Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chức năng hô hấp (vận chuyển CO2 và oxi) và điều hòa nội môi (ph và suất thẩm thấu) của máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.71 KB, 17 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ..........................................................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...........................................................................................................................................2
2.1 Tìm hiểu quá trình tạo máu....................................................................................................................2
2.1.1 Cơ quan tạo máu......................................................................................................................................2
2.2 Chức năng của hô hấp của máu..............................................................................................................5
2.2.1 Hồng cầu...................................................................................................................................................5
* Hình dạng - cấu trúc..................................................................................................................................... 5
* Chức năng.................................................................................................................................................... 6

2.2.2. Sự sinh sản hồng cầu.............................................................................................................................10
2.3.3 Hệ đệm của máu....................................................................................................................................13
PHẦN III: KẾT LUẬN..........................................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................................17

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Máu là một mô liên kết lỏng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ thể chúng ta, là một
phần không thể thiếu của cơ thể con người. Máu được vận chuyển qua các đông mạch
và mao mạch và đi khắp cơ thể. Trong công tác chăm sóc sức khoẻ, máu đặc biệt được
quan tâm vì có nhiều xét nghiệm chẩn đoán được thực hiện trên máu.
Máu được cấu tạo bởi huyết tương và thành phần hữu hình. Huyết tương là
thành phần dịch chiếm 55-60%, huyết tương gồm nước và các chất hoà tan, trong đó
chủ yếu là các loại protein, ngoài ra còn có các chất điện giải, chất dinh dưỡng, enzym,
hormon, khí và các chất thải. Thành phần hữu hình chiếm 40-45%, gồm hồng cầu,
bạch cầu và tiểu cầu.

1


Sự hiện diện của các thành phần hữu hình và protein làm máu có độ quánh gấp
năm lần so với nước. Máu có độ pH khoảng 7,35-7,4, tùy thuộc vào lượng CO 2 trong
máu. Về khối lượng, máu chiếm khoảng 8% so với toàn cơ thể.


Máu lưu thông trong hệ mạch và có ba chức năng chính như sau: Chức năng
vận chuyển, máu vận chuyển khí O2 và khí CO2, vận chuyển chất dinh dưỡng, các sản
phẩm đào thải, vận chuyển hormon từ tuyến nội tiết đến các tế bào đích, ngoài ra máu
còn vận chuyển nhiệt.
Chức năng bảo vệ, máu có thể chống lại các vi sinh vật gây bệnh và các độc tố.
Có thể chống mất máu khi tổn thương thành mạch nhờ quá trình cầm máu.
Chức năng điều hoà, máu tham gia điều hoà pH nội môi thông qua hệ thống
đệm của nó. Điều hoà lượng nước trong tế bào thông qua áp suất thẩm thấu keo của
máu. Máu còn tham gia điều nhiệt.
Cấu tạo của máu liên quan đến chức năng của nó, bài tiểu luận này sẽ đi sâu về
tìm hiểu “chức năng hô hấp (vận chuyển CO2 và Oxi) và điều hòa nội môi (pH và
suất thẩm thấu) của máu”

PHẦN II: NỘI DUNG
2.1 Tìm hiểu quá trình tạo máu
2.1.1 Cơ quan tạo máu
Trong suốt thời kỳ phôi thai, lần lượt túi noãn hoàng, gan, lách, tuyến ức, hạch
bạch huyết và tuỷ xương tham gia hình thành các tế bào máu. Tuy nhiên, sau khi sinh
quá trình tạo máu chỉ xảy ra ở tuỷ xương.
Dưới 5 tuổi, tuỷ của tất cả các loại xương đều là tuỷ đỏ, nghĩa là đều có khả
năng tạo máu. Sau lứa tuổi này, các tuỷ xương dài (trừ hai đầu xương cánh tay và
xương đùi) bị mỡ xâm lấn dần và từ tuổi hai mươi trở đi chúng hoàn toàn trở thành tuỷ
vàng không tham gia tạo máu nữa. Như vậy sau 20 tuổi, chỉ có tuỷ xương dẹt và hai

