Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tư tưởng nguyên đức đạt qua tác phẩm nam sơn tùng thoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

VŨ VĂN THƢỚC

TƢ TƢỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT
QUA TÁC PHẨM “NAM SƠN TÙNG THOẠI”

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Đà Nẵng - Năm 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

VŨ VĂN THƢỚC

TƢ TƢỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT
QUA TÁC PHẨM “NAM SƠN TÙNG THOẠI”

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60 22 03 01

N ƣờ

ƣớn

n

o





TS. TRẦN NGỌC ÁNH

Đà Nẵng - Năm 2017



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 5
5. Bố cục đề tài .......................................................................................... 5
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................... 5
CHƢƠNG 1. NGUYỄN ĐỨC ĐẠT VÀ TÁC PHẨM “NAM SƠN TÙNG
THOẠI”............................................................................................................ 7
1.1. NGUYỄN ĐỨC ĐẠT – THỜI ĐẠI, CON NGƢỜI, SỰ NGHIỆP .......... 7
1.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ................................................. 7
1.1.2. Tình hình văn hóa, giáo dục, tƣ tƣởng .......................................... 18
1.1.3. Nguyễn Đức Đạt - Con ngƣời và sự nghiệp ................................. 21
1.2. TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI ................................................ 25
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời ........................................................................... 25
1.2.2. Khái quát nội dung cơ bản của Nam Sơn tùng thoại .................... 28
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.................................................................................. 31
CHƢƠNG 2. NHỮNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN TRONG TÁC PHẨM
“NAM SƠN TÙNG THOẠI" ....................................................................... 33
2.1. TƢ TƢỞNG VỀ TRIẾT HỌC ................................................................. 33

2.1.1. Quan niệm về mệnh trời................................................................ 33
2.1.2. Quan niệm về Đạo......................................................................... 36
2.1.3. Quan điểm về “vận số” ................................................................. 42
2.2. TƢ TƢỞNG VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI ................................................ 49
2.2.1. Tƣ tƣởng trị nƣớc kết hợp đức trị với pháp trị .............................. 49
2.2.2. Quan niệm về ngƣời cầm quyền ................................................... 54
2.2.3. Tƣ tƣởng thân dân đặc sắc ............................................................ 58


2.2.4. Quan niệm về thuật dùng ngƣời.................................................... 61
2.3. TƢ TƢỞNG VỀ GIÁO DỤC .................................................................. 65
2.3.1. Về vai trò của giáo dục ................................................................. 65
2.3.2. Về phƣơng pháp giáo dục ............................................................. 66
2.4. TƢ TƢỞNG VỀ QUÂN SỰ .................................................................... 72
2.4.1. Tƣ tƣởng về quân sự trong lịch sử phong kiến Việt Nam ............ 72
2.4.2. Tƣ tƣởng quân sự Nguyễn Đức Đạt .............................................. 75
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.................................................................................. 79
CHƢƠNG 3. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƢ TƢỞNG NGUYỄN
ĐỨC ĐẠT QUA “NAM SƠN TÙNG THOẠI”.......................................... 81
3.1. NHỮNG GIÁ TRỊ TƢ TƢỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT QUA “NAM
SƠN TÙNG THOẠI” ..................................................................................... 81
3.1.1. Về thế giới quan ............................................................................ 81
3.1.2. Trên lĩnh vực tƣ tƣởng .................................................................. 83
3.1.3. Trên lĩnh vực giáo dục .................................................................. 85
3.1.4. Trên lĩnh vực chính trị - xã hội ..................................................... 87
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGUYỄN ĐỨC ĐẠT QUA“NAM SƠN
TÙNG THOẠI”............................................................................................... 88
3.2.1. Hạn chế trong khi bàn về vấn đề bản thể của thế giới .................. 89
3.2.2. Hạn chế trong khi bàn về vấn đề về đạo đức ................................ 91
3.2.3. Về tƣ tƣởng về đƣờng lối trị nƣớc ................................................ 92

