Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

CƠ sở lí LUẬN về bạo lực GIA ĐÌNH, GIÁO dục PHÒNG NGỪA bạo lực GIA ĐÌNH và HUY ĐỘNG NGUỒN lực CỘNG ĐỒNG TRONG PHÒNG NGỪA bạo lực GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.02 KB, 64 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH, GIÁO
DỤC PHÒNG NGỪA BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ HUY
ĐỘNG NGUỒN LỰC CỘNG ĐỒNG TRONG
PHÒNG NGỪA BẠO LỰC GIA ĐÌNH


- Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Những nghiên cứu trên thế giới
Trong những năm 90, tác giả Michael P. Jonhson đã tiến
hành nghiên cứu và chỉ ra các tài liệu về cách đối phó với bạo
lực, ảnh hưởng đối với nạn nhân và con cái, và các ảnh hưởng
xã hội của bạo lực của bạn đời.
Vào năm 1998, các tác giả Rachel Jewke, Jonathan
Levin đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về bạo lực đối
với phụ nữ đã được thực hiện ở ba địa phương của Nam Phi.
Mục đích là để đo mức độ lạm dụng thể chất, tình dục và tình
cảm của phụ nữ, để xác định các yếu tố nguy cơ và các vấn đề
liên quan đến sức khoẻ và sử dụng dịch vụ y tế.
Năm 2004 các tác giả Kishor S; Johnson K đã thực hiện
một nghiên cứu đa quốc gia về hồ sơ bạo lực gia đình. Nghiên
cứu này sử dụng số liệu hộ gia đình và dữ liệu cá nhân từ
Chương trình Khảo sát Nhân khẩu học (DHS) để kiểm tra
mức độ và tương quan của BLGĐ và hậu quả sức khoẻ của
BLGĐ đối với phụ nữ và con cái. Số liệu thu được từ 9 quốc
gia là Campuchia (2000), Colombia (2000), Cộng hòa


Dominican (2002), Ai Cập (1995), Haiti (2000), Ấn Độ
(1998-1999), Nicaragua (1998), Peru (2000) , Và Zambia
(2001-2002) được phân tích trong khuôn khổ so sánh để cung
cấp một phân tích đa dạng về hiện tượng bạo lực gia đình. Để


đạt được điều này, chương trình DHS bắt đầu thu thập thông
tin về tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong bối
cảnh gia đình vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên, đến cuối
những năm 1990, chương trình DHS đã phát triển một mô đun
tiêu chuẩn của các câu hỏi với sự tham vấn của các chuyên
gia về đo lường bạo lực gia đình, giới tính và nghiên cứu điều
tra. Mô-đun này và việc thực hiện nó phù hợp với các khuyến
nghị của Tổ chức Y tế Thế giới về thu thập dữ liệu về bạo lực
gia đình.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 20/11/2014 công bố
nghiên cứu cho thấy những nỗ lực gần đây nhằm ngăn chặn
bạo lực gia đình chưa thực sự hiệu quả khi vẫn còn tới 1/3
phụ nữ trên toàn thế giới bị bạo hành thân thể. Cụ thể, từ 100
đến 140 triệu phụ nữ phải gánh chịu những tổn thương tâm lý
và khoảng 70 triệu trẻ em gái bị kết hôn ngoài ý muốn trước
18 tuổi. Khoảng 7% nữ giới có nguy cơ bị xâm hại tình dục.