2


đầu xương đùi, hai đầu xương cánh tay tham gia tạo máu.
Tuỷ xương chứa các tế bào gốc tạo máu đa năng (pluripotential hemopoietic
stem cell). Các tế bào này sinh sản liên tục trong suốt cuộc đời. Một phần nhỏ sẽ được

giữ lại như là các tế bào nguồn, tuy rằng số lượng sẽ giảm dần theo tuổi. Phần lớn
được biệt hoá thành các tế bào máu khác nhau.
2.1.2 Quá trình biệt hoá
Các tế bào gốc tạo máu đa năng được biệt hoá thành các loại tế bào gốc biệt hoá
(committed stem cell). Quá trình sinh sản và biệt hoá tiếp tục để tạo thành mỗi loại tế
bào máu sẽ diễn ra qua nhiều giai đoạn. Các quá trình này cần sự tham gia của các
chất kích thích khác nhau như:
- Erythropoietin (EPO): kích thích tạo hồng cầu.
- Thrombopoietin (TPO): kích thích tạo tiểu cầu.
- Các yếu tố kích thích tạo cụm (CSFs: colony-stimulating factors) và các interleukin
(IL): kích thích tạo bạch cầu, riêng IL-3 có tác dụng tăng sinh sản tất cả các loại tế bào
gốc.
- Yếu tố tế bào gốc (SCF: stem cell factor): kích thích sự sinh sản của các tế bào
gốc biệt hoá, nó có hiệu quả lên nhiều dòng tế bào.

3


Hình 1: Quá trình biệt hoá các dòng tế bào máu
2.1.3 Thành phần của máu
Máu có hai thành phần chính là các tế bào và huyết tương. Các chức năng của
hai thành phần này đôi khi phân biệt và đôi khi được chia sẻ bởi cả hai. Những thành
phần của huyết tương (hay huyết thanh - huyết tương đã loại bỏ fibrinogen sau khi làm
cho máu đông) bao gồm một số giới hạn các ion vô cơ và một thành phần rộng các
hợp chất hữu cơ liên hệ phần lớn đến các chức năng trao đổi chất. Thành phần tế bào
bao gồm các tế bào riêng biệt có hình thái và các chức năng khác nhau.
Các tế bào máu trưởng thành có thể được xác định bởi hình thái và các đặc
trưng bắt màu thuốc nhuộm khi quan sát dưới kính hiển vi quang học. Các tế bào hồng

4



cầu (erythrocyte hay tế bào máu đỏ, red blood cell) có nhân, chiếm ưu thế về số lượng
và ổn định về kích thước, được sử dụng như một công cụ đo lường thuận tiện cho việc
tính toán kích thước của các tế bào khác. Ngoài việc đo lường kích thước bên ngoài
các tế bào, chúng cũng được đặc trưng bởi tỉ lệ thể tích nhân trên thể tích tế bào.
Ngoài các tế bào hồng cầu, các loại tế bào máu chính khác bao gồm bạch cầu
(leukocyte) và tiểu cầu (thrombocyte). Các tế bào bạch cầu tiêu biểu có nhân tương
đối lớn và tế bào chất ít, và cũng được phân thành các nhóm bạch cầu không hạt
(lymphocyte và monocyte) và bạch cầu có hạt (acidophile, neutrophile và basophile).
Các tế bào tiểu cầu chưa trưởng thành trông giống như các lymphocyte, và có thể dẫn
xuất từ các lymphocyte, nhưng thay đổi trong quá trình phát triển thành các tế bào
oval. Nhìn chung tế bào tiểu cầu nhỏ hơn lymphocyte và có nhân cũng nhỏ hơn.
2.1.4 Chức năng chung của hệ thống tuần hoàn
Hệ thống tuần hoàn phục vụ cho nhiều chức năng nhưng tổng quát nhất là vận
chuyển, bao gồm vận chuyển các chất khí giữa các mô và các mang và vận chuyển
lactate từ các mô đến mang và gan và rồi vận chuyển glucose trở lại các mô. Các vật
chất ngoại lai được vận chuyển đến thận nơi mà các thành phần hòa tan được bài tiết
và thành phần tế bào bị thực bào. Sự hiện diện các chất này cũng dẫn đến sản sinh ra
các kháng thể được vận chuyển trở lại hệ thống tuần hoàn. Các sản phẩm của quá
trình tiêu hóa được vận chuyển từ ruột đến gan và rồi đến những phần còn lại của cơ
thể. Các tế bào máu cũng di chuyển từ nơi được tạo thành đến tất cả các phần của cơ
thể. Các yếu tố đông máu và thrombocyte, kết hợp ở bất kỳ vị trí tổn thương nào để bịt
kín vết thương, được đưa vào hệ tuần hoàn mà không ngăn cản chính các mao mạch.
2.2 Chức năng của hô hấp của máu
2.2.1 Hồng cầu
* Hình dạng - cấu trúc
Hồng cầu chiếm hơn 99% trong các thành phần hữu hình của máu. Đó là những
tế bào có hình đĩa hai mặt lõm, đường kính 7-8mm, bề dày phần ngoại vi 2-2,5 mm và
phần trung tâm 1 mm, thể tích trung bình 90-95 mm3. Hình dạng này có hai lợi điểm