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3.................................................................................. 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao)
BIÊN BẢN HỌP HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ (Bản sao)
BẢN NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ CỦA PHẢN BIỆN 1 VÀ PHẢN
BIỆN 2 (Bản sao)
BẢN GIẢI TRÌNH CHỈNH SỬA LUẬN VĂN (Bản chính)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết củ đề tài
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Trải qua hơn 30 năm, công cuộc đổi
mới đất nƣớc đã và đang thu đƣợc những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
và toàn diện. Cùng với tăng trƣởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô đƣợc
duy trì, các mặt chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh đƣợc đảm bảo và ổn
định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trƣởng kinh tế, phát triển nguồn
lao động và chất lƣợng lao động, khoa học và công nghệ. Mƣời năm gần
đây, mức sống trung bình của ngƣời dân Việt Nam đã tăng lên, vấn đề xóa
đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội đƣợc coi là mục tiêu chiến lƣợc
quan trọng trong cả trƣớc mắt và lâu dài, điều đó chứng tỏ sự phát triển xã
hội và dân chủ ở Việt Nam đƣợc đặc biệt quan tâm. Để đạt đƣợc những
thành tựu đó, ngoài sức mạnh của khoa học, công nghệ, sức mạnh của thời
đại, chúng ta không thể không kể đến sức mạnh của nội lực của dân tộc,
trong đó có sức mạnh to lớn từ giá trị lịch sử truyền thống tƣ tƣởng của dân

tộc Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu cơ bản các vấn đề tƣ tƣởng dân tộc ta
trong lịch sử, đây là việc làm cần thiết, không chỉ khơi gợi niềm tự hào dân
tộc mà còn kế thừa những tƣ tƣởng tiến bộ góp phần vào công cuộc đổi mới
ở nƣớc ta hiện nay. Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và
kỹ thuật (năm 1981) đã khẳng định “Nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng triết học
dân tộc và sự thắng lợi của tƣ tƣởng triết học Mác - Lênin ở Việt Nam”.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu lịch sử tƣ tƣởng của dân tộc thông qua tƣ tƣởng
triết học của nhiều học giả tiêu biểu là việc làm cần thiết, để thấy đƣợc sự


2

giao thoa văn hóa giữa các nƣớc và khơi dậy niềm tự hào dân tộc. Bên cạnh
đó, nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn Lịch sử
triết học Việt Nam ở các trƣờng Cao đẳng, Đại học, góp phần vào việc
nghiên cứu tƣ tƣởng triết học biểu hiện qua các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong
dòng chảy lịch sử của dân tộc để thấy đƣợc sự phát triển của hệ tƣ tƣởng dân
tộc là điều không thể thiếu.
Trong số những nhà Nho sống và hoạt động vào nửa sau thế kỷ XIX,
Nguyễn Đức Đạt (1823 - 1887) là một gƣơng mặt tiêu biểu. Nguyễn Đức Đạt
không đƣợc biết đến nhƣ là nhà canh tân hoặc ngƣời có nhiệt huyết, có công
trạng đáng kể đối với công cuộc bảo vệ đất nƣớc, mặc dù ông từng tham gia
phong trào Cần vƣơng. Nhƣng ông là ngƣời luôn cố gắng làm sống động lại
các giáo lý Nho giáo trong điều kiện Nho giáo đã không còn đáp ứng đƣợc
các yêu cầu của lịch sử, mà yêu cầu cấp thiết nhất là bảo vệ đất nƣớc. Tuy
vậy, khi làm quan, ông là ngƣời thanh liêm, cƣơng trực, lấy Đức để trị dân, vì
tin tƣởng Đức chiếu sáng đƣợc thiên hạ, làm cho đất nƣớc đƣợc thịnh vƣợng.
Khi dạy học, ông là một ngƣời thầy mô phạm, uyên thâm, đƣợc nhiều ngƣời
ngƣỡng mộ. Ông có khá nhiều môn đệ đã trở thành danh nhân, nhƣ Đinh Văn
Chất, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… Nguyễn Đức Đạt viết khá nhiều,

ông để lại hai tập thơ và tám tập văn, vì vậy ảnh hƣởng của Nguyễn Đức Đạt
trong đời sống học thuật đƣơng thời là khá lớn.
Sinh thời Nguyễn Đức Đạt cũng ôm hoài bão lớn là “kinh bang tế thế”
nhằm giúp nƣớc an dân, thuở nhỏ ông đã nổi tiếng là ngƣời thông minh, học
giỏi và uyên bác về nhiều mặt. Ông thi đỗ cử nhân khoa Đinh Mùi (năm
1847) đến khoa thi Quý Mão đời Tự Đức (năm 1853) ông đỗ đệ nhất giáp tiễn
sĩ (Thám hoa) và đƣợc bổ làm quan ở Viện Tập hiện làm Thị giảng rồi bổ làm
Cấp Sự trung. Tuy nhiên, đƣợc một thời gian ông xin Triều đình về quê mở
trƣờng dạy học và phụng dƣỡng cha mẹ già. Đối với ông dạy học, truyền thụ


