Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận đường lối CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.19 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
NHÓM 4
Đề tài: Chính sách xã hội đối với thất nghiệp của sinh viên hiện nay.
I.Lời mở đầu:
Hiện nay, sinh viên ra trường thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong xã hội.
Câu hỏi đặt ra ở đây là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp sinh viên hiện nay là do
đâu? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế nước nhà? Và
chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên? Có rất nhiều câu hỏi và giải pháp
được đặt ra, song vẫn chưa khắc phục triệt để được tình trạng thất nghiệp của sinh viên
sau khi ra trường.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về thất nghiệp. Theo Luật Bảo hiểm thất nghiệp (viết tắt
BHTN) Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Thất nghiệp là người lao động tạm thời
không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn”.
Tại Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là người trong tuổi
lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm,
đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm”.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người
trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức
tiền lương thịnh hành”.
Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế
cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường (kinh tế mở cửa). Vì vậy, tuy
chưa có văn bản pháp qui về thất nghiệp cũng như các vấn đề có liên quan đến thất
nghiệp, nhưng có nhiều công trình nghiên cứu nhất định. Những nghiên cứu bước đầu
khẳng định thất nghiệp là những người không có việc làm, đang đi tìm việc và sẵn
sàng làm việc.
Vậy, nguyên nhân từ đâu dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp và chúng
ta cần phải làm gì để khắc phục tình trạng đó.

1



II. Nội dung:
1. Thực trạng nạn thất nghiệp hiện nay trên cả nước:
Đến quý 2 năm 2018, trong tổng lực lượng lao động cả nước có gần 743,8 nghìn lao
động thiếu việc làm và gần 1,1 triệu lao động thất nghiệp. Thông thường, tình trạng
thiếu việc làm luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn. Theo kết quả quý 2 năm
2018, hiện có gần 84,4% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực này. Khác biệt
giới về thị phần lao động thiếu việc là không đáng kể khoảng 5,7% (trong đó, nam
thiếu việc làm chiếm 52,8% và nữ thiếu việc làm là 47,2% trong tổng số lao động
thiếu việc làm cả nước). Trái lại, tình trạng thất nghiệp lại được quan tâm hơn ở khu
vực thành thị. Mặc dù, tỷ trọng lao động thất nghiệp thành thị hiện thấp hơn, chỉ chiếm
khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Hơn nữa, kết quả điều tra lao
động việc làm quý 2 năm 2018 cũng cho thấy tình trạng thất nghiệp ở nữ là cần nhiều
quan tâm hơn, (chiếm tới 53,3% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước).
Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật – CMKT đạt
được, trong quý 2 năm 2018, có tới hơn 26,7% số lao động thất nghiệp cản ước là lao
động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao
động có trình độ từ đại học trở lên chiếm thị phần lớn nhất, khoảng 43,7% tổng số lao
động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có tỷtrọng lao động thất
nghiệp có trình độ CMKT từ 3 tháng trở lên cao nhất theo thứ tự lần lượt là “Kinh
doanh và quản lý – 31,4%”, “Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên – 12,5%”, “Công
nghệ kỹ thuật – 11,9%”, “Sức khỏe – 11,2%”, “Dịch vụ vận tải – 7,2%” và “Máy tính
và công nghệ thông tin – 4,2%.
Thanh niên được xem là một trong những nhóm lao động dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các
biến động trên thị trường lao động. Vì vậy, thất nghiệp thanh niên luôn được xem là
vấn đề quan tâm của xã hội. Trong quý 2 năm 2018, số thất nghiệp thanh niên từ 15-24
tuổi đã chiếm tới 46,5% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Đáng lưu ý, số lao động
thanh niên thất nghiệp ở khu vực thành thị lại thấp hơn so với khu vực nông thôn (theo
tuần tự chiếm 41,6% và 58,4% trong tổng số lao động thất nghiệp thanh niên cả nước).
Đây là kết quả của ưu thế hơn về cơ hội học tập cũng như việc làm ở khu vực thành
thị. Nếu phân tổ theo trình độ CMKT đạt được, 44,1% số lao động thất nghiệp đã qua


2


đào tạo CMKT từ 3 tháng trở lên của cả nước (tương đương khoảng 129,5 nghìn
người) là thanh niên. Trong đó, thị phần vượt trội (khoảng 79,1%) là thuộc về nhóm
thanh niên có trình độ từ cao đẳng trở lên. Bên cạnh đó, gần 20,8% (tương đương
154,4 nghìn người) trong tổng số hơn 743,8 nghìn lao động thiếu việc làm của cả nước
là thanh niên từ 15 đến 24 tuổi.
Biểu 1: Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên đã qua đào tạo CMKT từ 3 tháng trở lên
chia theo trình độ đào tạo, quý 2 năm 2018
Đơn vị tính: Phần trăm

Trình độ CMKT

Toàn Quốc

Nam



Thành thi

Nông thôn

Tổng số

10.02

7.85


11.84

10.74

9.38

Sơ cấp nghề

2.86

2.70

3.72

3.44

2.55

Trung cấp

8.36

6.69

9.59

7.16

9.21


Cao đẳng

9.56

6.07

11.91

9.15

9.86

Đại học trở lên

14.24

14.98

13.81

14.97

13.17

2. Nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp:
Tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Thậm chí, có một
số trường hợp sinh viên ra trường cả hai, ba năm vẫn không tìm được việc làm, chứ
đừng nói đến chuyện tìm được công việc đúng ngành nghề. Vậy nguyên nhân dẫn đến
tình trạng thất nghiệp của sinh viên hiện nay là do các nguyên nhân sau:

2.1. Không có đinh hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của các bậc phụ
huynh. Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹthường thiên về
những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng, như kỹ sư, bác sĩ,… và con cái thì cũng
thụ động, cha mẹ chọn ngành gì con học ngành đó. Mặt khác, xu hướng thị trường
cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề “hot”
để theo kịp bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở trường.

