiếu cởi mở của các nước sẽ cản trở
việc thực hiện di chuyển lao động kỹ năng trong ASEAN.
14



- Đang thiếu những nỗ lực cần thiết và tích cực để thực hiện các MRAs trong
thực tế. Hiện chưa có những lựa chọn ưu tiên để có thể thúc đẩy di chuyển một vài
nhóm nghề có khả năng thực hiện cao như kỹ sư, kiến thúc sư. Rất cần sự tham gia
cụ thể và hiệu quả của các hiệp hội nghề nghiệp và khu vực tư nhân trong quá trình
thực hiện MRAs.
3.4. Thực trạng thể chế, chính sách của Việt Nam và năng lực thực hiện
- Thể chế chính sách chung cho di chuyển lao động: cho đến nay, Nhà nước
chưa có một quy định hoặc văn bản pháp lý cụ thể nào dành riêng cho đối tượng lao
động có kỹ năng cao sang nước ngoài làm việc.
- Thể chế, chính sách giáo dục đào tạo Việt Nam: chương trình đào tạo được
xây dựng dựa trên năng lực sẵn có của trường, chưa chú trọng đến chuẩn đầu ra và
yêu cầu của thế giới công việc và nghề nghiệp; chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu
cầu của công việc thực tế về kỹ năng, tay nghề. Theo Khung tham chiếu trình độ
ASEAN (2015), Chính phủ Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh, sửa đổi Khung trình
độ quốc gia Việt Nam (KTĐQG) theo 8 bậc kèm theo các chuẩn đầu ra cho mỗi cấp
trình độ. Tuy nhiên, khung này chưa được chia nhỏ theo từng tiêu chuẩn kỹ năng cụ
thể để giúp các bên liên quan nắm rõ chuẩn đầu ra và tiêu chí đánh giá nhằm tránh
những mơ hồ khi thực hiện; chưa có Thông tư hướng dẫn việc xây dựng chuẩn đầu
ra. Hiện mới có 60 nghề được xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia Việt
Nam, những nghề chưa được xây dựng sẽ khó thực hiện theo KTĐQG. Hơn nữa,
trong các trường đại học đang tồn tại 3 – 4 hệ thống văn bằng, chứng chỉ. Điều này
gây khó khăn trong việc đối chiếu và so sánh với AQRF.
3.5. Đánh giá chung
3.5.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, Việt Nam đã có các định hướng cấp quốc gia và nhiều nỗ lực trong
hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm hỗ trợ di chuyển lao động kỹ năng
trong ASEAN. Việt Nam đã có nền tảng, cơ sở hệ thống, hành lang pháp lý,chính
sách, quy định liên quan đến quản lý di chuyển lao động. Việt Nam cũng đã có
những hướng dẫn, phổ biến bước đầu về di chuyển lao động kỹ năng trong khu vực,
tạo điều kiện cho lao động kỹ năng tiếp cận, nắm vững thông tin về di chuyển lao

động kỹ năng trong ASEAN.
Thứ hai, Việt Nam đã có kinh nghiệm vài chục năm trong việc đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các dạng di cư lao động khác (như hợp tác
chuyên gia, tu nghiệp sinh, xuất khẩu lao động theo chương trình kỹ sư vàng). Các
cơ quan trong hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể của Việt
Nam đã có kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Việt Nam có khá nhiều công ty tham gia cung cấp dịch vụ tạo nguồn, tư vấn, đào
tạo, hỗ trợ thủ tục pháp lý, quản lý lao động trước, trong và sau quá trình di chuyển
lao động trong khu vực ASEAN và nhiều khu vực khác trên thế giới.
Thứ ba, Việt Nam có nguồn lao động trẻ dồi dào, khéo léo, tiếp thu nhanh.Đây
là điều kiện thuận lợi để lao động kỹ năng Việt Nam có thể đạt được trình độ chuyên
15