5


như sau:
Tăng diện tích bề mặt tiếp xúc làm tăng khả năng khuếch tán khí thêm 30% so
với hồng cầu cùng thể tích mà có dạng hình cầu.
Làm cho hồng cầu trở nên cực kỳ mềm dẽo, có thể đi qua các mao mạch hẹp mà
không gây tổn thương mao mạch cũng như bản thân hồng cầu.
Tóm lại, có thể nói cấu trúc của Hồng cầu trong máu đặc biệt thích ứng với
chức năng của nó là vận chuyển khí oxy theo máu đi khắp cơ thể.
Hồng cầu có chứa huyết sắc tố (HST) làm nhiệm vụ gắn kết ở 2 lá phổi, hồng
cầu vận chuyển khí Oxi tới các tổ chức, cơ quan trong cơ thể người, sau đó tiếp tục
phối hợp với huyết tương trong máu để vận chuyển C02 đào thải ra ngoài qua phổi.
Hồng cầu có khả năng sống trong 120 ngày kể từ lúc trưởng thành. Hồng cầu sau khi
chết đi sẽ tiêu huỷ ở lách và các tổ chức liên võng khác trong cơ thể.
Hồng cầu không có nhân cũng như các bào quan, thành phần chính của hồng
cầu là hemoglobin (Hb), chiếm 34% trọng lượng (nồng độ 34 g/dl trong dịch bào
tương). Cấu trúc của hồng cầu đặc biệt thích ứng với chức năng vận chuyển khí oxy.
* Thành phần cấu tạo nên Hồng cầu:
Hai thành phần chính và được nghiên cứu tới nhiều nhất đó là Màng hồng cầu
và Hemoglobin. Đây cũng là 2 thành phần quan trọng nhất của Hồng Cầu. Màng hồng
cầu là yếu tố mang nhiều kháng nguyên nhóm máu. Hemoglobin là thành phần có tác
dụng trong việc vận chuyển Oxi và CO2 trong máu.
Thành phần cụ thể của hồng cầu bao gồm: 63-67% là nước , chất khô chiếm 3337% trong đó: Protein là 28%; các chất khác bao gồm có nitơ 0,2%, ure 0,02%, glucid
0,075%, lipid và lecithin, cholesterol 0,3%.
Hemoglobin trong Hồng Cầu (Hb) là thành phần chính, chiếm 34% trọng lượng
của Hồng Cầu (nồng độ 34 g/dl), cấu trúc của Hồng Cầu được cho là rất đặc biệt với
nhiều thành phần khác nhau cấu tạo nên.
* Chức năng

Chức năng chủ yếu của hồng cầu là vận chuyển oxy tới các tổ chức. Ngoài ra

6


hồng cầu còn có các chức năng sau: vận chuyển một phần CO 2 (nhờ hemoglobin),
giúp huyết tương vận chuyển CO 2 (nhờ enzym carbonic anhydrase), điều hoà cân bằng
toan kiềm nhờ tác dụng đệm của hemoglobin.

Hình 2: câu tạo của hồng cầu
- Cấu trúc của hemoglobin
Hemoglobin còn gọi huyết sắc tố, đó là chromoprotein gồm hai thành phần là
nhân heme và globin.
Hình 3: Cấu tạo phân tử hemoglobin

Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe 2+ chính
giữa. Một phân tử hemoglobin có bốn nhân heme, chiếm 5%. Globin là một protein
gồm bốn chuỗi polypeptid giống nhau từng đôi một. Hemoglobin người bình thường
là HbA gồm hai chuỗi a và hai chuỗi b. Hemoglobin thời kỳ bào thai là HbF gồm hai
chuỗi a và hai chuỗi g.