Theo kết quả nghiên cứu, bạo lực gia tăng trong các
cuộc xung đột và khủng hoảng nhân đạo đã gây ra những hệ
quả về thể chất và tinh thần cho các nạn nhân. Ngay cả ở các
quốc gia tiên tiến vẫn có nhiều phụ nữ trở thành nạn nhân của
tình trạng phân biệt đối xử và bạo hành, cũng như không được
tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế và pháp luật.
Bà Claudia Garcia-Moreno, bác sĩ tâm lý của WHO, cho
rằng việc xác định sớm phụ nữ và trẻ em là đối tượng của nạn
bạo lực, đi đối với việc hỗ trợ và giải quyết có hiệu quả vấn
nạn này sẽ góp phần nâng cao đời sống của phụ nữ, giúp họ
tiếp cận được với các dịch vụ thiết yếu trong cuộc sống.
- Những nghiên cứu tại Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực trong gia đình bắt đầu được
quan tâm nghiên cứu từ những năm 90 của thế kỷ XX. Sau
Hội nghị quốc tế về bạo lực trên cơ sở giới tổ chức ở Bali năm
1993 và Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ 4 tổ chức tại Bắc
Kinh năm 1995,“bạo lực trong gia đình” đã được khẳng định
là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu xã hội phục vụ cho
công cuộc phát triển. Trên cơ sở định nghĩa của Liên hợp
quốc về bạo lực đối với phụ nữ, các nghiên cứu về bạo lực gia


đình của Việt Nam đã đưa ra nhiều phân loại khác nhau về các
hành vi bạo lực trong gia đình. Trong đó hầu hết các nghiên
cứu đều đề cập đến hành vi bạo lực về thể chất với các tên gọi
khác nhau như ngược đãi thân thể (Vũ Mạnh Lợi và cộng sự,
1999), hay bạo hành thể xác (Lê Phương Mai, 2000; Nguyễn
Thị Hoài Đức, 2001), hay cưỡng bức thân thể (Bùi Thu Hằng,
2001). Bên cạnh đó các tác giả này cũng đề cập đến các hành
vi bạo lực về tâm lý, tinh thần, tình cảm và tình dục. Ngoài ra,
nghiên cứu của Lê Thị Quý (2000) và Lê Ngọc Văn (2004)
phân loại bạo lực thành hai loại là bạo lực nhìn thấy được và
bạo lực không nhìn thấy được…Nhìn chung các nghiên cứu
đều đưa ra kết luận rằng gốc rễ của nạn bạo lực trên cơ sở giới
là sự bất bình đẳng và quan hệ giới.
Năm 2001, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Trung
tâm Nghiên cứu thị trường và Phát triển đã triển khai đề tài
nghiên cứu: “BLGĐ đối với phụ nữ ở Việt Nam: kết quả
nghiên cứu tại Thái Bình, Lạng Sơn và Tiền Giang”. Với
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng, đề tài đã
tìm hiểu nhận thức, thái độ của người dân và các cán bộ thi
hành pháp luật của các tổ chức đoàn thể xã hội. Kết quả

nghiên cứu chỉ ra rằng, BLGĐ chịu tác động của nhiều yếu tố


kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Mức độ phổ biến của
BLGĐ thay đổi theo đặc điểm văn hóa của dân tộc, khu vực
sống. Ở những nơi có mức sống thấp, tư tưởng trọng nam,
khinh nữ còn nặng nề thì bạo lực diễn ra phổ biến hơn.
Nghiên cứu cũng khẳng định, BLGĐ liên quan mật thiết đến
các yếu tố đặc điểm của các cặp vợ chồng và hoàn cảnh gia
đình như: trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, mức
sống… Những gia đình có trình độ học vấn thấp, kinh tế khó
khăn, nghề nghiệp không ổn định, sinh đẻ nhiều hoặc mắc các
tệ nạn xã hội thì mức độ bạo lực cao hơn so với những nhóm
gia đình khác. Và cuối cùng, kết quả nghiên cứu cung cấp
bằng chứng ban đầu về mối liên hệ giữa BLGĐ và sự thay đổi
địa vị vai trò người phụ nữ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Trong một số trường hợp, phụ nữ có địa vị xã hội và
có vai trò kinh tế cao hơn người chồng lại thường chịu bạo
lực nhiều hơn.
Năm 2003, bài viết “Bạo lực trong gia đình từ góc nhìn
của người nghèo” của nhóm tác giả Phạm Kiều Oanh và
Nguyễn Thị Khoa đăng trên tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số
2/2003 được trích ra từ một nghiên cứu về tình trạng bạo lực
trong gia đình của Tổ chức ActionAid Việt Nam, được thực


hiện tại tỉnh Lai Châu và Ninh Thuận. Mục đích chính của
nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức của nhân dân và chính
quyền địa phương về bạo lực trong gia đình và các phương án
can thiệp khả thi để giảm thiểu tình trạng này tại cộng đồng.