môn, tay nghề cao đáp ứng tiêu chuẩn ASEAN và những tiêu chí đặt ra trong di
chuyển theo MRAs. Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động thuộc nhóm cao trong
các nước ASEAN; đồng thời quy mô lực lượng lao động khá lớn. Lao động Việt
Nam có truyền thống chăm chỉ, sẵn sàng nhận các công việc khó khăn, chấp nhận xa
gia đình, xa quê hương để làm việc. Một bộ phận lao động kỹ năng của Việt Nam có
thể đạt yêu cầu về kỹ năng ở 8 nhóm nghề, đặc biệt là điều dưỡng, kế toán, du lịch,
và có thể tham gia đăng ký để được công nhận tay nghề.
3.5.2 Hạn chế, tồn tại
Thứ nhất, di chuyển lao động có kỹ năng dù đã được coi là một trong những
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề cũng đã được
đưa vào trong các chương trình quốc gia liên quan song vẫn chưa thực sự được chú
trọng và thực hiện, thúc đẩy trên thực tế, đặc biệt là các ngành nghề có hàm lượng
kỹ năng cao. Việc kết nối cung – cầu lao động ở cấp khu vực, thúc đẩy hợp tác song
phương về lao động kỹ năng còn hạn chế. Mô hình tăng trưởng vẫn chưa tạo cơ sở
nền tảng cho sự phát triển của lực lượng lao động, nhất là trong bối cảnh hội nhập và
CMCN 4.0.

Thứ hai, dù trình độ học vấn của người Việt Nam không quá thấp so với các
nước khác trong khu vực song khoảng cách kỹ năng so với yêu cầu thực tế của từng
nước vẫn là vấn đề cần phải chú trọng. Xét về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực
lượng lao động kỹ năng Việt Nam dù một bộ phận lao động có thể đạt yêu cầu di
chuyển, phần lớn lao động kỹ năng Việt Nam đang thiếu và yếu về các kỹ năng
(nghề và kỹ năng mềm) cần thiết khác. Nếu không sớm khắc phục được những hạn
chế, giảm dần những “khoảng cách” về năng lực so với yêu cầu, lao động Việt Nam
sẽ khó cạnh tranh để tham gia di chuyển lao động trong AEC để tìm kiếm cơ hội
việc làm tốt hơn.
Thứ ba, giữa quyền tự do di chuyển lao động kỹ năng và thực hiện di chuyển
được là một khoảng cách không nhỏ, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan khác nhau. Để chuẩn bị cho lao động kỹ năng của Việt Nam tham gia có hiệu
quả vào di chuyển lao động kỹ năng trong AEC, hệ thống giáo dục nghề nghiệp cho
người lao động và nâng cao năng lực thực hiện đang là rào cản chính trong đáp ứng
các yêu cầu, các tiêu chuẩn di chuyển lao động kỹ năng ASEAN.
Thứ tư, lựa chọn định hướng và khung khổ phát triển cho việc triển khai di
chuyển lao động kỹ năng ở 8 nghề trong AEC chưa hoàn thiện cả ở cấp khu vực và
cấp quốc gia. Việt Nam là một trong các quốc gia cam kết mạnh mẽ với sáng kiến di
chuyển lao động nhưng năng lực quản lý di chuyển nhiều hạn chế, nhất là về triển
khai thực hiện các cam kết, theo dõi và điều chỉnh các quá trình, thủ tục cũng như
đánh giá, giám sát thực hiện các mục tiêu đề ra. Những khó khăn chung về khía cạnh
kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến triển khai tự do di chuyển lao động ở ngành nghề
trong AEC của Việt Nam và các nước, bao gồm cả sự khác biệt trong hệ thống giáo
dục-đào tạo và cấp văn bằng, chứng chỉ của các nước thành viên hay các quan điểm
và sự đánh giá, công nhận về kinh nghiệm.
16


Có thể đánh giá chung, vốn nhân lực và năng suất lao động thấp là rào cản lớn
nhất để lao động kỹ năng Việt Nam tham gia di chuyển trên thị trường lao động