7


Sự bất thường của các chuỗi globin sẽ làm thay đổi đặc điểm sinh lý của phân
tử Hb. Ví dụ, trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, acid amin valin thay thế cho
glutamic tại một vị trí trong mỗi chuỗi b làm HbA trở thành HbS.
- Chức năng hemoglobin trong vận chuyển khí

+ Vận chuyển khí O2

Hồng cầu vận chuyển khí Oxy từ phổi đến các cơ quan và bộ phận trên cơ thể
nhờ phản ứng sau
Hb + O2 → HbO2 (oxyhemoglobin)
Trong đó O2 được gắn lỏng lẻo với Fe2+. Đây là phản ứng thuận nghịch, chiều
phản ứng do phân áp O2 quyết định. Trong phân tử Hb, O 2 không bị ion hoá mà nó
được vận chuyển dưới dạng phân tử O2.
+ Khi hít phải không khí nhiều CO (carbon monoxide), hemoglobin sẽ kết hợp
CO để tạo ra carboxyhemoglobin theo phản ứng:
Hb + CO→HbCO
Ái lực của Hb đối với CO gấp hơn 200 lần đối với O 2, vì vậy một khi đã kết hợp
với CO thì Hb không còn khả năng vận chuyển O 2 nữa. Dấu hiệu đầu tiên là da đỏ
sáng, bệnh nhân rơi vào trạng thái kích thích, rồi buồn ngủ, hôn mê và tử vong. Khí
CO thường được sinh ra khi đốt cháy nhiên liệu không hoàn toàn. Điều trị bằng cách
đưa bệnh nhân ra khỏi môi trường nhiều CO, đồng thời cho thở O 2. LượngCO trong
không khí là chỉ số đo mức độ ô nhiễm môi trường.

8


+ Khi máu tiếp xúc với những thuốc hoặc hoá chất có tính oxy hoá, Fe 2+ trong
nhân heme chuyển thành Fe3+ và hemoglobin trở thành methemoglobin không còn khả
năng vận chuyển O2. Methemoglobin khi hiện diện trong máu nhiều sẽ gây triệu chứng
xanh tím. Tình trạng này xảy ra khi ngộ độc một số dẫn chất của anilin, sulfonamide,
phenacetin, nitroglycerin, nitrate trong thực phẩm...
*Vận chuyển khí CO2
Hồng cầu vận chuyển CO2 từ tổ chức về phổi theo phản ứng sau:
Hb + CO2 ⇔ HbCO2 (Carbaminohemoglobin)
CO2 trên các bộ phận được gắn với nhóm NH2 của Globin. Ðây cũng là phản
ứng thuận nghịch, chiều phản ứng do phân áp CO2 quyết định. HbCO2 có màu đỏ
thẫm, đặc trưng cho màu máu của tĩnh mạch. Chỉ khoảng 20% CO2 được vận chuyển

dưới hình thức này, còn lại là do muối kiềm của huyết tương vận chuyển.

Hình 4: Sơ đồ của dòng chảy của máu thông qua hệ thống tuần hoàn, cho thấy các
trao đổi O2 / CO2 trong cơ thể
(1) Máu giàu carbon dioxide được bơm từ tim vào phổi qua các động mạch phổi.

9


(Động mạch là mạch máu mang máu ra khỏi tim, tĩnh mạch là mạch máu mang máu
đến tim.)
(2)Trong phổi, CO2 trong máu được trao đổi với O2
(3) Máu giàu oxy được đưa trở lại tim thông qua tĩnh mạch phổi
(4)Máu giàu oxy này sau đó được bơm từ tim đến nhiều mô và cơ quan của cơ thể,
thông qua các hệ thống động mạch.
(5) Trong các mô, các động mạch thu hẹp thành các mao mạch nhỏ. Ở đây, O2 trong
máu được trao đổi với CO2.
(6)Các mao mạch mở rộng vào hệ thống tĩnh mạch, mang máu giàu carbon dioxide trở
lại tim.
2.2.2. Sự sinh sản hồng cầu
*Quá trình biệt hoá dòng hồng cầu