3


Những thông tin trên như là một hồi chuông cảnh báo cho thực trạng định hướng nghề
hiện nay khi mà các học sinh hầu như không có một định hướng nghề cho bản thân,
không biết mình thích gì và có thể làm gì sau này, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của
bản thân? Không biết định hướng và lựa chọn cho mình ngành học phù hợp, sinh viên
sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, kết quả học tập sút kèm, không có sự yêu thích và tâm
huyết,… Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp cho tương lại đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành công.
2.2. Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc
Nhiều doanh nghiệp lớn cho biết:“Kỹ năng của sinh viên mới ra trường là chưa hình
thành nếu không muốn nói là không có”. Sinh viên ra trường hiện nay có kiến thức
nhưng thiếu kỹ năng, đặc biệt là các kỹ năng cần thiết để làm việc. Một số bạn trẻ còn
cho rằng, các nhà tuyển dụng chỉ cần tuyển người có năng lực chuyên môn, vi tính
thành thạo, ngoại ngữ bằng A, B, C… Chính vì thế, các bạn đổ xô rủ nhau đi học bằng
này bằng kia, khóa học này khóa học kia, nhưng các bạn không hề biết rằng, các chủ
doanh nghiệp và công ty, nhất là các công ty nước ngoài luôn chú trọng đến các kỹ
năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng làm việc theo nhóm, khả năng lập
kế hoạch mục tiêu, xử lý nhanh những khó khăn trong tình huống bất ngờ…
Mặc dù, quá trình tìm việc cũng không phải dễ dàng gì. Trừ một số bạn có mối quan
hệ rộng rãi hay được cha mẹ gửi gắm, số còn lại, đa phần các bạn còn quá thụ động

trong quá trình tìm việc. Các bạn chưa tự tin vào bản thân, thiếu nghị lực và dũng cảm
để đương đầu với những khó khăn, thậm chí có bạn còn chưa rõ mình thích làm gì,
thích làm công việc như thế nào. Các bạn không biết rằng, trong môi trường công việc
đầy cạnh tranh và năng động, trang bị tốt cho mình các kỹ năng giao tiếp, đàm phán,
thuyết trình, quản lý thời gian,… mới thực sự là yếu tố quyết định giúp bạn khác biệt
và làm việc hiệu quả.
2.3. Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào các trường đại học
quốc gia nhưng kết quả không có gì khả quan khi số lượng sinh viên ra trường vẫn thất

4


nghiệp. Bên cạnh đó, với tiếp cận xã hội hóa giáo dục cho phép nhiều trường đại học
tư được mở ra rộng kích thích cạnh tranh giữa các trường nhà nước và trường tư.
Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở kết quả này, bởi các đại học tư vì
lợi nhuận chỉ cấp bằng, họ không đào tạo “đúng và trúng”. Cả hai cách cải tiến trên
đều làm nảy sinh số người tốt nghiệp cao nhưng không có kỹ năng để làm việc trong
công nghiệp. Bên cạnh đó, thành tích của các cấp học dưới đẩy lên các cấp học trên đã
khiến những người làm giáo dục bất chấp hậu quả mà chính người học và xã hội phải
gánh là tạo ra những sản phẩm không đủ chất lượng, dẫn đến hậu quả đầu ra của đội
ngũ nhân lực nước ta yếu và nền giáo dục Việt Nam ngày càng tụt hậu.
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực
hành mà quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các trường
vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
Chúng ta chuyển dần từ giáo dục truyền thống, giáo dục thời đại công nghiệp sang
giáo dục thời đại thông tin. Đây là hệ thống giáo dục mới tập trung phần lớn vào kiến
thức kỹ thuật và ứng dụng của công nghệ để giải quyết các vấn đề kinh doanh, sinh
viên học chính thức nền tảng không chỉ trong nhà trường, mà còn tiếp tục trong cả đời
họ vì không ngại lúc nào cũng thay đổi.

Ngoài ra, chúng ta cải tiến kỹ năng công nghiệp cho mọi người dân, tạo cho người dân
có trí thức sẵn có để làm việc, đây là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế của địa
phương. Đặc biệt, chúng ta thay đổi tư duy nên nhìn nhận các trường đại học như là
một doanh nghiệp, họ có thể đào tạo sinh viên đúng thực chất bằng việc cộng tác với
công nghiệp gắn với nhu cầu thị trường và cập nhật chương trình đào tạo tương ứng.
2.4. Trình độ ngoại ngư vẫn còn nhiều hạn chế
Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh.
Chúng ta đều biết tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong tất cả mọi
ngành nghề trong thời kỳ hiện đại. Thực ra, hầu hết sinh viên ở các trường đại học đều
được học tiếng Anh, nhưng chính thái độ học thụ động, không áp dụng thực tế thì khi
ra trường, kỹ năng ngoại ngữ chỉ là con số 0. Chỉ có được động lực học, cách học phù

5


hợp, khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng
Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
2.5. Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận
Đó là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của bản thân. Luôn
đổ lỗi cho không có chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra. Tốt nghiệp và
ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách không có việc làm, đó là điều càng khiến
sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đỗ lỗi cho không có cơ hội việc
làm, đỗ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục…
Phải thừa nhận rằng, có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày
càng lớn như hiện nay. Nhưng trước khi mổ xẻ những nguyên nhân sâu xa, chúng ta
cần làm rõ nguyên nhân ngay trước mắt. Đó là sự kém cỏi của sinh viên ngay trên
giảng đường. Đừng chỉ tốt nghiệp với tấm bằng trên giấy mà hãy bước ra khỏi giảng
đường với những kiến thức cần thiết cho tương lai.
3. Các chính sách của xã hội để giải quyết nạn thất nghiệp của sinh viên hiện
nay:

