Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tuấn anh bài tiểu luận tình huống QLNN chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.21 KB, 19 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH HÒA BÌNH
LỚP: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NGẠCH CHUYÊN VIÊN KHÓA I - 2018

–––––––––––––––––––––––––––––

TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG
Quản lý hành chính Nhà nước đối với cán bộ, công chức
khi vi phạm nguyên tắc quản lý và kỷ luật làm việc.

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Hoàng Thị Năm – Khoa nhà nước pháp luật
Học viên thực hiện: Đinh Đức Tuấn Anh
Năm sinh: 06/02/1988
Lớp: Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên khóa I – Năm 2018
Đơn vị công tác: Văn phòng HĐND & UBND huyện Cao Phong.

Cao Phong, ngày 17 tháng 7 năm 2018


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

1

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………..…3

2

I. Nội dung tình huống…………………………………………………………………4


3

1. Hoàn cảnh ra đời, diễn biến thực trạng của tình huống…………...…4

4

2. Nguyên nhân và hậu quả…………………………………………………..….……4

5

3.Mục tiêu xử lý tình huống……………………………………………………….…6

6

II. Phân tích và xử lý tình huống………………………………………………….7

7

1.Cơ sở lý luận để giải quyết tình huống……………………………………….7

8

2. Lựa chọn phương án tối ưu……………………………………………………...10

9

III. Tổ chức thực hiện phương án tối ưu……………………….………....13

10


Kết luận và kiến nghị ……………………………………………………..…….……15

11

Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………..17

2


3


PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khai sinh ra Nhà nước dân chủ nhân dân,
Nhà nước công - đầu tiên ở Đông Nam Á, Người thầy vĩ đại về công tác tổ chức,
cán bộ của chúng ta đặc biệt chú trọng đến công tác tổ chức, cán bộ. Ngay sau
cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 27/8/1945
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ công hoà được thành lập với 12 Bộ.
Đây có thể coi là một sự kiện bước ngoặt trong lịch sử tổ chức Nhà nước của
nhân loại.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ. Người đã khẳng định:“Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém”, (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
năm 2002, tập 5, trang 269 và 273). Và Người đã đưa ra khái niệm cán bộ là gì?
theo Người, “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù có tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là
những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân
dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”, (Sđd,

tập 5, trang 54-55).
Đến những năm đầu tiên thực hiện công cuộc cải cách, mở cửa, Đảng và
Nhà nước ta đã đánh giá cao vai trò của cán bộ, công chức trong công cuộc phát
triển- kinh tế- xã hội. “ Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã
hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và
công tác cán bộ… đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, chúng ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nhiều cán bộ, công chức đã nêu cao tinh thần trách nhiệm làm
việc, là những điển hình mẫu mực trong công việc, bên cạnh đó vẫn còn một bộ
phận cán bộ, công chức dù do những nguyên nhân khách quan hay chủ quan đã
có những hành vi vi phạm nguyên tắc quản lý và kỷ luật làm việc hoặc vi phạm
pháp luật, làm thiệt hại tới lợi ích tài sản của Nhà nước, của công dân. Xử lý
những hành vi trên không chỉ đứng trên góc độ pháp luật mà còn phải tính đến
yếu tố tình cảm, ngoài nghĩa răn đe, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức,
còn tạo điều kiện cho người vi phạm có cơ hội sửa chữa sai lầm. Trong phạm vi
rất ngắn của Tiểu luận, chúng ta cùng đi sâu vào phân tích “ Quản lý hành
chính Nhà nước đối với cán bộ, công chức khi vi phạm nguyên tắc quản lý và
kỷ luật làm việc”.

4


PHẦN II
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1-Hoàn cảnh ra đời, diễn biến và thực trạng của tình huống.
Ông Nguyễn Văn T là một thương binh hạng ¾ chuyển ngành về công tác
tại phòng B, cơ quan trong bộ máy hành chính Nhà nước trực thuộc Huyện uỷ
huyện C, ông vừa làm việc và vừa học lớp đại học tại chức. Sau thời gian phấn
đấu lấy bằng cử nhân tại chức về quản lý kinh tế và chuyển lên ngạch chuyên