Cách hiểu về bạo lực của người dân cũng như cán bộ chính
quyền địa phương trong nghiên cứu này cũng nghiêng về vũ
lực, đánh đập. Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực,
nghiên cứu nhấn mạnh đến nguyên nhân kinh tế với nhận định
khó khăn về kinh tế dễ gây ra xích mích giữa hai vợ chồng.
Mặc dù không phân tích rõ sự khác nhau giữa nhận thức của
người dân và các cán bộ cấp tỉnh, huyện, xã nhưng người đọc
vẫn thấy được cán bộ có cách nhìn nhận vấn đề về BLGĐ đầy
đủ và chính xác hơn so với những người dân.
Những khía cạnh của BLGĐ cũng được thể hiện rõ nét
trên các kết quả nghiên khác như: “Bạo lực trong gia đình”
của Bùi Thu Hằng, đăng trên Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số
2/2001; “Nghiên cứu BLGĐ trên cơ sở giới ở Việt Nam” do
tác giả Nguyễn Hữu Minh và các cộng sự, năm 2005; “Bạo
lực của chồng đối với vợ ở Việt Nam trong những năm gần
đâ ” của nhóm tác giả thuộc Viện Gia đình và Giới, đăng trên
Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 3/2006; “Bạo lực giới: cái


giá phải trả quá cao” (UNFPA, 2005); “BLGĐ - nghiên cứu
và đề xuất” của tác giả Đinh Văn Quảng, đăng trên Tạp chí
Gia đình và Trẻ em, số 6/2007. Các công trình nghiên cứu này
tóm lược, so sánh kết quả nghiên cứu trước đó và đưa ra bức
tranh chung, đa màu sắc về BLGĐ, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến vấn đề nhận thức. Kết luận chung của các nghiên
cứu này cho thấy nhận thức của nhân dân, nhất là phụ nữ về
bạo lực, bình đẳng giới còn nhiều hạn chế. Những nguyên
nhân được tổng hợp từ các nghiên cứu này giống với các
nguyên nhân của nghiên cứu thực địa. Cụ thể, sự hạn chế về
trình độ học vấn, khó khăn về kinh tế, nghề nghiệp, sự gia

tăng của tệ nạn xã hội… làm cho việc giảm thiểu tình trạng
bạo lực thêm khó khăn và phức tạp.
Cuốn “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị” của Lê
Thị Quý - Đặng Vũ Cảnh Linh, NXB khoa học xã hội, Hà
Nội, 2007 tập trung nghiên cứu tình trạng bạo lực gia đình đối
với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, những nguyên nhân và hậu
quả của bạo lực gia đình và đặc biệt là công tác phòng chống
bạo lực gia đình - những bài học kinh nghiệm của Việt Nam.
Cuốn “Bình đẳng giới ở Việt Nam” của Trần Thị Vân
Anh - Nguyễn Hữu Minh (chủ biên), NXB khoa học xã hội,


Hà Nội, 2008 đã góp phần nghiên cứu về vấn đề bạo lực gia
đình ở Việt Nam dưới góc độ giới, đồng thời dành hẳn một
chương để đưa ra những quan niệm chung nhất về bạo lực gia
đình và làm rõ các yếu tố tác động đến hành vi bạo lực.
Phản ánh các kết quả của nghiên cứu định tính về lịch
sử đời sống của nam giới Việt Nam, báo cáo “Dạy vợ từ thuở
bơ vơ mới về, xu hướng, con đường hình thành lối sống bạo
lực/phi bạo lực của nam giới tại thành phố Huế và huyện Phú
Xuyên, Việt Nam” của nhóm tác giả Đào Thế Đức, Hoàng
Cầm, Lê Hà Trung và Lee Kanthoul, tháng 12/2012 đã nghiên
cứu, tìm hiểu những con đường hình thành thái độ và hành vi
bình đẳng, bất bình đẳng giới và bạo lực.