Đứng trước thực trạng về vấn đề thất nghiệp của nước ta hiện nay. Nhà nước ta cần có
những biện pháp và chính sách để giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống đến mức tối đa để đưa
đất nước ta phát triển hơn nữa.
3.1 Chính sách tạo ra việc làm cho người lao động
3.1.1 Hệ thống chính sách việc làm:
a) Về hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động
Trong những năm đổi mới, nhất là từ giai đoạn 2001 đến nay, hệ thống pháp luật kinh
tế tiếp tục được hoàn thiện (Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp
tác xã, Luật Thuế, Luật Phá sản...) đã góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện
cho thị trường lao động phát triển. Bộ luật lao động, sửa đổi bổ sung năm 2002 và
2006, Luật bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài, các nghị định, thông tư liên quan tới lao động, thị trường lao động và

6


việc làm đã hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường
cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Các chế độ về tiền lương, thu nhập,
trợ cấp ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao năng suất lao động và cải thiện thu
nhập của người lao động.
Mặc dù vậy, nhiều ý kiến cho rằng, chính sách pháp luật về việc làm của nước ta hiện
nay không còn phù hợp và khó thực hiện. Các quy định chủ yếu điều chỉnh đối với lao
động có quan hệ lao động, còn các đối tượng khác như việc làm ở khu vực phi chính
thức, khu vực nông thôn chưa được quy định cụ thể. Nhiều quy định mới chỉ được thể
hiện bằng các văn bản dưới luật, tính pháp lý chưa cao, chưa phù hợp với tình hình
thực tiễn. Các chính sách còn mang tính chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Còn thiếu
các chính sách về bình đẳng việc làm, việc làm an toàn, các quy định về việc làm đầy
đủ, việc làm bán thời gian; các khái niệm, định nghĩa về thị trường lao động chưa được
xác định rõ; các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn... gây khó khăn trong hoạt động quản lý và tổ chức thực hiện trong lĩnh vực

việc làm.
Việc triển khai tại một số địa phương gặp nhiều lúng túng, vướng mắc do cơ chế chồng
chéo, không phân rõ trách nhiệm giữa các cơ quan thực hiện. Một số địa phương,
doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ các chính sách đã được ban hành, ví dụ như: quy
định về việc thành lập Quỹ Giải quyết việc làm địa phương; đảm bảo tỷ lệ lao động là
người tàn tật; việc thực hiện các chế độ đối với người lao động; triển khai chương
trình, dự án gắn với quy hoạch nguồn nhân lực cũng như kế hoạch tạo việc làm cho
người lao động...
Các dự án cho vay giải quyết việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm chủ yếu là dự án
trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm trên 60%. Đối tượng vay là các cơ sở sản xuất kinh
doanh chiếm tỷ lệ thấp - dưới 10% nên chưa tạo thêm nhiều việc làm mới. Một số dự
án cho vay sai mục đích, không đúng đối tượng; nhu cầu vay vốn lớn nhưng nguồn
vốn chỉ đáp ứng được 30-35% nhu cầu của nhân dân. Cơ chế quản lý, sử dụng nguồn
vốn chưa hợp lý gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của quỹ…
b) Về kết nối cung cầu lao động

7


Hệ thống dịch vụ việc làm được phát triển từ năm 1992 qua Chương trình việc làm
quốc gia theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992, đã tạo môi trường
pháp lý phát triển dịch vụ kết nối cung-cầu về lao động, tăng cường cơ hội để người
lao động tiếp cận thông tin về việc làm, lựa chọn công việc. Đặc biệt, với việc sửa
Điều 18 của Bộ luật lao động năm 1995, Nghị định số 19/2005/NĐ-CP ngày 28/5/2005
và Nghị định số 71/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 19/2005/NĐ-CP đã từng bước hoàn thiện khung pháp lý cho dịch vụ việc
làm. Cùng với các trung tâm giới thiệu việc làm công lập, các doanh nghiệp cũng được
phép hoạt động giới thiệu việc làm, kể cả sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
c) Về hỗ trợ lao động di chuyển

Chính phủ đã thực hiện các chương trình hỗ trợ di cư đến các vùng kinh tế mới; hỗ trợ
di dân thực hiện định canh định cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số (Quyết định số
33/2007/QĐ-TTg); Chương trình di dân gắn với xóa đói giảm nghèo (thuộc nội dung
của Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010). Các
chương trình di dân đã đáp ứng một phần về tái phân bổ nguồn lao động, đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế vùng, góp phần ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số
và bảo vệ an ninh quốc phòng.
Các quy định về cư trú, đăng ký hộ khẩu tại các khu đô thị, các thành phố lớn ngày
càng thông thoáng. Luật Cư trú (năm 2007) đã mở rộng quyền cư trú của công dân,
giúp cho việc di chuyển lao động dễ dàng hơn. Các chính sách phát triển đô thị, các
khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm... cũng có tác động kích
thích di chuyển lao động, nhất là di chuyển nông thôn - đô thị, góp phần chuyển dịch
cơ cấu lao động, nâng cao điều kiện về việc làm và thu nhập cho lao động nông thôn.
d) Về tín dụng ưu đãi cho sản xuất, kinh doanh
Thông qua việc ban hành gần 20 chính sách tín dụng ưu đãi, sử dụng cơ chế cho vay
tín dụng thông qua các chương trình, tổ chức, hội đoàn thể, Nhà nước hỗ trợ vốn sản
xuất, kinh doanh cho các nhóm yếu thế như lao động nghèo, lao động nông thôn, lao