viên, tháng 5/2003, do yêu cầu đòi hỏi về hoàn chỉnh cơ cấu bộ máy tổ chức của
cơ quan, ông T người được cấp trên đánh giá là một cán bộ đủ tiêu chuẩn mặc
dù năng lực còn nhiều hạn chế, đã được đề bạt là Phó trưởng phòng. Trách
nhiệm chính của ông T là theo dõi tình hình xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất
của cơ quan.
Năm 2007, trong nội bộ cơ quan xuất hiện một số dư luận không tốt về
phương thức làm việc của ông T, đồng thời kế toán cơ quan báo cáo về tình
trạng tạm ứng chậm thanh toán, lãnh đạo cơ quan và bộ phận phụ trách đã nhắc
nhở trực tiếp ông T trong các cuộc họp. Nhưng dường như những nhắc nhở trên
không có hiệu quả. Đầu năm 2008, Ủy ban kiểm tra huyện nhận được hai lá đơn
tố cáo sự không minh bạch về công tác tài chính trong quyết toán lắp đặt hệ
thống về điện, nước cơ quan do ông T chịu trách nhiệm thực hiện. Huyện ủy
huyện C ra quyết định đình chỉ công tác của ông T và thành lập Đoàn thanh tra
có sự tham gia của đại diện Đảng ủy, Công đoàn cơ quan để làm sáng tỏ vụ việc,
Sau hai tháng làm việc căng thẳng, tháng 4/2008, Uỷ ban kiểm tra huyện kết
luận ông T đã vi phạm chế độ chi tiêu tài chính của Nhà nước trong quyết toán
công việc lắp đặt hệ thống về điện, nước dự án nâng cấp trụ sở cơ quan B như đã
khai tăng giá trị vật liệu, các thiết bị lắp đặt ghi trong hoá đơn không còn phù
hợp với quy định về chủng loại của Nhà nước…. tổng cộng thiệt hại là 100 triệu
đồng. Đồng thời, trong thời gian 5 năm kể từ năm 2003, ông T đã tạm ứng của
cơ quan tổng cộng 35 triệu đồng mà vẫn chưa có chứng từ thanh toán.
Khi Ủy ban kiểm tra huyện ủy công bố kết luận, ông T đã không những
thừa nhận khuyết điểm mà còn tạo dư luận chống đối và tự ý nghỉ việc 20 ngày
mà không nêu lý do. Phòng B và Huyện uỷ huyện C đã tổ chức họp hai lần
nhưng cả hai lần ông T đều vắng mặt vì cho rằng kết luận của Ủy ban kiểm tra
huyện là chưa hợp tình, hợp lý vì hành vi, vi phạm trên có trách nhiệm liên đới
của một số người khác. Vì vậy, trong thời gian tới Huyện uỷ huyện C nên tiến
hành xử phạt hành vi vi phạm của ông T như thế nào để đảm bảo được tính
nghiêm minh của pháp luật, giữ gìn kỷ cương của cơ quan và thoả đáng cho ông
T.

2. Nguyên nhân và hậu quả:
Hành vi vi phạm các nguyên tắc quản lý hành chính tại Phòng B, ông T do
nhiều nguyên nhân nhưng có thể tập trung vào một số nguyên nhân cơ bản sau:

5


Thứ nhất, bổ nhiệm cán bộ, công chức chỉ chú ý tới yếu tố cơ cấu, không
đánh giá cao về năng lực, trình độ của người được bổ nhiệm.
Vị trí Phó trưởng phòng là một chức vụ đòi hỏi những người có năng lực,
trung thực, hiểu biết công việc chuyên môn, công tác quản lý và sử dụng tài sản
công của Nhà nước. Tại thời điểm tháng 5/2003, vị trí Phó trưởng phòng cần có
người thay thế vì người tiền nhiệm đã nghỉ hưu, tuy biết ông T có sự nhiệt tình
trong công tác nhưng năng lực còn hạn chế, lãnh đạo huyện C vẫn quyết định bổ
nhiệm ông T là bộ đội xuất ngũ, lại là một thương binh nên cũng coi việc bổ
nhiệm trên là hợp tình, hợp lý, bù đắp những thiệt thòi ông T đã gặp phải khi
tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, không kiên quyết trong xử lý vi phạm của cán bộ, công chức.
Khi có dư luận về những sai sót trong quản lý của ông T, lãnh đạo cơ quan
B và Huyện ủy huyện C chỉ nhắc nhở mà không có các biện pháp kiểm tra,
phòng ngừa. Chính sự chủ quan trên đã khiến cho ông T tiếp tục có những vi
phạm nghiêm trọng hơn dẫn tới hành vi vi phạm các nguyên tắc tài chính khi
làm nhiệm vụ. Sai phạm của ông T cũng có một phần trách nhiệm thuộc về lãnh
đạo phòng B và Huyện ủy huyện C.
Thứ ba, năng lực cá nhân của cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế.
Bản thân là bộ đội chuyển ngành và thương binh hạng ¾ nên ông T đã tự
coi mình xứng đáng được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với những người khác.
Mặc dù đã được qua đào tạo về quản lý kinh tế nhưng dường như những nguyên
tắc trong quân đội vẫn là phương pháp điều hành công việc của ông T. Năng lực
hạn chế, song lại được giao một trọng trách quá khả năng và không có ý thức