Phương pháp

nghiên cứu được điều chỉnh nhằm tìm hiểu sâu sắc hơn
nguyên nhân sâu xa của bạo lực giới trong mối liên quan với
quan hệ về nam tính. Báo cáo này cung cấp những thông tin

hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách và các cơ quan tổ
chức nhằm hoạch định chiến lược, xây dựng tầm nhìn và xác
định ưu tiên trong các chương trình phòng và chống bạo lực
trên cơ sở về giới, có thu hút và chú trọng hơn sự tham gia
của trẻ em trai, nam giới, cùng với phụ nữ và trẻ em gái vào
các hoạt động này.


Năm 2010, bài viết “Nhận thức và kinh nghiệm của đội
ngũ cán bộ tế trong điều trị, hỗ trợ các nạn nhân BLGĐ: thực
tế và vấn đề đặt ra” của tác giả Lê Ngọc Lân dựa trên kết quả
nghiên cứu của Dự án “Nâng cao chất lượng chăm sóc y tế
đối với nạn nhân của bạo lực giới tại các cơ sở y tế của Việt
Nam” được thực hiện năm 2009 tại 4 bệnh viện tại thành phố
Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, đã phân tích nhận thức về bạo
hành, kinh nghiệm hỗ trợ và điều trị bệnh nhân là nạn nhân
bạo hành của các cán bộ y tế. Nghiên cứu chỉ ra rằng các cán
bộ y tế ở các bệnh viện đã có những nhận thức khá toàn diện
về các dạng bạo lực và có những cách khác nhau trong tiếp
cận, sàng lọc bệnh nhân trong điều trị và hỗ trợ. Bên cạnh
việc chăm sóc, chữa trị về y tế cho nhóm bệnh nhân là nạn
nhân bạo hành, đã có một tỷ lệ nhất định cán bộ y tế có những
hỗ trợ về tinh thần hoặc những giúp đỡ khác. Từ thực tế đó,
cán bộ y tế ở các bệnh viện cũng đã có những yêu cầu,
khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực, điều kiện công tác và
các giải pháp hỗ trợ khác để chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt
cho các bệnh nhân là nạn nhân của bạo lực giới, ngày càng
được đảm bảo hơn.



Ngoài ra, còn rất nhiều giáo trình, luận văn, luận án hay
các tạp chí thông tin khoa học về phụ nữ có đăng các báo cáo
phân tích và đánh giá về vấn đề bình đẳng giới và bạo lực gia
đình đối với phụ nữ.
Nhìn chung, trong các công trình khoa học đã được công
bố, phần lớn đề cập đến bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình,
có rất ít nghiên cứu đề cập đến nhận thức của người dân về
BLGĐ, phòng ngừa BLGĐ và những yêu tố tác động. Mặt
khác, những nghiên cứu trên chủ yếu phân tích những nhóm
đối tượng trên phạm vi rộng lớn, những giải pháp đề ra mang
tính chất định hướng, bao quát, chưa cụ thể đi vào từng nhóm
đối tượng dân cư và địa phương cụ thể.
Như vậy, bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một biểu
hiện của bất bình đẳng giới và với tính chất là một sự sai lệch
chuẩn mực xã hội. Vì thế, nó đã thu hút được nhiều nhà khoa
học, xã hội học, phụ nữ học trên thế giới quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy ở mỗi công trình trên vẫn
còn một số vấn đề chưa được đề cập hoặc đề cập chưa sâu,
đặc biệt là việc khắc phục vấn đề bạo lực trong gia đình đối
với phụ nữ cũng như sự tham gia của cộng đồng trong phòng
ngừa BLGĐ. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào về BLGĐ của


dân tộc Thái đen ở tỉnh Sơn La nói riêng, ở Việt Nam nói
chung. Do đó, việc đi sâu và tìm hiểu về sự huy động cộng
đồng trong giáo dục, phòng ngừa BLGĐ cho người Thái đen
vẫn là một vấn đề mới, rất thiết thực và cần được quan tâm
nghiên cứu.
- Một số vấn đề lí luận cơ bản của đề tài
- Bạo lực gia đình