8


động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, lao động vùng chuyển đổi sử dụng đất
nông nghiệp, các tổ chức kinh doanh thu hút nhiều lao động.
- Đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh: Chương trình Việc làm quốc gia được thành
lập theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992 có nội dung cung cấp các
khoản vay với lãi suất ưu đãi để doanh nghiệp và hộ gia đình tạo việc làm và xuất khẩu
lao động.
- Đối với người lao động: Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín dụng ưu đãi cho
người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, thanh niên: hỗ trợ hộ nghèo vay
vốn phát triển sản xuất thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo;

Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về việc cho vay vốn phát triển sản
xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; Quyết định số
126/2008/QĐ-TTg ngày 15/9/2008 về vay vốn phát triển sản xuất cho hộ dân tộc;
Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện
nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 20092020.
- Bên cạnh đó, nhiều chương trình hỗ trợ khác được triển khai trong thời kỳ suy giảm
kinh tế từ 2007 đến nay nhằm giúp cho nhiều doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh
doanh vượt qua giai đoạn khó khăn, duy trì sản xuất, trả lương và đóng bảo hiểm xã
hội cho người lao động. Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày 23/02/2009 về việc hỗ
trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm
kinh tế; Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 08/7/2009 về tín dụng đối với thương
nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn. Một số biện pháp hỗ trợ khác như:
miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp, giãn thời gian nộp một số loại thuế (Nghị quyết số
11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị quyết số 08/2011/QH13 về ban
hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá
nhân; Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg ngày 06/4/2011 về gia hạn nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp của doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế...). Ngoài ra, còn có các biện pháp hỗ trợ như khuyến khích xuất
khẩu, ứng trước kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước của các năm sau... đã tác động

9


trực tiếp tới vấn đề duy trì việc làm và thu nhập cho người lao động trong bối cảnh suy
giảm kinh tế, người mất việc làm gia tăng.
e) Về đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
Nhà nước đã hình thành một hệ thống chính sách thúc đẩy việc làm ngoài nước, xây
dựng các chương trình trọn gói từ đào tạo, cho vay vốn để hỗ trợ người lao động khi
về nước, đặc biệt là người lao động thuộc hộ nghèo: Quyết định số 365/2004/QĐNHNN về việc cho vay vốn đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 về việc thành lập, quản lý Quỹ hỗ
trợ việc làm ngoài nước; Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê duyệt
Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2009 - 2020.
f) Về cho phép lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên
của WTO, Chính phủ đã thực hiện mở cửa thị trường lao động Việt Nam đối với lao
động có kỹ thuật. Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy định về tuyển
dụng và quản lý người nước ngóài làm việc tại Việt Nam; Nghị định số 46/2011/NĐCP ngày 17/6/2011 sửa đổi bổ sung Nghị định số 34/2008/NĐ-CP đã góp phần đáp
ứng nhu cầu của thị trường trong nước đối với những vị trí làm việc đòi hỏi trình độ
chuyên môn cao.
3.2.1 Đánh giá chính sách việc làm:
a) Những thành tựu
Thứ nhất, hệ thống chính sách được ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn thiện.
Các chính sách về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như: Chính sách chung về việc làm (quyền và nghĩa vụ của người lao động
về việc làm, trách nhiệm của Nhà nước về việc làm,...); Chính sách hỗ trợ để tạo và tự
tạo việc làm cho người lao động (Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dự án
cho vay giải quyết việc làm...); Chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ờ

10


nước ngoài (cho vay tín dụng, bồi dưỡng kiến thức, nghề nghiệp trước khi đi lao động
ở nước ngoài,...).
Với hệ thống chính sách việc làm như vậy đã tạođiều kiện thúc đẩy đa dạng hóa các
hình thức kết nối cung cầu lao động thông qua các trung tâm dịch vụviệc làm. Đến
nay, đã có 150 trung tâm giới thiệuviệc làm được thành lập, bình quân mỗi năm tư
vấncho trên 603 nghìn lượt người tìm việc làm. Nhiều địa phương đã tổ chức sàn giao
dịch việc làm có hiệu quả. Việc phát triển thị trường lao động đã tạođiều kiện cho

người dân di chuyển từ nông thôn rathành thị để tìm kiếm các cơ hội việc làm tốt
hơn.Ước tính mỗi năm có khoảng 200 nghìn lao độngnông thôn di cư tìm việc làm ở
đô thị và các khucông nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
Thứ hai, thành tựu nổi bật của hệ thống chính sách việc làm là tạo ngày càng nhiều
việc làm cho xã hội. Cơ hội có việc làm của người lao động tănglên, giải tỏa sức ép về
việc làm cho người lao độngtrong bối cảnh lực lượng tham gia lao động ngàycàng
tăng.
Giai đoạn 2000- 2010, quy mô lực lượng laođộng tăng mạnh, từ 39,3 triệu người năm
2000 lên 50,5 triệu người năm 2010, tốc độ tăng bình quân2,6%/năm, bằng 2 lần tốc
độ tăng dân số.
Xét về giới tính, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cả nam và nữ đều có xu hướng tăng,
tuy nhiên tốcđộ tăng của nam cao hơn của nữ. Điều này nói lên chính sách việc làm
cần phải chú ý đối với nữ giới.
Số việc làm ở nước ta thời gian qua nhìn chung tăng tương đối cao. Trước năm 2008,
số việc làmgia tăng hàng năm bình quân đạt từ 1,01-1,16 triệuviệc làm/năm. Năm
2008, khủng hoảng kinh tế đãlàm cho số việc làm gia tăng chậm lại, cả nước chỉ tăng
thêm 882.000 việc làm. Trong bối cảnhsuy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009, dù tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2009 không cao so với các năm trước đó nhưng nền
kinh tế vẫn tạo thêm được nhiều việc làm cho người lao động.