học hỏi để phấn đấu nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, ông T đã có những hành
vi làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Tuy nhiên, hành vi vi phạm các nguyên
tắc quản lý của ông T xảy ra còn do sự đồng tình, giúp đỡ của một số người có
trình độ nhưng trây lười trong công tác, muốn lợi dụng sự thiếu năng lực của
ông T để mưu lợi cho bản thân.
Thứ tư, Ý thức kỷ luật cán bộ công chức còn nhiều hạn chế.
Trong quá trình làm việc, vì ông T là thương binh nên chế độ nghỉ phép còn
nhiều ưu đãi. Do không nhất trí với kết luận của Uỷ ban kiểm tra huyện về hành
vi vi phạm đã khiến cho ông T tự động nghỉ 20 ngày mà không có lý do. Ông T
đã không tuân thủ theo những nguyên tắc tối thiểu của một cán bộ, công chức
làm việc trong cơ quan hành chính Nhà nước. Ông T lại là một cán bộ được bổ
nhiệm vào chức vụ quản lý trong cơ quan, là đối tượng để nhiều người học tập,
noi gương.
Thứ năm, nội bộ trong cơ quan chưa thống nhất ý kiến trong giải quyết một
số vấn đề cụ thể:
Tuy hành vi vi phạm của ông T là sai trái nhưng dư luận tại cơ quan cũng
có nhiều luồng ý kiến trái ngược nhau. Sau khi có kết luận của Uỷ ban kiểm tra
huyện, một số người trong cơ quan đã không đồng tình và cho rằng những kết
6


luận trên là chưa thoả đáng đối với ông T. Một bộ phận khác thì coi đó như là
hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, thậm chí phạm pháp . Nhưng thực chất
trong nội bộ cơ quan còn tồn tại nhiều bộ phận mâu thuẫn, đối lập nhau, hành vi
vi phạm của ông T chính là nguyên nhân để các mâu thuẫn bùng phát.
Năm nguyên nhân dù thuộc về sự yếu kém của cá nhân hay tổ chức, sự mất
đoàn kết trong nội bộ cơ quan đã và đang để lại hậu quả xấu trong tổ chức và
hoạt động quản lý Nhà nước của cơ quan B và Huyện ủy huyện C.
Việc bổ nhiệm ông T cho dù đáp ứng được yêu cầu về cơ cấu tổ chức, về
chế độ đãi ngộ đối với những người có công nhưng ông T lại không đủ năng lực

điều hành công việc được giao. Mặt khác, khi ông T đã có những biểu hiện vi
phạm nguyên tắc quản lý, cơ quan B và Huyện ủy huyện C chỉ nhắc nhở mà xử
lý chưa nghiêm để làm gương cho cán bộ, công chức. Chính điều này đã gây
tâm lý ngại phấn đấu, ỷ lại trong một số người, cổ vũ cho tâm lý “ Sống lâu lên
lão lãng”. Những người thực sự có năng lực sẽ không có cơ hội để thể hiện khả
năng của mình, sau một thời gian họ sẽ trở thành những phần tử chống đối hoặc
tự động thuyên chuyển công tác khác. Ngoài ra, những dư luận khác nhau về
việc xử lý hành vi vi phạm của ông T sẽ càng làm tăng sự mất đoàn kết trong
nội bộ cơ quan.
Ông T tuy là người trực tiếp vi phạm nhưng ngoài ra còn có sự giúp đỡ của
một số cán bộ, công chức khác. Kết luận của Uỷ ban kiểm tra huyện chưa đề cập
vấn đề trên, cơ quan B và Huyện uỷ huyện C cần mở rộng phạm vi thanh tra để
thu thập chứng cứ, xác định trách nhiệm liên đới của cán bộ, công chức phòng
B. Phải chăng đằng sau vụ việc trên còn có sự bao che, thao túng của một số cá
nhân khác, dư luận rất mong muốn lãnh đạo huyện làm sáng tỏ trách nhiệm của
những cán bộ, công chức có liên quan.
3-Mục tiêu xử lý tình huống:
Xuất phát từ các nguyên nhân và hậu quả do hành vi vi phạm nguyên tắc
quản lý hành chính mà ông T gây ra, lãnh đạo Huyện uỷ huyện C cần phải xác
định các mục tiêu cơ bản khi giải quyết vụ việc đã nêu:
-Đảm bảo xử lý nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật, quy
định làm việc của cơ quan.
-Xử lý đúng người, đúng tội, xác định rõ ràng và cụ thể trách nhiệm về vật
chất và hành chính đối với ông T và những người có liên quan (với phạm vi
ngắn, bài viết chỉ đi sâu vào trường hợp cụ thể của ông T)
-Xây dựng lại được tinh thần đoàn kết nội bộ trong cơ quan thông qua các
quyết định quản lý hành chính mang tính thuyết phục.
-Ngoài ra, còn phải tính đến yếu tố sức khoẻ, tâm lý, hoàn cảnh gia đình và
quá trình cống hiến của ông T cho cách mạng, cơ quan.
Mục tiêu cao nhất là giải quyết vụ việc thấu tình đạt lý, mang lại niềm tin

cho cán bộ, công chức trong cơ quan, đồng thời là cơ sở để tham khảo áp dụng
cho các tình huống tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
7


II. PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1-Cơ sở lý luận để giải quyết tình huống:
Trong văn bản pháp luật về nghĩa vụ của công chức, nhiều nước trên thế
giới đều thống nhất quy định công chức phải thực hiện một số nghĩa vụ cơ bản
như tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Bảo vệ bí mật và lợi ích quốc gia, phục vụ
lợi ích nhân dân, làm việc đúng chức trách và bổn phận, tuân thủ cấp trên… Ở
nước ta, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới ra đời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận mạnh yêu cầu về nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong bộ
máy Nhà nước, một quan điểm quan trong mà Người đã nhiều lần khẳng định:
“Cán bộ và nhân viên từ cấp trên đến cấp dưới đều là đầy tớ của nhân dân, đều
phải một lòng, một dạ phục vụ nhân dân”.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực đủ trình độ đảm
nhiệm công việc được giao, làm trong sạch một bước bộ máy hành chính là một
trong những ba nội dung cơ bản của cải cách nền hành chính Nhà nước đã nêu
trong Nghị quyết Trung ương VIII. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới hành vi vi
phạm nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước đối với toàn bộ cán bộ, công
chức trong bộ máy hành chính Nhà nước nói chung và trong từng ngành, từng
lĩnh vực nói riêng.
Căn cứ Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 01/1998/PLUBTVQH ngày 26/02/1998 về cán bộ, công chức; Luật cán bộ, công chức của
Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm
2018.1 ( Lưu ý tham khảo Luật cán bộ, công chức vì thời điểm tiến hành kỷ luật
ông T là tháng 4/2008, thời điểm này Luật cán bộ, công chức chưa có hiệu lực.
Vì vậy căn cứ tình huống này chủ yếu giải quyết bằng văn bản luật định có hiệu
lực tại thời điểm tiến hành kỷ luật ông T. Nhưng với tâm thế của người viết

muốn bạn đọc có thể áp dụng Luật cán bộ, công chức để giải quyết trong công
việc hiện tại của bạn đang đảm nhận, nếu có tình huống QLNN xẩy ra).
Ông T là công chức của cơ quan B, cơ quan thuộc bộ máy hành chính Nhà
nước, do đó ông T là đối tượng điều chỉnh của Luật cán bộ, công chức. Ông T có
những biểu hiện tiêu cực làm thất thoát tiền vốn của cơ quan, tuy không tới mức
1

Điều 4. Cán bộ, công chức

1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, ch ức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ l ương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã
là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.

8


truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng ông T cũng phải chịu một trong những hình
thức kỷ luật quy định tại điều 79 của Luật cán bộ, công chức2:
Căn cứ Nghị định 118/2006/NĐ-CP ngày 10/10/2006 của Chính phủ về xử

lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức. “Cán bộ, công chức làm mất
mát, hư hỏng trang thiết bị hoặc có hành vi gây thiệt hại tài sản của Nhà nước thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Ngoài việc bồi hoàn thất thoát tiền vốn của Nhà nước cũng được quy định
tại điều 23, chương III, Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của
Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức “1. Việc
xem xét, quyết định bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi, tính chất hành vi
gây thiệt hai, mức độ thiệt hại tài sản thực tế và cần xét đến thực trạng hoàn
cảnh gia đình, nhân thân của công chức gây thiệt hại”.
Ông T trong thời gian 5 năm giữ trọng trách là Phó trưởng phòng B, tạm
ứng 35 triệu đồng mà không thanh toán tạm ứng theo nguyên tắc tài chính, mặt
khác lại vi phạm về các nguyên tắc tài chính trong quyết toán, dự toán nâng cấp
trụ sở cơ quan B, dẫn tới thiệt hại cho Nhà nước lên tới 100 triệu đồng. Điều 4,
chương I, Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 02/1998/PL-UBTVQH
ngày 26/02/1998 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí quy định:
“Cán bộ, công chức gây lãng phí vốn và tài sản Nhà nước thì tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm mà phải chịu trách nhiệm vật chất, bị xử lý kỷ luật hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật”.
Vì không đồng ý với kết luận của Uỷ ban kiểm tra huyện, ông T đã tự ý bỏ
việc trong thời gian 20 ngày mà không có lý do, xét trên khía cạnh đạo đức thì
đây là hành vi thiếu ý thức tổ chức kỷ luật. Nhưng theo quy định tại mục 5 ,
điểm a, phần II của Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Bộ
trưởng, Trưởng ban tổ chức Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị định số
97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách
2

Điều 79. Các hình thức kỷ luật đối với công chức

1. Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm

phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây:
a) Khiển trách;
b) Cảnh cáo;
c) Hạ bậc lương;
d) Giáng chức;
đ) Cách chức;
e) Buộc thôi việc.
2. Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
3. Công chức bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật; công chức lãnh đạo, quản lý phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bổ
nhiệm.
4. Chính phủ quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với công chức.