ASEAN. Chính điều này làm giảm mức độ hấp dẫn của lao động kỹ năng Việt Nam
trong con mắt của nhà tuyển dụng nước ngoài, nhất là những doanh nghiệp, tập đoàn
quy mô lớn với cường độ và áp lực công việc cao. Những vấn đề nêu trên dẫn đến
hậu quả là thu nhập, vị thế và sự hài lòng của người lao động tham gia di chuyển trong
ASEAN hạn chế; và do vậy lợi ích thu được từ di chuyển lao động ASEAN của Việt
Nam về tăng trưởng, về tri thức và nâng cao trình độ công nghệ cũng như chất lượng
nguồn nhân lực còn khoảng cách khá xa so với kỳ vọng.
3.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Lực lượng lao động kỹ năng Việt Nam gặp hạn chế khi tham gia di chuyển lao
động trong AEC là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Có
thể nêu những nguyên nhân chủ quan chính sau:
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng của Việt Nam chưa tạo điều kiện chủ động lựa
chọn và tham gia di chuyển lao động kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN. Hệ thống
pháp luật Việt Nam chưa hoàn chỉnh, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu di chuyển lao
động trong AEC nói chung và ở 8 nghề lao động kỹ năng nói riêng.
Thứ hai, công tác quản lý nhà nước trong tham gia di chuyển lao động kỹ năng
của Việt Nam trọng Cộng đồng ASEAN còn nhiều hạn chế: - Việc thực hiện MRAs
ở cấp quốc gia còn chậm do cả yếu tố kỹ thuật và nguồn lực, cam kết thực hiện liên
quan.; nhận thức, hiểu biết của người lao động nói chung và lao động kỹ năng nói
riêng và của doanh nghiệp về hội nhập AEC, về các cơ hội việc làm và các thỏa
thuận MRAs và khả năng di chuyển lao động kỹ năng còn nhiều hạn chế; nhiều
doanh nghiệp, người lao động còn thờ ơ với việc di chuyển lao động theo các thỏa
thuận; chính sách an sinh xã hội cho người lao động di cư cũng cần được thúc đẩy;
thống kê lao động theo kỹ năng đi còn thiếu và yếu.
Thứ ba, hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng của
Việt Nam còn hạn chế, chưa thích ứng với hệ thống giáo dục quốc tế nói chung và
các nước ASEAN nói riêng.
Thứ tư, hệ thống cung cấp dịch vụ hỗ trợ lao động di chuyển của Việt Nam
chưa cập nhật các thông tin, yêu cầu, nội dung về di chuyển lao động của AEC và
các quốc gia thành viên để cung cấp các dịch vụ phù hợp, đáp ứng yêu cầu của lao

động kỹ năng có nhu cầu di chuyển lao động trong AEC.
Thứ năm, chưa có nhiều nỗ lực trong thúc đẩy hợp tác hiệu quả giữa Việt Nam
và các nước thành viên ASEAN về triển khai thực hiện các cam kết, chia sẻ thông
tin, kiểm định và công nhận chất lượng giáo dục và đào tạo, hỗ trợ đăng bạ và làm
các thủ tục đăng ký di chuyển để đưa các MRAs vào thực tế, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của thị trường lao động khối kinh tế khu vực và của từng quốc
gia thành viên.