11


Tổng số việc làm tăng lên, việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh
hơn ngành nông nghiệp. Điều này phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Lao động đang làm việc chia theo nghề nghiệp cũng có những thay đổi nhất định.
Dịch chuyển cơ cấu việc làm không những chỉ diễn ra về số lượng mà còn về chất
lượng. Trong khi lao động đang làm việc theo một số ngành nghề (như các nhà lãnh
đạo trong các ngành, các cấp và các đon vị; chuyên môn kỹ thuật bậc cao; nhân viên
gồm chuyên môn sơ cấp, kỹ thuật làm việc tại văn phòng, bàn giấy) dịch chuyển

không đáng kể, thì ở một số ngành nghề (như nhân viên dịch vụ cá nhân, bảo vệ trật tự
an toàn xã hội và bán hàng có kỹ thuật; lao động có kỹ thuật trong nông, lâm nghiệp và
thủy sản) tăng đáng kể, nhất là trong hai năm 2009 và 2010.
Lao động phổ thông giảm cả tương đối và tuyệt đối. Năm 2007, cả nước có trên
28.122 nghìn lao động làm các nghề giản đơn, chiếm 61,7%. Năm 2010, giảm xuống
còn 19.444 nghìn người, chiếm 39,5% tổng số lao động đang làm việc. Điều này nói
lên nước ta đang trong quá trình chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển
theo chiều sâu.
Lao động đang làm việc chia theo vị thế công việc cũng có sự thay đổi nhất định từ
năm 2008- 2010. Lao động làm công ăn lương có xu hướng tăng, nhưng xu hướng này
chưa chắc đã phản ánh sự gia tăng của những cơ hội việc làm đầy đủ, năng suất và
việc làm bền vữngỄ Xét theo tiêu chí hiệu quả thì sự tăng lên này không có nghĩa là
tích cực.
Lao động tự làm và lao động trong hộ gia đình không hưởng tiền lương, tiền công còn
chiếm tỷ lệ lớn. Đây là những lao động “dễ bị tổn thương” hoặc có nguy cơ thiếu việc
làm thường xuyên. Chính sách việc làm cần phải lưu ý tới đổi tượng này. Việc làm của
các đối tượng này thời gian qua có xu hướng giảm. Lao động tự làm năm 2008 là
21.792 nghìn người, chiếm 46,9% số lao động có việc làm. Đến năm 2010 giảm xuống
còn 21.583 nghìn người, chiếm 43,9%. Còn lao động trong hộ gia đình không hưởng
tiền lương, tiền công năm 2008 là 8.519 nghìn người, chiếm 18,3% số lao động có việc
làm, đến năm 2010 giảm xuống còn 7.553 nghìn người, chiếm 15,4%.

12


Thứ ba, việc làm tăng góp phần giảm nghèo và công bằng xã hội cũng được cải thiện.
Tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm nhanh, từ 37,4% năm 1998 xuống còn 14%
năm 2008 và còn 9,4% năm 2010. Giảm nghèo đạt được ở cả khu vực thành thị và
nông thôn, tỷ lệ nghèo từ mức trên 45% năm 1998 xuống còn 13% năm 2010.
Việt Nam gần như đã giải quyết được vấn đề đói trong khu vực thành thị, với tỷ lệ

nghèo lương thực thực phẩm còn dưới 1% (năm 2008). Tuy nhiên, vẫn còn khoảng gần
10% số hộ thiếu ăn, đứt bữa trong khu vực nông thôn.
Thu nhập bình quân của hộ nghèo cũng có xu hướng tăng lên. Chỉ số khoảng cách
nghèo, thể hiện mức chênh lệch của chi tiêu bình quân của số hộ nghèo so với chuẩn
nghèo chung, đạt mức rất thấp vào năm 2008 (0,5% trong khu vực thành thị và 4,6%
so với khu vực nông thôn).
b) Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất là chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới chú trọng đến
tạo việc làm theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú trọng đến chất
lượng việc làm. Vì vậy, chưa khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và tay
nghề.
Đến thời điểm 1/7/2011, trong tổng số hơn 50,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc, chỉ có gần 7,7 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,2%. Hiện cả nước có 84,8%
số người đang làm việc chưa được đào tạo để đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật
nào đó. Vì thế làm cho tính ổn định, bền vững trong việc làm và hiệu quả tạo việc làm
còn thấp. Đó là thách thức đối với người lao động trong việc tăng thu nhập, có cơ hội
tiếp cận công bằng về việc làm và hòa nhập với xã hội.
Thứ hai, chính sách về việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản gây chồng
chéo. Các quy định của chính sách việc làm mang tính quy phạm chưa cao, chính sách
chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa rõ trách nhiệm của các đối tượng điều
chỉnh của chính sách. Một số chính sách hỗ trợ việc làm chưa được hướng dẫn cụ thể
như: chính sách miễn giảm thuế để khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và
cá nhân tạo việc làm cho nhiều người lao động; chính sách khuyến khích đưa nhiều lao