9


nhiệm vật chất đối với công chức đây là hành vi tự ý bỏ việc và có thể bị xem
xét kỷ luật buộc thôi việc.
“Ngoài những trường hợp có thể bị buộc thôi việc quy định tại điểm 7 điều
12 của Nghị định số 97/1998/NĐ-CP thì Hội đồng kỷ luật xem xét kiến nghị
buộc thôi việc đối với công chức tự ý bỏ việc 7 ngày trong 1 tháng hoặc 20 ngày
trong 1 năm (cộng dồn) mà không có lý do chính đáng”.
Như vậy, hành vi vi phạm các nguyên tắc quản lý hành chính của ông T
thuộc phạm vi điều chỉnh và xem xét của các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Nghị định 118/2006/NĐ-CP ngày 10/10/2006 của Chính phủ về xử lý
trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức.
- Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ
về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.
- Thông tư của Bộ Nội vụ số 03/2006/TT-BNV ngày 08 tháng 02 năm 2006
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17

tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.
-Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 01/1998/PL-UBTVQH
ngày 26/02/1998 về cán bộ, công chức;
-Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 021998/PL-UBTVQH ngày
26/02/1998 về thực hành tiết kiệm , chống lãng phí;
-Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ
luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức;
Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Bộ trưởng, Trưởng ban
Tổ chức Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày
17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công
chức.
Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá hành vi vi phạm của ông T, lãnh đạo cơ
quan B và Huyện uỷ huyện C, ngoài việc dựa trên các căn cứ pháp luật nên chú
ý tới yếu tố tình cảm. Ông T là quân nhân chuyển ngành, thương hinh hạng ¾ ,
trong quá trình 22 năm công tác cho đến khi được đề bạt nhiều năm liền là chiến
sỹ thi đua. Hành vi vi phạm của ông T còn có sự tiếp tay của một số cán bộ
khác, những cán bộ, công chức này cũng cần nhận được các biện pháp xử lý
thích đáng.
Lãnh đạo cơ quan B và Huyện uỷ huyện C cần thành lập Hội đồng kỷ luật
theo quy định của pháp luật, căn cứ trên cơ sở lý và tình để giải quyết vụ việc đã
nêu ra. Ra quyết định kỷ luật xác đáng đối với ông T cũng chính là thiết lập lại
kỷ cương làm việc, tạo niềm tin cho đại đa số cán bộ, công chức khác. Quyết
định kỷ luật phải thể hiện tính nghiêm minh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
đồng thời thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc, luôn
tôn trọng và biết ơn những người có công với sự nghiệp giải phóng đất nước.

10


2-Lựa chọn phương án tối ưu:

Xuất phát từ những dư luận và sự phản đối của ông T, Ủy ban kiểm tra
huyện cần tiến hành xác minh lại mức độ vi phạm của ông T và những người
liên đới. Trên cơ sở đó, Huyện uỷ huyện C thành lập Hội đồng kỷ luật theo
đúng quy định của pháp luật để đánh giá về hành vi vi phạm pháp luật của ông
T. Quyết định kỷ luật hành chính đưa ra nhất thiết phải thoả đáng, thấu tình, đạt
lý.
Căn cứ vào cơ sở lý luận và những tình tiết, diễn biến hành vi vi phạm của
ông T, có thể tham khảo 3 phương án như sau:
*Phương án thư nhất:
a. Phương án xử lý:
Về vật chất: Buộc ông T phải bồi hoàn lại toàn bộ số tiền tạm ứng 35 triệu
đồng mà ông T không đủ giấy tờ để thanh toán, căn cứ trên quy định tại Điều 49,
Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 02/1998/PL-UBTVQH ngày
26/02/1998 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Trong số 100 triệu đồng do làm
sai lệch giấy tờ, xác định rõ phần trách nhiệm của ông T và buộc phải nộp trả lại cơ
quan bằng cách trừ dần vào lương được quy định tại Điều 10, Pháp lệnh thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí và Điều 23, Nghị định số 97/1998/NĐ/CP ngày
17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công
chức.
Về kỷ luật hành chính: Như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận tại Điều 39,
pháp lệnh Cán bộ, công chức ông T sẽ bị cảnh cáo trước toàn cơ quan, hạ bậc
lương, không bổ nhiệm vào các chức vụ cao hơn trong thời gian ít nhất là 1 năm
kể từ khi có quyết định kỷ luật.
b. ưu, nhược điểm của phương án:
-ưu điểm:
+Dựa trên cơ sở luật pháp để ra quyết định hành chính, có tính đến yếu tố
ưu đãi đối với người có công.
+ Huyện ủy huyện C thu hồi lại được số tiền bị chiếm dụng trả lại cho ngân
sách Nhà nước .
+ Có tác dụng răn đe đối với những người có ý định vi phạm.