- Khái niệm
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng
để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ" [1]. Khái niệm này dễ làm
người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên
thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong
các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất
đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú,
được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ
nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy
được; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em…
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là
“hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe


dọa gây tổn hại… với các thành viên khác trong gia đình”
(Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói một cách
dễ hiểu hơn, đó là việc“các thành viên gia đình vận dụng sức
mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình” [2, tr. 27]. Gia đình
là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo
lực gia đình có thể coi như là hình thức thu nhỏ của bạo lực
xã hội với rất nhiều dạng thức khác nhau.
- Các hình thức bạo lực gia đình
Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã định nghĩa cụ thể
hành vi bạo lực gia đình, đó là: "hành vi cố ý của thành viên
gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể
chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia
đình". Quy định như vậy nhằm tạo cơ sở phân biệt với hành
vi bạo lực khác cũng như để xác định trách nhiệm và xử lý vi
phạm trong bạo lực gia đình. Để xác định một hành vi là
hành vi bạo lực gia đình, căn cứ vào hai điều kiện:

Thứ nhất, yếu tố "lỗi cố ý", tức là không phải bất kỳ
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong gia đình cũng được coi
là bạo lực gia đình


Thứ hai, người bị tổn hại là thành viên gia đình, đó là
những người có quan hệ do hôn nhân, huyết thống hoặc do
nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với
nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Các thành viên gia đình đã ly hôn, hôn nhân thực tế
(chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn trước ngày Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực...)
cũng áp dụng quy định của Luật này về bạo lực gia đình. Tuy
nhiên, việc áp dụng quy định của Luật đối với các trường hợp
này không nhằm mục đích khuyến khích hoặc tạo cơ sở pháp
lý cho mối quan hệ giữa những người không có đăng ký kết
hôn mà sống chung như vợ chồng mà ở đây cần hiểu, quy
định như vậy có ý nghĩa đảm bảo cho tất cả nạn nhân của
hành vi bạo lực gia đình được hỗ trợ và bảo vệ đặc biệt.
Các hành vi bạo lực gia đình gồm có 4 nhóm hành vi lớn
sau:
Nhóm 1, nhóm hành vi bạo lực về thể chất hay thể xác:
bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi
cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng.


Nhóm 2, nhóm hành vi bạo lực về tinh thần: bao gồm
các hành vi lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh
dự, nhân phẩm hay cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường
xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ngăn cản việc

thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ông, bà và cháu, giữa cha, mẹ và con, giữa vợ và chồng,
giữa anh, chị, em với nhau, hành vi trái pháp luật buộc thành
viên gia đình ra khỏi chỗ ở, cưỡng ép tảo hôn, cưỡng ép kết
hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Nhóm 3, nhóm hành vi bạo lực về kinh tế: bao gồm
chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm
hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc
tài sản chung của các thành viên gia đình hay cưỡng ép thành
viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ hoặc là kiểm soát thu nhập của thành viên gia
đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính.
Nhóm 4, nhóm hành vi bạo lực về tình dục: gồm có hành
vi cưỡng ép quan hệ tình dục.


Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều
hành vi khác nhau. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã
quy định các hành vi bạo lực bao gồm:
Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác
xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự,
nhân phẩm;
Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm
lý gây hậu quả nghiêm trọng;
Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ
gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ
và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
Cưỡng ép quan hệ tình dục;
Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở

hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý
làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình
hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng
góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của
thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài
chính;
Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra
khỏi chỗ ở.