17


Kết luận chƣơng 3
Chương 3 đã nghiên cứu khái quát bối cảnh kinh tế vĩ mô, thị trường lao động
và lao động kỹ năng của Việt Nam, thực trạng di chuyển lao động của Việt Nam trên
thị trường lao động quốc tế nói chung trong mối quan hệ với di chuyển của lao động
kỹ năng trên thị trường lao động ASEAN nói riêng. Chương 3 cũng đã phân tích và
NCS đã đánh giá nhu cầu lao động kỹ năng của các nước thành viên ASEAN, đánh
giá thực trạng khả năng tham gia của Việt Nam vào di chuyển lao động kỹ năng
trong Cộng đồng ASEAN và các nhân tố ảnh hưởng từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Mặc dù Việt Nam cũng như các nước thành viên ASEAN đang nỗ lực xây dựng
AEC và tham gia vào di chuyển lao động kỹ năng trong khối kinh tế khu vực nhưng
mức độ tham gia chính thức của Việt Nam được đánh giá là yếu cả về quy mô, cơ
cấu, chất lượng lao động kỹ năng, cũng như lợi ích quốc gia và của người lao động
mà di chuyển mong muốn cho đến hiệu lực, hiệu quả quản lý di chuyển.
Hạn chế của Việt Nam trong tham gia di chuyển lao động kỹ năng còn nhiều
và do một số nguyên nhân, bao gồm: mô hình tăng trưởng chưa tạo điều kiện chủ
động tham gia di chuyển và để di chuyển hiệu quả; khung khổ pháp lý chưa hoàn
thiện; năng lực tổ chức quản lý còn nhiều yếu kém; năng lực cạnh tranh và chất
lượng nguồn nhân lực và hệ thống giáo dục đào tạo hạn chế; hỗ trợ di chuyển của
Nhà nước và các tổ chức liên quan chưa tốt; sự thích nghi và tính năng động của lao

động so với nhu cầu, hạn chế trong hiệu quả hợp tác giữa Việt Nam và các nước thành
viên ASEAN và các đối tác. Đây cũng là nội dung quan trọng để NCS đề xuất quan
điểm và xây dựng các giải pháp nâng cao khả năng tham gia của Việt Nam vào di
chuyển lao động kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN ở chương sau.
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHO DI CHUYỂN LAO ĐỘNG KỸ
NĂNG CỦA VIỆT NAM TRONG ASEAN
4.1. Bối cảnh di chuyển lao động kỹ năng ASEAN trong điều kiện mới
Di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN diễn ra trong bối
cảnh đáng chú ý:
Một là, trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đứng trước cả cơ
hội và thách thức trong lĩnh vực lao động, việc làm và thị trường lao động, và thể
hiện cả những điểm mạnh và điểm yếu trong cạnh tranh khu vực và quốc tế. Việc
gia nhập hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
đặt ra thách thức với vấn đề mới và phi truyền thống như lao động. Việc gia nhập
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng gây ra cạnh
tranh gay gắt về lao động kỹ năng giữa các nước thành viên ASEAN.
Hai là, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm phát sinh một thị trường việc
làm ngày càng tách biệt thành các mảng "kỹ năng thấp/lương thấp" và "kỹ năng
cao/lương cao”. Công nghệ đã và sẽ ảnh hưởng đến cơ hội việc làm và cải thiện kỹ
18


năng của khoảng 44% dân số trong độ tuổi lao động trên toàn thế giới, làm xuất hiện
những hình thức việc làm mới như việc làm linh hoạt, dễ tiếp cận, minh bạch và trên
phạm vi rộng. Quản trị thị trường lao động trong điều kiện số hóa cần phát triển một
cách linh hoạt, đồng bộ và dài hạn để có kết quả kinh tế- xã hội tối ưu.
Ba là, di cư quốc tế và di chuyển lao động đã, đang và sẽ tiếp tục trở thành một
xu thế mạnh mẽ trên thế giới mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Điều này cho thấy di
cư quốc tế nói chung và di chuyển lao động kỹ năng trong ASEAN nói riêng sẽ có

triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới.
4.2. Dự báo các kịch bản di chuyển lao động kỹ năng ASEAN trong giai
đoạn 2018-2025
Cho đến nay, việc thực hiện những thỏa thuận này vẫn rất chậm chạp và thiếu
những chỉ dẫn rõ ràng2. Dự báo di chuyển lao động kỹ năng theo MRAs trong
ASEAN trong giai đoạn tới có thể diễn ra theo 3 kịch bản chính:
Kịch bản 1: phát triển theo chiều ngang, các thỏa thuận MRAs sẽ mở rộng cho
mọi nhóm nghề và thậm chí lao động sẽ di chuyển tự do theo cung-cầu của thị
trường
Kịch bản 2: không có nhiều thay đổi trong việc di chuyển lao động có kỹ năng
trong ASEAN về quy mô, số lượng và chất lượng việc làm. Theo đó, kịch bản sẽ là
thực hiện các MRAs đã ký với các chỉ dẫn chi tiết để triển khai MRAs.
Kịch bản 3: ASEAN sẽ hướng tới việc thúc đẩy thực hiện các MRAs đã ký với
ưu tiên cao hơn trong một số ngành nghề và đàm phán, thảo luận về việc mở rộng
thêm một số MRAs/MRSs trong các nghề có nhu cầu cao
Dù theo kịch bản nào thì MRAs vẫn luôn được xem là một công cụ hữu hiệu
đối với ASEAN và các nước thành viên trong việc xác định các ưu tiên trong các
ngành nghề, nâng cao chất lượng đào tạo. Với cam kết chính trị và kinh tế mạnh mẽ
cùng với việc hội nhập sâu rộng, Kịch bản 3 sẽ là kịch bản phù hợp nhất khi
ASEAN đang có những nỗ lực và lộ trình hướng tới thực hiện
Việc thực hiện được Kịch bản 3 đòi hỏi sự cam kết mạnh mẽ của các nước tham
gia với nguồn lực tương xứng của từng nước thành viên cũng như cần phải nhận diện
rõ các cơ hội và thách thức và có các giải pháp phù hợp để nắm bắt cơ hội và vượt qua
thách thức trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của ASEAN
4.3. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
- Cơ hội
Thứ nhất, thị trường lao động được mở rộng cho phép lao động tự do di
chuyển qua lại giữa các nước thành viên để tìm việc làm tốt hơn, gia tăng cơ hội
việc làm ở nước ngoài đối với lao động kỹ năng Việt Nam.
Thứ hai, hội nhập AEC là cơ hội lớn cho lao động trình độ cao có kỹ năng, thông

thạo ngoại ngữ tìm cơ hội việc làm tốt cho cá nhân mình.
2

ADB, Achieving skill mobility in the ASEAN economic community: Challenges, Opportunities, and policy implication,
Manila 2015.

19


Thứ ba, khung khổ hợp tác, các chính sách, hoạt động của ASEAN và các
quốc gia thành viên ngày càng hoàn thiện và cam kết thực hiện minh bạch, công
bằng, bình đẳng giữa các quốc gia thành viên, tạo cơ hội cho lao động nói chung và
lao động kỹ năng nói riêng có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các thành quả phát triển,
thu hẹp khoảng cách phát triển
Thứ tư, CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi cục diện và tương quan kinh tế và sức cạnh
tranh của lao động. Việt Nam có thành tích tốt trong học tập so với thế giới, có thế
mạnh về ICT và hoàn toàn có thể vươn lên trong lĩnh vực này nếu có chiến lược tiếp
cận phù hợp. Ngoài ra, CMCN 4.0 cũng có thể tạo cơ hội xuất khẩu lao động tại chỗ.
- Thách thức
Thứ nhất, tự do di chuyển lao động kỹ năng sẽ tạo nên môi trường hợp tác,
cạnh tranh lành mạnh nhưng cũng rất gay gắt.
Thứ hai, cạnh tranh giữa Việt Nam với các nước trong khu vực trong việc
cung cấp nguồn lao động chất lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất lượng giáo
dục-đào tạo phải được cải thiện đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của
khu vực và thế giới nhằm tăng cường khả năng công nhận văn bằng chứng chỉ giữa
Việt Nam và các nước khác.
Thứ ba, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số trong những năm tới.
Thứ tư, CMCN 4.0 với sự tham gia ngày càng nhiều của rô-bốt sẽ ảnh hưởng
trước mắt tới những ngành, những lĩnh vực thâm dụng lao động và khai thác tài
nguyên trong đó đa số là những ngành tập trung nhiều lao động phổ thông và lao