-Nhược điểm:
+Còn tính đến yếu tố tình nhiều hơn lý.
+Ông T tiếp tục được giữ trách nhiệm phó trưởng phòng có thể lặp lại
những sai sót trước đây.
+Quyết định quản lý chưa mang tính thuyết phục.
*Phương án thứ hai:
a.Phương pháp xử lý:
11


Về vật chất: Giống như phương án thứ nhất, ông T phải bồi hoàn lại toàn bộ
số tiền tạm ứng 35 triệu đồng và phần trách nhiệm trong số tiền 100 triệu đồng
do làm sai lệch giấy tờ.
Về kỷ luật hành chính: Xét thấy nếu ông T tiếp tục làm việc liên quan đến
công việc hiện tại sẽ tiếp tục có những hành vi vi phạm trong quản lý, căn cứ
Điều 81 của Luật cán bộ công chức, ông T sẽ bị cảnh cáo toàn huyện, cách chức
và chuyển công tác khác không liên quan đến công việc cũ. Trong phương án
này, lương của ông T vẫn được duy trì ở ngạch, bậc lương trước đây.
b. ưu, nhược điểm của phương án:
-ưu điểm:
+ Quyết định quản lý hành chính đưa ra có tính thuyết phục, được sự đồng
tình của dư luận, thoả đáng với người vi phạm.
+Số tiền bị chiếm dụng được hoàn trả cho Ngân sách Nhà nước.
+Ông T thôi giữ chức vụ hiện tại sẽ làm giảm nguy cơ tái phạm.
+Với mức lương vẫn tiếp tục duy trì , ông T mới có khả năng hoàn trả tiền
bằng lương cho tới lúc về hưu và có thể sinh sống ( có xét đến yếu tố ông T là
thương binh ¾ ).
-Nhược điểm : ông T sẽ mất một thời gian để thích nghi với công việc mới.
*Phương án thứ ba:
a.Phương pháp xử lý:

Về vật chất: Ngoài việc bồi hoàn tiền giống như đã trình bày ở hai phương
án trên, ông T còn phải trả lãi suất cho khoản tiền ông đã chiếm dụng tính theo
lãi suất gửi không thời hạn của Ngân hàng Nhà nước.
Về kỷ luật hành chính: Hành vi nghỉ vô tổ chức, vô kỷ luật của ông T đã vi
phạm quy định tại mục 5, điểm a, phần II Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày
27/3/1999 của Bộ trưởng, Trưởng ban tổ chức Chính phủ hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật
và trách nhiệm vật chất đối với công chức. Ông T sẽ bị buộc thôi việc.
b. ưu, nhược điểm của phương án:
-Uư điểm:
+Quyết định tuân thủ nghiêm theo quy định của các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan.
+Thiết lập được kỷ cương cho cơ quan.
-Nhược điểm:
+Quá cứng nhắc, chỉ tính đến yếu tố pháp luật mà không xem xét đến khía
cạnh tình cảm, quá trình cống hiến trong quân đội và tại cơ quan của ông T.
+Thời gian thu hồi tiền rất dài do ông T không còn khoản thu nhập chính là
lương để trả nợ.
12


+Gây tâm lý e dè, sợ hãi.
Sau khi nghiên cứu những ưu, nhược điểm của 3 phương án. Phương án thứ
hai có thể coi là phương án tối ưu để áp dụng với hành vi vi phạm do ông T gây
ra. Căn cứ vào mục tiêu giải quyết đình huống, phương án thứ hai vừa đảm bảo
tuân thủ các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của Nhà
nước, vừa có tính yếu tố nhân thân của ông T. Quyết định hành chính ở phương
án này sẽ tạo nên sự đồng tình trong dư luận nhân dân và có tác dụng răn đe,
giáo dục với các đối tượng khác.


13


III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU
Ưu điểm cơ bản của phương án thứ hai là đã thể hiện được tính nghiêm
minh của pháp luật, tuân thủ theo đúng các quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan. So với Phương án thứ nhất quá nặng về tình và
Phương án thứ ba quá nặng về lý, Phưong án thứ hai ngoài có tác dụng răn đe có
có ý nghĩa giáo dục, tạo cơ hội cho ông T nhận ra được lỗi lầm và giảm nguy cơ
lặp lại sai lầm. Do có thời gian công tác lâu năm và tuổi đã cao, chuyển vị trí
công tác mới ông T sẽ gặp khó khăn nhưng với thời gian ông T chắc chắn có thể
đảm trách được công việc. Như vậy, việc lựa chọn Phương án hai là thoả đáng.
Công tác tổ chức thực hiện Phương án thứ hai cũng cần phải được tiến hành
theo đúng trình tự quy định của luật pháp. Trình tự các bước tiến hành gồm các
bước sau:
Bước một: Ủy ban kiểm tra huyện cần tiến hành mở rộng thanh tra để thu
thập thêm thông tin về các đối tượng cán bộ, công chức có liên quan tới vụ việc
đã nêu. Các thông tin thu thập được sẽ là căn cứ quan trọng để ra quyết định kỷ
luật về vật chất và hành chính đối với ông T.
Bước hai: Trên cơ sở chứng cứ đã thu thập được, Huyện ủy huyện C lập
Hội đồng kỷ luật theo quy định tại Điều 5, Nghị định số 97-1998/NĐ-CP ngày
17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công
chức.
“1.Khi xử lý kỷ luật công chức nhất thiết phải thành lập Hội đồng kỷ luật.
2.Khi họp hội đồng kỷ luật phải có mặt đương sự… Nếu đương sự vắng
mặt 2 lần khi đã triệu tập thì Hội đồng vẫn họp xem xét và kiến nghị hình thức
kỷ luật…”
Thành phần Hội đồng kỷ luật căn cứ trên các quy định tại Điều 40, Pháp
lệnh cán bộ , công chức; Điều 5 và Điều 14; Nghị định số 97-1998/NĐ-CP;
điểm B, phần II, Thông tư số 05/1999/TT-TCCP gồm