Cũng có quan niệm khác chia BLGĐ thành 2 dạng chủ
yếu: “bạo lực nhìn thấy được” và “bạo lực không nhìn thấy
được”. Hai dạng bạo lực này ở nơi này được thể hiện trong
mối quan hệ khăng khít, ở nơi khác lại được thể hiện trong
sự độc lập, tách biệt lẫn nhau. Điều này phụ thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể của từng gia đình, vào nhận thức và hành động
của các thành viên trong gia đình.
Thứ nhất: bạo lực nhìn thấy được
Vấn đề bạo lực và các hành vi bạo lực trong gia đình là
một vấn đề phức tạp, thể hiện ở nhiều góc độ. Trong thực tế,
các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở các hành vi bạo lực nhìn
thấy được mà ít có những phân tích sâu đối với những hành vi
bạo lực không nhìn thấy được trong gia đình.
Bạo lực nhìn thấy được đó là bạo lực về thân thể, tình
dục với các hành vi đánh đập, hành hạ đến thương tích phải
tìm đến cái chết; hay bị hành hạ chửi rủa hắt hủi khi không
sinh được con trai; người chồng đòi lấy vợ hai hoặc người
chồng khinh bỉ coi vợ như người ở…Ta có thể nhận thấy đây

là một dạng bạo lực rất nguy hiểm. Nó làm cho người phụ nữ


bị tổn thương, đau đớn hoặc đôi khi mất đi cả tính mạng của
mình.
Thứ hai: bạo lực không nhìn thấy được
Bạo lực không nhìn thấy được là những hành vi xúc
phạm tâm lý, tình cảm, tinh thần…; nhìn bề ngoài khó phát
hiện nhưng lại làm cho phụ nữ đau khổ về mặt tinh thần, tâm
lý. Dạng bạo lực này xuất phát từ sự phân công lao động bất
hợp lý giữa nam và nữ trong gia đình. Hiện nay ở nhiều
nước, đặc biệt là các nước phương Đông vẫn còn tồn tại quan
điểm cho rằng: Phục vụ vô điều kiện cho chồng con nói riêng
và nam giới nói chung là“chức năng” là“thiên hướng”, là sự
“hy sinh” nhường nhịn của người phụ nữ trong gia đình.
- Nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình
* Nguyên nhân của bạo lực gia đình
Phong tục, tập quán:
Việt Nam là một nước Á Đông với tư tưởng gia trưởng
còn nặng nề, điều này có ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề bạo lực
gia đình ở nước ta hiện nay. Tính gia trưởng được chấp nhận
trong gia đình và ngoài xã hội đã tạo ra một vị trí đặc biệt cho


những người đàn ông trong gia đình: họ có "quyền" quyết
định những vấn đề quan trọng, quyết định thái độ ứng xử với
các thành viên khác, họ có quyền “dạy dỗ” vợ con theo ý
mình... Thậm chí, có người coi việc sử dụng bạo lực là ứng xử
cần thiết để đảm bảo hạnh phúc gia đình. Đi cùng với đó là tư
tưởng “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, " vợ chồng đóng cửa bảo

nhau" nên những việc trong gia đình thì những người khác
thường không muốn can thiệp vào. Đây là những yếu tố gây
ra khó khăn rất lớn trong công tác phòng, chống bạo lực gia
đình hiện nay.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những truyền thống
tốt đẹp như: kính già yêu trẻ, con cái phải hiếu thảo với cha
mẹ hay những triết lý Nho giáo tiến bộ “phu thê cung kính
như khách” đã và đang có những tác động tích cực tới việc
bảo vệ những thành viên yếu thế trong các gia đình: người già
được kính trọng, trẻ con được yêu thương, vợ chồng tôn trọng
lẫn nhau… Những tư tưởng này nếu được phát huy và áp
dụng phù hợp với xã hội hiện nay thì sẽ góp phần quan trọng,
tích cực trong phòng, chống bạo lực trong các gia đình Việt
Nam
Tâm lý:


Khái niệm tâm lý được đề cập ở đây không phải là tâm
lý xã hội nói chung mà là tâm lý của từng thành viên trong gia
đình với tư cách là cha, mẹ, con, anh, chị, em…với nhau và
với vấn đề bạo lực gia đình.
Tâm lý của mỗi cặp vợ chồng nói chung vẫn là: “Phu
xướng phụ tùy”, đề cao vai trò tự chủ của đàn ông trong gia
đình. Điều này có lúc đã làm mất đi quyền tự vệ của người vợ
trước những hành vi bạo lực của chồng mình. Điều này đã ăn
sâu vào suy nghĩ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam: vợ
đánh chồng luôn bị coi là hành vi xấu, bị cả xã hội lên án; còn
người chồng đánh vợ thì mặc nhiên được gọi là “biết dạy vợ”;
hành vi “đòi hỏi” của người chồng luôn được coi là chính
đáng và người vợ có nghĩa vụ phải phục tùng theo… Hơn thế