Sơ đồ 1: Quá trình biệt hoá dòng hồng cầu
Tiền nguyên hồng cầu là tế bào đầu tiên của dòng hồng cầu mà chúng ta nhận
dạng được. Quá trình biệt hoá từ tiền nguyên hồng cầu diễn ra theo sơ đồ 1.
Các giai đoạn từ tế bào gốc đến hồng cầu lưới diễn ra trong tuỷ xương, sau đó
hồng cầu lưới được phóng thích ra máu ngoại vi 24-48 giờ thì mạng lưới biến mất và
trở thành hồng cầu trưởng thành. Tỷ lệ hồng cầu lưới trong máu ngoại vi không quá

10



1%. Tỷ lệ này cho phép đánh giá tốc độ sinh hồng cầu của tuỷ xương sau liệu trình
điều trị thiếu máu hoặc sau khi bị mất máu cấp.
Sự tổng hợp hemoglobin xảy ra từ giai đoạn tiền nguyên hồng cầu và ngày càng
tăng dần. Đến giai đoạn nguyên hồng cầu ưa acid thì đạt mức bão hoà.
*Sự điều hoà sinh sản hồng cầu
Số lượng hồng cầu trong hệ thống tuần hoàn được điều hoà chặt chẽ để nó chỉ
thay đổi trong một phạm vi hẹp. Số lượng hồng cầu phải đảm bảo hai yêu cầu sau:
- Đủ cung cấp oxy cho tổ chức.
- Không quá nhiều để tránh cản trở sự lưu thông máu.
Nồng độ oxy tổ chức là yếu tố chính kiểm soát tốc độ sinh hồng cầu. Tốc độ
sinh hồng cầu sẽ tăng trong những trường hợp lượng oxy vận chuyển đến tổ chức
không đáp ứng đủ nhu cầu của tổ chức và ngược lại. Tốc độ sinh hồng cầu sẽ tăng
trong các trường hợp sau:
- Khi thiếu máu do mất máu, tuỷ xương sẽ tăng sinh sản hồng cầu. Ngoài ra,
Ở những người bị thương tổn tuỷ xương một phần do liệu pháp tia X chẳng hạn, phần
tuỷ xương còn lại sẽ tăng sinh sản hồng cầu để đáp ứng nhu cầu cơ thể.
- Những người sống ở vùng cao.
- Các trường hợp suy tim kéo dài hoặc những bệnh phổi mạn tính.
Yếu tố kích thích sinh sản hồng cầu là nội tiết tố erythropoietin. Ở người bình
thường, 90% erythropoietin do thận tiết ra, phần còn lại chủ yếu do gan sản xuất. Khi
thiếu oxy tổ chức, erythropoietin sẽ được tăng tiết trong máu và chính nó đã thúc đẩy
quá trình tạo tiền nguyên hồng cầu từ tế bào gốc tạo máu trong tuỷ xương. Khi tiền
nguyên hồng cầu đã được hình thành thì erythropoietin lại thúc đẩy nó nhanh chóng
chuyển qua các giai đoạn nguyên hồng cầu để hình thành hồng cầu trưởng thành.
Ngoài ra erythropoietin còn tăng tổng hợp Hb trong nguyên hồng cầu và tăng vận
chuyển hồng cầu lưới ra máu ngoại vi.
2.2.3 Sức đề kháng của hồng cầu
Trong điều kiện sống bình thường, áp suất thẩm thấu bên trong hồng cầu