Chủ tịch Hội đồng là Thủ trưởng cơ quan huyện C.
Đại diện Ban tổ chức Huyện ủy, Uỷ ban kiểm tra Huyện ủy, Văn phòng
Huyện uỷ.
-Đại diện Ban chấp hành công đoàn, chi Hội cựu chiến binh cơ quan huyện.
-Lãnh đạo phòng B.
-Đại diện công chức của cơ quan B ( do tập thể công chức cơ quan B cử ra).
-Ngoài ra có mời một số đại diện của Tổ công đoàn cơ quan B, bộ phận kế
toán -tài vụ, tổ chức trên liên quan trực tiếp tới các chứng cứ vi phạm. Nhưng
các đại diện chỉ được phép phát biểu ý kiến chứ không có quyền biểu quyết.
Bước ba: Sau khi thành lập, Hội đồng kỷ luật tiến hành trên cơ sở tổng hợp
văn bản báo cáo Uỷ ban kiểm tra huyện để xác định trách nhiệm vật chất vị trí
14


cũ sẽ làm ảnh hưởng tới kết quả điều tra, thu thập chứng cứ, Huyện ủy huyện C
có thể tạm đình chỉ công tác của ông T theo quy định tại điều 81, Luật cán bộ,
công chức. ông T vẫn chỉ được hưởng lương theo ngạch, bậc tương đương thời
gian trước khi bị đình chỉ.
Bước bốn: Ngay sau khi có chứng cứ đã thu thập được đầy đủ, Hội đồng kỷ
luật tiến hành họp khi có đầy đủ các thanh viên của Hội đồng để thống nhất
phương án kỷ luật theo chế độ tập thể khách quan, công khai dân chủ, biểu quyết
theo đa số bằng phiếu kín. Hội đồng kỷ luật gửi giấy triệu tập ông T và những
người có liên quan trong thời gian chậm nhất là 7 ngày trước khi Hội đồng kỷ
luật họp, trong giấy triệu tập trên ghi rõ yêu cầu những người bị kỷ luật phải viết
bản tự kiểm điểm. Nếu sau hai lần triệu tập mà ông T và những người có liên
quan vẫn vắng mặt thì Hội đồng kỷ luật Huyện ủy huyện V vẫn tiến hành họp để
xem xét và kiến nghị hình thức kỷ luật. Trình tự tiến hành cuộc họp Hội đồng kỷ
luật được tiến hành theo quy định tại Điều 19, Nghị định số 97-1998/NĐ-CP.
Bước năm: Hội đồng kỷ luật Huyện uỷ huyện C căn cứ trên các chứng cứ
pháp lý, căn cứ vào luật pháp và có tính đến yếu tố nhân thân của ông T sẽ ra

Nghị quyết xử lý kỷ luật như Phương án thứ hai đã trình bày ở trên. Sau đó sẽ
đưa ra Nghị quyết của Hội đồng kỷ luật, biên bản của Hội đồng và các hồ sơ tài
liệu có liên quan sẽ được trình Huyện ủy huyện C. Phó Bí thư thường trực, Thủ
trưởng cơ quan huyện C ra quyết định chậm nhất là 7 ngày kể từ khi nhận được
hồ sơ, tài liệu của Hội đồng kỷ luật.
Bước sáu: Chuyển hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc xử lý kỷ luật và quyết
định thi hành kỷ luật ông T vào hồ sơ lưu tại Ban tổ chức Huyện uỷ huyện C.
Trách nhiệm của các đơn vị trong cơ quan: cơ quan B có trách nhiệm thực hiện
quyết định kỷ luật và gửi cho ông T một bản của quyết định và có trách nhiệm
thực hiện quyết định kỷ luật ông T và tiến hành thu hồi lại khoản tiền chiếm
dụng của ông T thông qua trừ lương hàng tháng.
Bước bảy: Trường hợp ông T cho rằng quyết định kỷ luật là chưa thoả
đáng, ông T có quyền khiếu nại về quyết định kỷ luật của mình lên cấp trên. Toà
án theo quy định tại điều 48,49,50 và Điều 51 luật khiếu nại tố cáo. Các cơ quan
trên khi nhận được khiếu nại của công chức phải có trách nhiệm xem xét, trả lời
ông T theo quy định tại Điều 51, 52, 53, 54 và Điều 55 của Luật khiếu nại tố
cáo.