nữa, với người đàn ông, việc sử dụng sức mạnh thể chất để
khẳng định mình dường như đã là một thói quen, một điều
không thể thiếu; và thực sự khả năng kiềm chế của họ cũng
không bằng phụ nữ nên rất dễ “động chân động tay” khi phải
giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình. Tuy nhiên, cũng cần
phải nhìn nhận rằng: trong suy nghĩ của một số phụ nữ, việc
đay nghiến, chì chiết chồng là hoàn toàn bình thường, mà


không hề nghĩ đó là hành vi bạo lực, gây ra những tổn thương
về tinh thần cho người chồng.
Cha mẹ luôn dành những tình cảm yêu thương, trân
trọng cho con cái mình. Song quan niệm về giáo dục của phần
đông người Việt vẫn là “ yêu cho roi cho vọt”. Chính vì vậy,
việc cha mẹ đánh đập, mắng mỏ con cái được coi là bình
thường, thậm chí là cần thiết và không thể thiếu để dạy con
thành người. Những đứa con trong gia đình phải chấp nhận sự
giáo dục này, và cuối cùng cũng cảm thấy đó là bình thường
để chịu đựng. Bên cạnh đó, nhiều bậc cha mẹ vẫn có suy nghĩ
con cái là “của mình”, nên mình có quyền đối xử tùy ý, người
khác không được can thiệp vào.
Với các thành viên khác trong gia đình, tâm lý “kính già
yêu trẻ”, “kính trên nhường dưới” vẫn được đề cao. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hóa, sự áp đặt của
những thành viên lớn tuổi với các thành viên nhỏ hơn trong
gia đình là khá phổ biến và thường xuyên vì quan niệm “khôn
không đến trẻ, khỏe không đến già”. Trong xã hội hiện nay,
điều này thường làm phát sinh tư tưởng chống đối ở giới trẻ
khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên căng thẳng, dễ
làm phát sinh bạo lực gia đình.



Điều kiện kinh tế xã hội:
Điều kiện kinh tế xã hội luôn là yếu tố tác động mạnh tới
các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội. Kinh tế khó
khăn thường gây nên sự căng thẳng, tranh chấp trong gia
đình, là nhân tố dẫn tới các hành vi bạo lực về thể chất, tinh
thần không đáng có. Việc thiếu thốn về vật chất cũng làm cho
các thành viên trong gia đình không có điều kiện giao lưu, học
tập, tiếp cận những tri thức tiến bộ cũng như không được định
hướng về cách ứng xử trong gia đình, khiến tình trạng bạo lực
càng dễ có nguy cơ xảy ra. Tuy nhiên, ở rất nhiều gia đình, dù
điều kiện vật chất đầy đủ nhưng vẫn có hiện tượng bạo lực gia
đình. Điều này có thể được lý giải như sau: khi kinh tế phát
triển, các thành viên trong gia đình có xu hướng thỏa mãn các
lợi ích cá nhân mà thiếu đi sự quan tâm chăm sóc tới nhau;
hoặc vì quá ham mê các lợi ích kinh tế mà phát sinh tranh
chấp giữa những người thân trong gia đình. Ở những gia đình
này, bạo lực về tinh thần có xu hướng phát triển hơn bạo lực
về thể chất, kinh tế hay tình dục bởi vì những nhu cầu này đều
có thể được đáp ứng phần nào bằng tiền bạc.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hóa
bên ngoài, xu hướng bạo lực có chiều hướng gia tăng trong xã


hội Việt Nam: mọi người đều dễ dàng tìm đến việc sử dụng
bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Ngoài ra, sự suy
giảm các giá trị truyền thống cũng làm gia tăng những hành vi
bạo lực gia đình vốn hiếm gặp trước đây: Vợ đánh chồng, con
cái đánh đập, mắng chửi bố mẹ, bạo lực tình dục trong gia