11


bằng với áp suất thẩm thấu của huyết tương nên hồng cầu giữ được hình dạng và kích
thước nhất định. Nếu cho hồng cầu vào dung dịch ưu trương (ASTT cao) thì hồng cầu
sẽ bị mất nước teo lại; ngược lại nếu cho hồng cầu vào dung dịch nhược trương
(ASTT thấp) thì hồng cầu sẽ hút nước trương to ra. Nếu trương to quá mức hồng cầu
sẽ vỡ ra các chất bên trong hồng cầu sẽ tan vào trong dung dịch. Hiện tượng này gọi là
sự tan máu. Ðể trắc định sức đề kháng của hồng cầu có thể dùng các dung dịch NaCl
nhược trương với các nồng độ khác nhau. Cho vào các dung dịch NaCl một giọt máu,
để yên một thời gian ghi nhận nồng độ NaCl lúc bắt đầu xuất hiện hiện tượng tan máu
– sức đề kháng
2.3 Chức năng điều hòa nội môi của Máu
Máu là nguồn gốc tạo các dịch lỏng khác như dịch bạch huyết, dịch kẽ tế bào,
dịch não tủy, dịch màng bụng, màng phổi, màng khớp…Tất cả các dịch đó tạo thành
nội môi, trong đó máu là thành phần quan trọng nhất. Máu và bạch huyết có những
tính chất lí – hoá tương đối ổn định, nhờ đó hoạt động của các cơ quan trong cơ thể
được đảm bảo, ít bị ảnh hưởng trước những thay đổi của môi trường.
2.3.1 Áp suất thẩm thấu của máu (thẩm áp)
Áp suất thẩm thấu của máu là sức thấm qua của nước và những chất hòa tan
trong nước của huyết tương từ máu qua mạch máu vào gian bào và ngược lại, cũng
như sức thấm qua của nước và chất hòa tan từ huyết tương đi vào và đi ra qua màng
hồng cầu.
Áp suất thẩm thấu (ASTT) của máu phụ thuộc vào hai yếu tố chính là lượng
khoáng hoà tan trong máu, khoảng 0,9 – 1,0% (gọi là áp suất thẩm thấu tinh thể) và
lượng protein hoà tan trong huyết tương (gọi là áp suất keo, trị số khoảng 25 mmHg).
Áp suất keo tuy nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc giữ và trao đổi nước
giữa mao mạch và mô, do đó nó quyết định sự phân phối nước cho cơ thể.
Ở người, trong điều kiện bình thường, ASTT của máu toàn phần khoảng 7,6 –

8,1 atmotphe (at). Sự ổn định ASTT máu có ý nghĩa sinh lý quan trọng, đảm bảo cho
hồng cầu thực hiện chức năng sinh lí. Nếu ASTT của hồng cầu và huyết tương bằng

12


nhau thì hồng cầu giữ nguyên hình dạng và kích thước. Trong dung dịch nhược
trương, có ASTT thấp hơn ASTT của hồng cầu, nước sẽ thấm vào trong hồng cầu làm
vỡ hồng cầu. Trong dung dịch ưu trương, có ASTT cao hơn ASTT của hồng cầu, nước
trong hồng cầu sẽ thấm ra ngoài, hồng cầu bị teo lại và cũng bị hủy. Như vậy trong cả
hai trường hợp máu đều bị phá hủy, đó là hiện tượng tiêu huyết. Hiện tượng tiêu huyết
còn xảy ra khi máu tiếp xúc với clorofooc, ether, cồn, tia cực tím, tia X, các chất
phóng xạ, độc tố của vi trùng, giun sán, nọc nhện, ong, bọ cạp, rắn độc…
2.3.2. Độ pH của máu
Máu tham gia điều hoà pH nội môi thông qua hệ thống đệm của nó. Độ pH của máu
dao động trong khoảng 7,35 – 7,39. Nó là chỉ số ổn định. Sự thay đổi nhiệt độ cơ thể
không làm thay đổi pH của máu. Sự ổn định pH của máu đảm bảo cho sự hoạt động
của hồng cầu và của các cơ quan ít bị biến đổi. Chỉ cần thay đổi pH ± 0,2 có thể gây
rối loạn hoạt động cơ thể và có thể tử vong.
Độ pH của máu phụ thuộc vào nồng độ ion H+ và ion OH-, nghĩa là phụ thuộc
vào sự cân bằng axít – bazơ trong máu. Quá trình trao đổi chất luôn biến động liên tục,
nên nồng độ ion H+ và ion OH- cũng biến động. Nhưng pH của máu luôn ổn định, đó
là nhờ hệ đệm trong máu.
2.3.3 Hệ đệm của máu
Chất đệm là chất có khả năng lấy đi ion H + hoặc ion OH-, khi các ion này xuất
hiện trong dung dịch làm cho pH của dung dịch thay đổi rất ít.
Hệ đệm của máu gồm nhiều đôi đệm. Mỗi đôi đệm do một axít yếu và một
muối kiềm mạnh, hoặc một muối mono axit và muối đi axit tạo nên.
Hệ đệm máu được hình thành ngay trong tháng đầu sau khi sinh. Nhờ hệ đệm
mà độ pH trong máu luôn được ổn định. Tuy nhiên khả năng đệm của máu cũng có