động nữ và sẽ có tác động tiêu cực đối với LLLĐ; những ngành nghề sử dụng nhiều
lao động rẻ, kỹ năng thấp sẽ mất lợi thế cạnh tranh.
Thứ năm, khả năng ngoại ngữ (tiếng Anh) và tác phong làm việc công nghiệp
của đa số lao động Việt Nam.
Thứ sáu, hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ở Việt Nam vẫn đang
trong quá trình hướng tới chuẩn khu vực và thế giới, chưa có sự tương thích về tiêu
chuẩn kỹ năng nghề nghiệp giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, làm ảnh
hưởng lớn đến khả năng di chuyển của lao động kỹ năng.
4.4. Quan điểm di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN
Một là, tham gia vào di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong Cộng
đồng ASEAN trước hết cần gắn với quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và toàn diện mô
hình tăng trưởng từ chiều rộng (chủ yếu dựa vào việc gia tăng đầu tư, khai thác lợi
thế về tài nguyên, nhân công giá rẻ) sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu với
động lực chính là việc tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, tính cạnh tranh
của các ngành kinh tế trên nền tảng tri thức và CMCN 4.0.
Hai là, cần có những chính sách hợp lý hiệu quả để ứng xử thông minh với
thực trạng “chảy máu chất xám: giảm thiểu những tổn thất do “chảy máu chất xám”
gây ra; thúc đẩy lan tỏa những lợi ích do di chuyển lao động kỹ năng mang lại.
Ba là, xác định và thực hiện một số mục tiêu cụ thể của tham gia di chuyển lao
động kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN ở cả lĩnh vực kinh tế và xã hội.
20


Bốn là, Chủ động trong việc di chuyển lao động có kỹ năng trong khối kinh tế
khu vực thông qua việc nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục và đào tạo nghề,
nâng cao sức cạnh tranh cho người lao động để họ có thể tự di chuyển.
Năm là, cần ti lt, thể tự di chuyển. ng hệ thống giáo dục và đào tạo nghề, nâng cao
sức cạnh tranh cho ngưệc gia tă lacàng tăng đòi hỏi chất lượng giáo dục-đào tạo phải
được cải thiện đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của kh
4.5. Giải pháp cho di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN

- Chủ động tham gia di chuyển lao động kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN
thông qua đổi mới mô hình tăng trưởng và hoàn thiện thể chế (Đổi mới mô hình tăng
trưởng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển kinh tế- xã hội và thị trường lao động).
- Tăng cường năng lực quản lý di chuyển: Hoàn thiện pháp luật và chính
sách về di chuyển lao đông, quy định và cách thức tổ chức thực hiện; Quản lý và bảo
vệ quyền lợi của lao động làm việc ở nước ngoài; Thu hút lao động có kỹ năng trở về
nước sau thời gian làm việc ở nước ngoài.
- Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực:
 Phát triển nguồn nhân lực và chính sách giáo dục, đào tạo;
 Đổi mới dạy và học tiếng Anh trong hệ thống giáo dục;
 Chính sách đối với các cơ sở giáo dục đào tạo;
 Thúc đẩy quan hệ đối tác giữa trường và doanh nghiệp;
 Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng nhân lực và hệ thống
chỉ tiêu đánh giá chất lượng lao động mang tính so sánh quốc tế;
 Nâng cao tính năng động, khả năng thích nghi và linh hoạt của lao động
có kỹ năng của Việt Nam.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hệ thống dịch vụ hỗ trợ: Xây dựng
và vận hành hệ thống thống kê về di cư nhằm hoàn thiện chính sách và quản lý lao
động di chuyển; Nâng cao chất lượng hệ thống dự báo, thông tin phân tích thị
trường lao động trong nước và trong ASEAN; Nâng cao năng lực của các trung tâm
dịch vụ việc làm quốc gia, vùng và địa phương nhằm thực hiện tốt chức năng cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ di cư; kết nối và chia sẻ thông tin giữa người lao động với
doanh nghiệp, cơ sở đào tạo trong nước và các doanh nghiệp ở nước ngoài ở 8 nghề
thuộc MRAs và các ngành nghề có nhiều lao động kỹ năng đi.
- Thúc đẩy và tăng cường hợp tác Việt Nam với các nước ASEAN và các
đối tác có liên quan
 Thúc đẩy tiếp cận thị trường lao động đối với các nhóm nghề/lĩnh vực
thuộc MRAs và mở rộng công nhận kỹ năng trong những ngành nghề có
nhu cầu cao.