15


PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua phân tích hành vi vi phạm của ông Nguyễn Văn T, chúng ta càng thấy
rõ tầm quan trọng của việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ có ý thức kỷ luật đáp ứng được các yêu cầu về quản lý
hành chính trong điều kiện xã hội có nhiều biến đổi. Bên cạnh những sai lầm do
yếu tố kém về trình độ, năng lực, hành vi của ông T còn do sự thiếu quan tâm
của lãnh đạo Huyện ủy huyện C tới hoạt động của cán bộ cấp dưới, chưa tạo nên
sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ cơ quan. Việc xử lý kiên quyết sai phạm của

ông T và những người có liên quan sẽ góp phần thiết lập lại kỷ cương trong cơ
quan, tạo niềm tin cho đại đa số cán bộ, công chức.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình huống, nguyên nhân và hậu quả gây ra
trong hoạt động quản lý, trong thời gian tới để xây dựng được một đội ngũ cán
bộ, công chức đạt tiêu chuẩn chúng ta cần đặc biệt chú ý các vấn đề sau:
+Nhà nước và từng cơ quan cần xây dựng tiêu chuẩn cho từng chức danh
được bổ nhiệm như trình độ học vấn, năng lực thực tế… để đáp ứng được yêu
cầu quản lý nhà nước các cấp. Tránh trường hợp như ông T dù không đủ năng
lực nhưng vẫn được bổ nhiệm để hoàn chỉnh cơ cấu.
+Nghiêm khắc xử lý các hành vi vi phạm nguyên tắc quản lý hành chính
Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh việc sử dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn.
Khi giải quyết các vấn đề trong cơ quan, ngoài việc căn cứ vào các chứng
cứ pháp lý cần tôn trọng yếu tố tình cảm, đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam.
+Luôn quan tâm tới việc xây dựng tình đoàn kết trong cơ quan, khi mỗi bộ
phận, mỗi đơn vị trong cơ quan là tập thể đoàn kết thì cả cơ quan sẽ đoàn kết
đúng như lời Bác Hồ dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”.
Cần khuyến khích, động viên, cổ vũ cán bộ, công chức tự rèn luyện nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân, tăng cường ý thức tổ chức kỷ
luật. Có chính sách khen thưởng, khuyến khích kịp thời đối với những người có
thành tích, song song với xử lý thích đáng những người có hành vi vi phạm.
Qua những kiến thức cơ bản đã được lĩnh hội từ các thầy, cô giáo về Nhà
nước, pháp luật, quản lý hành chính… song với phạm vi ngắn tôi không thể khái
quát hết được tầm quan trọng trong công tác quản lý hành chính đối với những
người vi phạm kỷ luật. Nội dung và kiến nghị được trình bày trong tiểu luận chỉ
mong đóng góp một phần nhỏ bé vào công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức giỏi về trí, khoẻ về lực, luôn đoàn kết xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
vững mạnh . Đây là công việc cần làm thường xuyên, liên tục để đảm bảo cho

cán bộ, công chức Việt Nam luôn đổi mới, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc
16


hội nhập kinh tế và xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng văn minh.
Với tinh thần cầu thị tiến bộ, tôi rất mọng được đón nhận ý kiến góp ý,
tham gia của các thầy giáo, cô giáo, để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin trận trọng cảm ơn./.
XÁC NHẬN CỦA VĂN PHÒNG
HĐND&UBND HUYỆN CAO PHONG

NGƯỜI VIẾT BÀI

Đinh Đức Tuấn Anh

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI. NXB sự thật Hà Nội năm 1987.
2.Học viện Hành chính Quốc gia. Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính
Nhà nước chương trình chuyên viên Hà Nội năm 2011.
3.Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 10 NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1996.
4.Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 5 NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2002.
5.Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 01/1998/PLUBTVQH ngày
26/02/1998 về cán bộ, công chức.
6.Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 02/1998/PLUBTVQH ngày
26/02/1998 về thực hành tiết kiệm chống lãng phí.

7.Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Bộ trưởng, Trưởng
ban tổ chức chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày
17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công
chức;
8. Nghị định 118/2006/NĐ-CP ngày 10/10/2006 của Chính phủ về xử lý
trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức.
9. Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ
về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.
10. Thông tư của Bộ Nội vụ số 03/2006/TT-BNV ngày 08 tháng 02 năm
2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17
tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.

18


NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI CHẤM TIỂU LUẬN
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
KẾT QUẢ CHẤM TIỂU LUẬN

Bằng số

Bằng chữ


Ký tên
( Họ tên chứ kỹ)

Kết quả

19



×