một giới hạn nhất định. Nếu hàm lượng axit hoặc kiềm trong máu tăng quá cao sẽ làm
cho cơ thể trúng độc. Trong máu có nhiều đôi đệm, trong đó có 3 hệ đệm quan trọng là
hệ đệm bicacbonat, hệ đệm photphat, hệ đệm protein.
+ Hệ đệm bicacbonat: Ðây là hệ thống đệm quan trọng trong máu vì có số lượng

13


tương đối nhiều.
Hệ đệm bicacbonat chiếm khoảng 7- 9% khả năng đệm của máu. Tham gia hệ
đệm này gồm có axit cacbonic với muối kiềm bicacbonat natri hay bicacbonat kali.
Nếu trong các sản phẩm của quá trình trao đổi chất chuyển vào máu chứa nhiều axit
thì sẽ xảy ra phản ứng trung hoà các ion H+ bởi muối bicacbonat, axit cacbonic thừa
sẽ được phổi thông khí ra ngoài vì sự tăng nồng độ H+ sẽ kích thích trung khu hô hấp,
còn nếu trong máu chứa nhiều bazơ thì sẽ xảy ra phản ứng trung hoà các ion OH- bởi
axit cacbonic.
Công thức tổng quát : H2CO3 / B.HCO3 (Trong đó B là ion Na+ hoặc ion K+ )
Ví dụ: axit lactic được tạo ra trong quá trình đường phân đi vào máu, sẽ kết hợp
với NaHCO3 để tạo thành lactatnatri và axit cacbonic. Axit cacbonic là một axit yếu sẽ
được thải ra ngoài qua đường hô hấp
Axit lactic + NaHCO3 => lactat natri + H2CO3
H2CO3 => CO2 + H2O
+ Hệ đệm photphat:
Hệ đệm photphat cũng hoạt động tương tự như hệ đệm bicacbonat nhưng tác dụng yếu
hơn. Tham gia hệ đệm này gồm có muối photphat monoaxit và muối photphat điaxit.
Nếu trong các sản phẩm của quá trình trao đổi chất chuyển vào máu chứa nhiều axit
thì sẽ xảy ra phản ứng trung hoà các ion H+ bởi muối photphat điaxit, còn nếu chứa
nhiều bazơ thì sẽ xảy ra phản ứng trung hoà các ion OH- bởi muối photphat monoaxit
Công thức tổng quát :B.H2PO4 / B2.HPO4 (Trong đó B là ion Na+ hoặc ion K+)
+ Hệ đệm protein (P)

Hệ đệm protein gồm có các loại protein trong huyết tương và hemoglobin, hoặc
oxi hemoglobin trong hồng cầu. Đây là hệ đệm quan trọng nhất trong các hệ đệm của
máu. Chiếm tới 1/6 hệ đệm của máu và chiếm 3/4 lượng axit cacbonic của máu.
Công thức tổng quát: H.P/B.P và H.Hb / B.Hb hay H.HbO2 / B.HbO2 (Trong
đó B là ion Na+ hoặc ion K+)
Phản ứng được biểu thị bằng công thức tổng quát sau:

14


B.P + H2CO3 =>H.P + B.HCO3
Hệ đệm protein có hiệu quả nhất là huyết cầu tố hemoglobin (Hb) chứa trong
hồng cầu. Hb có khả năng đệm gấp 10 lần các protein khác của huyết tương.
H2CO3 trong máu tăng cao sẽ thấm vào hồng cầu và tranh cation của Hb, vốn là
một axit rất yếu, nên biến thành bicacbonat
B.Hb + H2CO3 =>H.Hb + B.HCO3
Khả năng gắn với các cation của hemoglobin lớn gấp 3 lần so với protein huyết
tương và lượng hemoglobin nhiều gấp hơn 3 lần protein huyết tương, nên hệ đệm
hemoglobin lớn gấp 10 lần hệ đệm protein trong huyết tương.
Ðây là hệ đệm quan trọng nhất, trong đó quan trọng hơn cả là hệ đệm
hemoglobin (Hb) của hồng cầu. Hb có khả năng đệm gấp 10 lần các protein khác trong
huyết tương. Nhờ tác dụng của các hệ thống đệm, sự cân bằng acid/kiềm luôn được
giữ ổn định.
Ví dụ, khi acid carbonic sinh ra nhiều sẽ làm pH của máu giảm; khi đó pH của
máu sẽ được giúp ổn định bởi hệ đệm Hb thông qua phản ứng
KHb + H2CO3=> HHb + KHCO3.
HHb có tính acid yếu hơn H2CO3 nên không làm pH máu giảm nhiều
Ngoài ra, sự ổn định của pH máu còn được góp phần bởi tác động của hệ thống
thần kinh trung ương, cơ quan hô hấp và hoạt động điều hòa ion H+ của thận.
- Tác dụng của hô hấp: khi CO2 trong máu tăng lên, CO2 kết hợp với nước tạo