13


động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi
làm việc tại các công trình, dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng
thầu, nhận thầu, đầu tư ở nước ngoài; chính sách hỗ trợ người lao động sau khi về

nước...
Thứ ba,chính sách tín dụng chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay, thiếu gắn kết
giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu vào tiếp cận thị trường nên hiệu quả sử dụng vốn chưa
cao. Nhiều chính sách ưu đãi tín dụng chồng chéo trên cùng một đối tượng gây khó
khăn cho việc thực hiện và khó đi vào cuộc sống.
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm ngày càng tập trung nhiều cho hộ gia đình vay vốn, ít
hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo thêm nhiều việc làm mới. Các quy định về Quỹ giải
quyết việc làm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời gây khó khăn trong quá trình triển
khai thực hiện
Thứ tư, hệ thống chính sách hỗ trợ lao động di chuyển đến các khu công nghiệp, khu
đô thị còn thiếu. Đa số người dân di cư ra các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất
chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ di chuyển và ổn định tại nơi đến. Trái lại, một
số quy định còn hạn chế khả năng tiếp cận của người di cư đến việc làm tốt, các dịch
vụ xã hội cơ bản tại đô thị.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế của chính sách việc làm hiện nay.
Cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xây dựng các chính sách việc làm là Bộ luật Lao
động (Chương II- Việc làm). Do Bộ luật này được xây dựng trong giai đoạn nền kinh
tế nước ta mới chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nên những vấn đề chủ yếu của kinh tế thị trường nói chung và quan hệ việc làm
nói riêng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chưa bộc lộ hết những yêu cầu của nó. Mặc dù
đã sửa đổi, bổ sung Chương Việc làm của Bộ luật Lao động vào năm 2002, đồng thời
ban hành mới một số văn bản Luật để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc
làm, song, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng
phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình ban
hành, thực hiện các chính sách việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, phát sinh

14


một số vấn đề mới về quan hệ việc làm cần được điều chỉnh trong một văn bản Luật

thống nhất.
Chúng ta chưa có định hướng, quy hoạch tổng thể phát triển việc làm dài hạn, quy
hoạch phát triển vùng, ngành nghề sản xuất kinh doanh cho nên sự chuyển dịch cơ cấu
lao động còn chậm, lạo động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc khu vực
phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.
Tổ chức thực hiện các chính sách việc làm chưa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ quan
trung ương và địa phương chưa đồng bộ. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách
việc làm đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương quan tâm nhưng hiệu quả
chưa được như mong muốn.
Tổ chức hoạt động dịch vụ việc làm chưa chuyên nghiệp, chưa khoa học. Hoạt động
của các trung tâm, doanh nghiệp giới thiệu việc làm còn quá chú trọng vào đào tạo
nghề, còn hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động chưa
được chú trọng đúng mức. Sự phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu việc
làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động còn hạn chế, đặc
biệt trong lĩnh vực cung cấp thông tin thị trường lao động, do vậy thông tin thị trường
lao động lao động chưa có sự kết nối giữa các vùng, các địa phương.
Hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chưa hiệu quả. Các chương trình hỗ
trợ người lao động trở về nước tái hòa nhập thị trường lao động trong nước chưa được
chú trọng.
Hiện tại và trong tương lai giải quyết việc làm phải hướng tới vấn đề về chất lượng,
đảm bảo “việc làm bền vững”, “việc làm xanh”,... thì chỉ tiêu “tạo việc làm mới” bộc
lộ nhiều hạn chế, khó khăn về phương thức tính toán, không phân biệt theo ngành
nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không đảm bảo tính so sánh quốc tế, độ
tin cậy thấp, phản ánh không sát với thực tế. Có nhiều nguyên nhân gây nên hạn chế
trên, trong đó chủ yếu do: cơ sở dữ liệu quản lý dân cư chưa có; hệ thống thống kê báo
cáo chưa khoa học; sự dịch chuyển lao động, phân tích việc làm mới- cũ rất khó khăn;
tính pháp lý trong yêu cầu thực hiện chế độ thống kê, báo cáo chưa đủ sức bắt buộc
các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc...

15



3.3.1 Giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm
Theo dự báo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, lực lượng lao động tăng chậm,
giai đoạn 2011- 2015 tăng bình quân 860 ngàn người/năm; giai đoạn 2016-2020, tăng
743 ngàn người/năm. Do tác động đồng thời của giảm sức ép về lực lượng lao động, số
việc làm vẫn tiếp tục tăng nhưng với tốc độ giảm dần, chỉ đạt 1,39%/năm (so với mức
2,40%/năm giai đoạn 2000-2010). Tổng số lao động có việc làm tương ứng sẽ là
53,25% triệu người và 56,48 triệu người vào các năm 2015 và 2020. Số lượng việc
làm tăng trung bình 815 nghìn/năm thời kỳ 2011-2015 và 646 nghìn/năm thời kỳ
2016-2020.
Giai đoạn 2012- 2015: Bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động,
trong đó từ Chương trình mục tiêu quốc gia về Việc làm và dạy nghề và Chương trình
việc làm công khoảng 300 nghìn lao động (có 200 nghìn người lao động thuộc hộ
nghèo); chuyển đổi việc làm cho 500 nghìn lao động nông nghiệp; mỗi năm đưa
khoảng 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có 30- 40 nghìn
lao động thuộc hộ nghèo).
Giai đoạn 2016- 2020: Bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 1,5 triệu lao động,
trong đó từ Chương trình mục tiêu quốc gia về Việc làm và dạy nghề và Chương trình
việc làm công khoảng 250 nghìn lao động (có 150 nghìn người lao động thuộc hộ
nghèo); chuyển đổi việc làm cho 800 nghìn lao động nông nghiệp; mỗi năm đưa
khoảng 100 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có 35 -45 ngàn
lao động thuộc hộ nghèo). Đến năm 2020, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm còn
30%, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước duy trì dưới 3%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp thành
thị dưới 4%.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, định hướng chính sách việc làm giai đoạn 20122020 là:
Thứ nhất, cần ban hành Luật Việc làm để quy định cụ thể về chính sách việc làm của
Nhà nước. Trong đó, Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc làm mà phải có
trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy và bảo đảm việc làm