 Đẩy mạnh việc tiếp cận các thông tin có chất lượng về thị trường lao
động và các thủ tục và kết quả công nhận.
 Thúc đẩy việc công nhận trình độ càng sớm càng tốt.
21


 Phối hợp chặt chẽ và thúc đẩy sự tham gia liên tục và có hiệu quả của
khu vực tư nhân.
 Thúc đẩy hợp tác với các đối tác cấp khu vực và quốc tế
4.6. Các giải pháp cụ thể thúc đẩy thực hiện MRAs tại Việt Nam
NCS khuyến nghị một số hoạt động cụ thể nhằm thúc đẩy thực hiện di chuyển
lao động kỹ năng theo MRAs tại Việt Nam, bao gồm:
- Hoàn thiện và công bố bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia theo 8 nhóm nghề
MRAs;
- Thành lập các Hội đồng nghề quốc gia, trước mắt tập trung theo 8 nhóm
ngành nghề MRAs;
- Thành lập và kiện toàn Hội đồng chứng nhận nghề quốc gia trước mắt tập
trung cho 8 nhóm ngành nghề MRAs;
- Thành lập Ủy ban/Văn phòng AQRF;
- Tuyên truyền phổ biến về MRAs và hệ thống bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề 8
nhóm ngành nghề;
- Đề xuất ban hành/thúc đẩy thực hiện các chính sách hỗ trợ lao động kỹ năng
di chuyển đến làm việc tại các nước ASEAN;
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, tạo
điều kiện cho di chuyển lao động kỹ năng;
- Xây dựng hệ thống chương trình, giáo trình đào tạo theo Khung trình độ quốc gia;
- Nâng cao năng lực cho các cơ sở đào tạo lao động kỹ năng theo tiêu chuẩn
quốc gia tương thích với tiêu chuẩn ASEAN và quốc tế;
- Xây dựng cơ sở dữ liệu và thiết lập mạng lưới quản lý di chuyển lao động kỹ
năng.

Kết luận Chƣơng 4
Chương 4 của đề tài luận án đã nêu rõ bối cảnh, các cơ hội và thách thức, các
kịch bản di chuyển lao động kỹ năng trong Cộng đồng ASEAN giai đoạn 20182025, xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản cho di chuyển lao
động kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN. Chương đã phân tích bối
cảnh hội nhập, tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, di chuyển lao động quốc tế
và quan điểm đổi mới mô hình tăng trưởng chủ động phát triển thị trường lao động
trong giai đoạn đến năm 2025, đặc biệt là thị trường lao động chất lượng cao và mở
rộng sự lựa chọn và tham gia di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong Cộng
đồng ASEAN.
Trong Chương này, NCS đãđề xuất 6 nhóm giải pháp cho di chuyển lao động
kỹ năng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN, tập trung vào: đổi mới mô hình
tăng trưởng và hoàn thiện thể chế chính sách; nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý
nhà nước; cải thiện chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường hiệu quả hoạt động của
hệ thống cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và các
nước thành viên và các đối tác liên quan và một số giải pháp cụ thể thúc đẩy thực
hiện MRAs tại Việt Nam. Đây là những giải pháp mang tính chiến lược và tổng thể,
22


×