đình, đặc biệt là với trẻ em…
Định kiến giới:
Quan niệm trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức
của người Việt Nam từ hàng ngàn năm nay và thực sự đã và
đang cướp đi nhiều quyền lợi chính đáng của người phụ nữ.
Người vợ, người mẹ thường không có được sự tôn trọng xứng
đáng trong gia đình, không được hưởng những quyền lợi về
vật chất, về tinh thần và thường xuyên phải chịu những tổn
thương: bị đánh đập, bị xúc phạm danh dự, bị cưỡng ép tình
dục… Ngay cả với trẻ em, quan niệm “con gái là con người ta”
cũng khiến nhiều bé gái bị thiệt thòi hơn so với bé trai. Sự bất
bình đẳng về giới này được cả xã hội chấp nhận, thậm chí cả
chính những người phụ nữ cũng coi đó là bình thường. Điều
này cũng là nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn tới nạn bạo hành
với người phụ nữ trong gia đình.


Trình độ dân trí:
Khi được tiếp xúc với những tri thức tiến bộ, được hiểu
biết về vai trò của gia đình, quyền và nghĩa vụ của các thành
viên trong gia đình cũng như những quy định của pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình thì hành vi vi phạm trong lĩnh
vực này sẽ giảm xuống. Như đã phân tích ở trên, những yếu tố
như tâm lý, phong tục tập quán, quan điểm giới… đã làm cho
những người có hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân và những
người xung quanh, thậm chí cả những cơ quan có thẩm quyền
cho rằng hành vi đó là đúng, là được phép và không phải chịu
bất cứ trách nhiệm nào. Chính vì vậy mà tình trạng bạo lực
gia đình vẫn phổ biến và không được ngăn chặn một cách
hiệu quả. Nhưng nếu trình độ dân trí được nâng cao, vị trí của

gia đình và mỗi thành viên gia đình được khẳng định, kiến
thức pháp luật được cung cấp đầy đủ thì những hành vi bạo
lực sẽ khó có cơ hội phát triển: nạn nhân hiểu rõ quyền của
mình và có thể áp dụng những biện pháp tự bảo vệ cần thiết;
người có hành vi bạo lực biết tính chất sai trái của hành vi và
những hậu quả có thể phải gánh chịu, do đó sẽ phải cân nhắc
kỹ càng; những người xung quanh, những cơ quan có thẩm
quyền khi biết được nghĩa vụ và quyền lợi của mình sẽ tham


gia phòng, chống bạo lực gia đình một cách tích cực, chủ
động hơn.
* Hậu quả của bạo lực gia đình đối với gia đình và xã
hội
Tình hình bạo lực gia đình đang xảy ra khá phổ biến tại
khắp các vùng miền trên cả nước. Hành vi bạo lực dưới nhiều
dạng thức khác nhau đều để lại những hậu quả nặng nề về thể
chất, sức khỏe, tinh thần, kinh tế… đối với nạn nhân. Đặc
biệt, với trẻ em thì những hành vi này sẽ để lại dấu ấn sâu sắc
trong tâm hồn trẻ, chi phối đến sự hình thành nhân cách sau
này. Những trẻ em là nạn nhân trực tiếp của bạo lực gia đình
phải gánh chịu nỗi đau về thể xác, tinh thần lớn lao, rất dễ có
những phản ứng tiêu cực. Còn với những em phải chứng kiến
nạn bạo lực giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là bạo
lực giữa bố mẹ chúng thì thậm chí còn bị ảnh hưởng nặng nề
hơn, có thể gây nên những chấn thương tâm thần. đôi khi kéo
dài suốt cả cuộc đời. Những đứa trẻ này thường lo lắng, bất
an, khó hòa nhập cuộc sống, từ đó nảy sinh tư tưởng chán đời,
học hành sa sút, dễ mắc các bệnh trầm cảm… Nguy hiểm
hơn, đây chính là mảnh đất để ươm mầm những hành vi bạo

lực gia đình trong tương lai, khi mà những đứa trẻ trưởng


×