16


bền vững cho người lao động; có những quy định về các giải pháp cụ thể của Nhà
nước.
Thứ hai, cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng thể về
tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững. chủ động phát triển có
tổ chức các thị trường lao động có nhiều tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là thị
trường lao động chất lượng cao về kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển, công nghệ thông
tin và xuất khẩu lao động.
Để nâng cao hiệu lực của chính sách việc làm cần có sự phối hợp đồng bộ các cấp,
ngành và địa phương có liên quan; tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính
sách, phát hiện những hạn chế, những ách tắc để xử lý kịp thời, qua đó để các chính
sách đi vào cuộc sống có hiệu quả hơn.
Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm. Hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc
làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao
động. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu việc làm, giữa
trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
Thứ ba, chính sách việc làm cần được thực hiện trong đồng bộ và đồng thời, thậm chí
đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác. Đặc biệt, công tác đào tạo nghề cần
bám sát nhu cầu thị trường và đi trước, đón đầu các quy hoạch phát triển kinh tế- xã
hội ở các địa phương, nhất là những địa bàn có tốc độ đô thị hóa và tốc độ tái cấu trúc
kinh tế-xã hội nhanh.
Sớm bổ sung các chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý phát triển nguồn
nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như kinh tế nông nghiệp sử dụng công nghệ cao,
kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật, cũng như khai
thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước sau khi kết thúc hợp đồng lao
động ở nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường áp lực cao để người lao động Việt
Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, manh mún,

được học tập và rèn luyện trong các trường dạy nghề trọng điểm chất lượng cao,

17


trường đại học đẳng cấp quốc tế, được quản lý theo mục tiêu bảo đảm chất lượng đào
tạo và gắn với nhu cầu của xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi phát triển sản
xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ưu tiên cho người nghèo, người dân tộc thiểu số
thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn. Tiếp tục thực hiện chiến
lược, các chương trình, đề án về việc làm và dạy nghề, khẩn trương nghiên cứu xây
dựng chương trình việc làm cho người thất nghiệp, thiếu việc làm.
Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự, tránh hình thức và
lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào tạo nghề, cần bảo đảm đầu tư
đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề, tránh tư tưởng bình quân chủ nghĩa như kiểu
“phát chẩn”, cửu đói. Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền, linh hoạt và
thiết thực về nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng học
nghề, cũng như gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa phương, để các đối
tượng lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng núi không bị lúng túng
trong việc xác định nghề học, sắp xếp thời gian học. Hơn nữa, cần chú ý dạy nghề theo
hướng tạo việc làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công
nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn
theo tinh thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt
nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công
việc, thu nhập ngay tại quê nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế
lên các đô thị.
Thứ tư, chính sách việc làm phải phát huy được các nguồn lực của xã hội vào việc tạo
việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp
và các tổ chức cho đào tạo nâng cao trình độ người lao động. Thực hiện các cơ chế,

chính sách ưu đãi (gồm những giải pháp ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ
về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào tạo nhân lực chất lượng cao thuộc ngành
nghề mũi nhọn) để khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với
các hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân
lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để đào tạo

18


nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã hội. Huy động các nguồn vốn của dân
để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, tổ chức các loại quỹ khuyến học, khuyến tài...
Trên đây là những giải pháp cơ bản cần được tiến hành đồng bộ và có hiệu quả nhất
với sự nỗ lực của toàn xã hội, của toàn hệ thống chính trị trong quá trình thực hiện
chính sách lao động, việc làm của nước ta trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu cơ
cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để phát triển nền kinh tế nước ta,
hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
3.2 Về phía ngành giáo dục đào tạo :
Giáo dục đào tạo là nền tảng là cở sở cho ra lò những lao động có kĩ năng, có tay nghề
cao, chuyên môn giỏi. Vì vậy bản thân giáo dục đào tạo cũng cần phải đổi mới từng
năm để nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao khả năng của sinh viên ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường để sau khi ra trường sinh viên có đủ khả năng đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của công việc. Việt Nam đã, đang và sẽ đào tạo một khối
lượng lớn sinh viên, chính vì vậy mà ngành giáo dục đào tạo là một yếu tố cực kì quan
trọng là mầm mống cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Bên cạnh đó nhà nước và bộ giáo dục cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau thúc
đẩy tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển, tính toán để vân đối tỷ lệ hợp lí giữa các
ngành nghề đào tạo, đưa ra những lời khuyên hợp lí cho giáo dục và bản thân sinh viên
về nghề nghiệp lựa chọn để đáp ứng được nhu cầu thực tế, tránh hiện tượng chỗ thừa
chỗ thiếu nguồn lao động. Nhà nước nên tạo điều kiện cả về mặt vật chất cũng như

tinh thần cho ngành giáo dục đào tạo được phát triển toàn diện hơn. Muốn sinh viên ra
trường có kĩ năng lao động, chuyên môn cao thì ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường cần được hưởng những điều kiện tốt hơn như:cơ sở hạ tầng-vật chất của các
trường cần được đổi mới và trang bị đầy đủ để sinh viên vừa học vừa thực hành.
Nhưng muốn vậy thì cần phải có sự ủng hộ, trợ giúp rat nhiều của nhà nước cả về
chính sách cũng như chi phí trợ cấp, đó là về vật chất cơ cấu đào tạo tổ chức còm về
chất lượng lao động thì sao? Nhà nước và giáo dục đào tạo cần có những biện pháp
khắc phục vấn đề ‘ chùa thầy” đang phổ biến hiện nay, chạy điểm, thực hiện nghiêm
chỉnh chỉ thị chống bệnh thành tích theo đúng nghĩa của nó.