thành acid carbonic, làm cho pH của máu giảm xuống. Máu với pH thấp khi đến não
kích thích trung khu hô hấp của hệ thần kinh trung ương hoạt động làm tăng cường
thải CO2, do đó giảm lượng H2CO3 trong máu và pH lại được nâng lên. Ngược lại,
nếu pH của máu quá cao, sẽ ức chế trung khu hô hấp của thần kinh trung ương, lượng
CO2 thải ra ngoài sẽ giảm do đó tăng lượng H2CO3 trong máu và pH lại được hạ
xuống.

15


PHẦN III: KẾT LUẬN
- Hồng cầu kết hợp và vận chuyển khí oxi cung cấp cho tế bào và vận chuyển khí CO2
từ tế bào đến phổi để thải ra môi trường bên ngoài
- Đặc điểm cấu tạo của hồng cầu không có nhân, hình đĩa lõm hai mặt, kích thước nhỏ,
số lượng nhiều giúp nó thực hiện chức năng đó.
- Hồng cầu chứa huyết sắc tố còn gọi là Hb. Hb có khả năng kết hợp O2, CO2 tạo nên
hợp chất hemoglobinoxi, cacboxyhemoglobin không bền, theo máu đến tế bào nhường
O2 về phổi và thải CO2 ra ngoài môi trường.
- Hồng cầu có hình đĩa lõm 2 mật không nhân, kích thức nhỏ, số lượng nhiều để làm
tăng diện tích tiếp xúc và khả năng vận chuyển của oxi và cacbonic,
- Hồng cầu không nhân giảm bớt sự tiêu tốn năng lượng khi hoạt động giúp tiết kiệm
nănglượng.
- Hồng cầu thường xuyên được đổi mới trong cơ thể làm duy trì vận chuyển oxi và
cacbonic diễn ra liên tục ở tế bào:

16


- Khí Ôxi: trong mao mạch cao hơn trong tế bào nên ôxi khuếch tán từ máu vào tế bào.
- Khí CO2: trong tế bào cao hơn trong mao mạch nên CO2 khuếch tán từ tế bào vào

máu.
- Máu là nguồn gốc tạo các dịch lỏng khác như dịch bạch huyết, dịch kẽ tế bào, dịch
não tủy, dịch màng bụng, màng phổi, màng khớp…Tất cả các dịch đó tạo thành nội
môi, trong đó máu là thành phần quan trọng nhất. Máu và bạch huyết có những tính
chất lí – hoá tương đối ổn định, nhờ đó hoạt động của các cơ quan trong cơ thể được
đảm bảo, ít bị ảnh hưởng trước những thay đổi của môi trường.
- Cấu trúc tế bào máu phụ thuộc vào ASTT
- Độ pH của máu ổn định là do trong máu có hệ đệm nằm trong hồng cầu và huyết
tương. Tuy nhiên khả năng đệm của máu chỉ có hạn nên cơ thể vẫn có thể trúng độc
axit hoặc kiềm, cơ thể thường xảy ra trúng độc axit hơn trúng độc kiềm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tấn Vui, Bài giảng sinh lý máu, Đại học Tây nguyên
2.Trịnh Bỉnh Dy, (2012) Sinh lý học, NXB Y học Hà nội
3. Kara Rogers (2010), Blood: Physiology and Circulation The Human Body, The
Rosen Publishing Group, Inc.

17



×