19


Ngành đào tạo cũng nêm có mối liên hệ với thị trường lao động để luôn cập nhật
những thông tin về xu hướng nhu cầu làm việc để đào tạo cho phù hợp cả về chất
lượng cũng như số lượng.
3.3 Về phía bản thân sinh viên :
Đầu tiên chúng ta cần nên nhắc tới là bản thân sinh viên khi còn học ở trường THPT
chưa có sự định hướng cho khả năng của đầu ra và khả năng của bản thân mình và cha
mẹ sinh viên cũng không có sự định hướng đúng đắn cho con em mình mà khi chọn
trường như một cái “ mốt” với những ngành nghề đang nổi có tiếng tăm như học viện
tài chính, học viện ngân hàng, kinh tế quốc dân... Đây là một tư tưởng tiêu cực ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình kinh tế xã hội và gây ra sự mất cân bằng cán cân về nguồn
lực lao động. Và tại tâm lý hiện nay của nhiều bậc phụ huynh luôn bắt buộc con em
mình học ở những trường có tiếng, cầm một tấm bằng trong tay là điều kiện rất quan
trọng để xin vào các công ty có công việc tốt nhất, nhưng họ cần biết rằng muốn leo
lên một đỉnh cao không cần thiết phải lên bằng con đường đại học mà có thể leo lên
bằng nhiều con đường khác, sự nghiệp thành công có thể đạt được bằng nhiều con
đường khác,nhiều nhà tỷ phú họ không hề học đại học nhưng họ vẫn rất thành công và
giàu có. Vì vậy, đại học không phải là con đường duy nhất để lập nghiệp, chính vì vậy

mà bản thân sinh viên và gia đình nên xem xét cách nhìn nhận sự lựa chọn của mình
đac đúng đắn, hợp lí hơn để lựa chọn cho con mình một ngành nghề phù hợp với khả
năng của bản thân, với hoàn cảnh gia đình... Như vậy, người lao động sẽ làm việc tích
cực hơn, hiệu quả hơn, bên tuyển dụng lao động sẽ có người có trình độ chuyên môn
cao, phù hợp với năng lực và đòi hỏi của công việc.
III. Kết luận:
Việt Nam là nước có cơ cấu dân số tương đối trẻ, đây là một thế mạnh rất lớn để thực
hiện mục tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” dựa trên lợi thế và tiềm năng của nguồn
nhân lực để phát triển đất nước. Có thể thấy việc tạo công ăn việc làm cho người lao
động nói chung và sinh viên sau tốt nghiệp nói riêng không phải là vấn đề của riêng ai.
Tuy nhiên, điều đó không thể giải quyết được trong một sớm một chiều, mà đây là vấn

20


đề xuyên suốt của xã hội từ thời kì này qua thời kì khác cần được Nhà nước quan tâm
và giải quyết.
Để giải quyết được bài toán về chính sách xã hội đối với sinh viên thất nghiệp. Trước
hết, cần quan tâm hơn đến chất lượng giáo dục chống thành tích gian lận trong thi cử,
học thật thi thật của bậc đại học, cao đẳng mà đầu tiên là ở chất lượng đầu vào. Giáo
dục đại học cần hướng tới năng lực và kĩ năng mà sinh viên thu nạp được sau bốn năm
học. Cần phải có sự gắn kết giữa đào tạo nguồn nhân lực và nhu cầu của xã hội. Phải
xác định rõ các doanh nghiêp, nhà tuyển dụng cần gì, để hướng tới mục tiêu đào tạo.
Việc đào tạo đại học, cao đẳng cần mang tính ứng dụng thực tế, tránh tình trạng sinh
viên sau khi ra trường vẫn chỉ có một lượng kiến thức lý thuyết mà chưa biết áp dụng
như thế nào? Để làm được điều đó, theo tôi, nên tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp
xúc trực tiếp với công việc thực tiễn của các doanh nghiệp, tổ chức nhiều hơn. Phải có
sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, nhà trường nên dựa vào nhu cầu tuyển
dụng trong tương lai của doanh nghiệp để đề ra chỉ tiêu tuyển sinh.
Tóm lại, tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và sinh viên sau tốt

nghiệp nói riêng là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, điều đó không
thể giải quyết trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên suốt của xã hội từ
thời kì này qua thời kì khác, cần được Nhà nước quan tâm giải quyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
Lưu Quang Tuấn, Lao động-việc làm năm 2011 và triển vọng năm 2012, Viện Khao học lao động và
xã hội, , 2012.
Phạm Lan Hương (2010), "Các vấn đề về quan hệ lao động trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế", Lao động và xã hội, (386), trang 47-48.
Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân. Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
Tổng cục Thống kê, Điều tra lao động và việc làm Việt Nam, 2011.
Trần Việt Tiến, “Chính sách việc làm ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng hoàn thiện”, Tạp chí
Kinh tế phát triển số 181, tháng 7/2012, trang 40-47.
Trung tâm Quốc gia Dự báo và Thông tin thị trường lao động, Cục Việc làm, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, Xu hướng việc làm Việt Nam 2010, Hà Nội, tháng 10/2010.
TS. Nguyễn Minh Phong,Chính sách lao động - việc làm nhìn từ góc độ kinh tế vĩ mô, Tạp chí Tài
chính Điện tử số 96 ngày 15/6/2011.

21


Viện Khoa học lao động và xã hội, Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Báo cáo xu hướng lao động
và xã hội thời kỳ 2000-2010, Hà Nội, tháng 3/2011.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo xu hướng lao động
và xã hội thời kỳ 2000-2010,Hà Nội, tháng 3/2011.

22




×