3

kiến thức cho học trò là niềm đam mê, là mục đích sống. Do vậy, học trò đến
tìm học ông rất đông đến cả nghìn ngƣời và sau này rất nhiều ngƣời thành đạt.
Năm Tự Đức thứ 16 (năm 1863) Triều đình thấy Nguyễn Đức Đạt có tiếng
trong nghề dạy học nên đã bổ nhiệm ông làm Đốc học Nghệ An. Khi cha mẹ
mất, ông về chịu tang và tiếp tục dạy học. Hết tang, Triều đình triệu ông về
kinh thành Huế, giao cho việc dạy học ở Quốc Tử Giám, sau thăng ông làm
Án sát Thanh Hoá, rồi Tuần phủ Hƣng Yên. Năm Tự Đức thứ 26 (năm 1873),
bốn tỉnh Hà Nội, Hải Dƣơng, Nam Định, Ninh Bình lần lƣợt bị rơi vào tay
thực dân Pháp và sau đó là các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Trong bối cảnh ấy
Nguyễn Đức Đạt cáo quan trở về núi Nam Sơn tiếp tục mở trƣờng dạy học.
Nguyễn Đức Đạt đã để lại một di sản trƣớc tác khá đồ sộ, với đủ các thể
loại thơ văn do ông sáng tác và nghiên cứu. Có thể nói, toàn bộ những tri thức
cao nhất ở nửa đầu thế kỷ XIX đều đƣợc bao quát trong các tác phẩm của
Nguyễn Đức Đạt. Về sử học, ông có tập Việt sử thặng bình, dƣới thể loại vấn
đáp để nêu lên ý kiến của mình về các vấn đề trị loạn, thịnh suy của thời đại.
Bên cạnh đó ông cũng có sở trƣờng về thơ ca. Chỉ riêng tập Hồ dạng thi tập
gồm đến 444 bài theo lối đề vịnh, cảm tác, tỏ rõ trình độ uyên thâm và trí nhớ

phi thƣờng. Với tƣ cách ngƣời thầy, ông đã biên soạn nhiều tác phẩm giáo
khoa. Tuy nhiên bộ sách nổi tiếng nhất, thể hiện rõ quan điểm, tƣ tƣởng và
gắn với tên tuổi của ông là tác phẩm Nam Sơn tùng thoại.
Nam Sơn tùng thoại là bộ gồm 04 quyển sách với 32 thiên, viết theo lối
vấn đáp, phát triển, bàn giải những vấn đề quan trọng trong các sách kinh điển
của Nho gia, đó là vấn đề triết học, chính trị, xã hội, giáo dục đƣơng thời. Qua
tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, ngoài những ý kiến còn chịu ảnh hƣởng của
Khổng, Mạnh, Nguyễn Đức Đạt đã đƣa ra nhiều quan điểm, ý kiến đặc sắc
trên lập trƣờng Nho giáo về các vấn đề đạo đức, chính trị, xã hội nhƣng thể
hiện rõ quan điểm riêng mang tƣ tƣởng tiến bộ, tích cực và chứa đựng nhiều


4

giá trị, phù hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, thể hiện tài
năng và trí tuệ của một danh nhân lỗi lạc.
Từ trƣớc đến nay, tuy đã có một số công trình các cấp, các tạp chí, bài
báo nghiên cứu về nhà tƣ tƣởng Nguyễn Đức Đạt nhƣng hầu nhƣ chƣa có một
nhà nghiên cứu, một tác giả nào có công trình nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc
về tƣ tƣởng của ông. Xét thấy giá trị cũng nhƣ tính hiện đại trong nhiều tƣ
tƣởng của Nguyễn Đức Đạt trong khi những công trình nghiên cứu về ông
còn chƣa nhiều, chỉ dừng lại ở những lát cắt khác nhau, thiếu hệ thống chƣa
xứng đáng với tầm vóc, tƣ tƣởng của ông, chúng tôi nhận thấy, rất cần thiết
phải có một công trình nghiên cứu, ít nhiều mang tính chuyên sâu về tƣ tƣởng
của học giả tiêu biểu này.
Xuất phát từ những lý do đó, việc nghiên cứu Tƣ tƣởng Nguyễn Đức
Đạt qua tác phẩm “N m Sơn tùn t oạ ” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết
học của mình là vấn đề thật sự có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích và luận giải nội dung chủ yếu của tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại, luận văn trình bày những tƣ tƣởng cơ bản của
Nguyễn Đức Đạt về triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, văn hóa, giáo dục và
ý nghĩa của nó trong lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam thế kỷ XIX.
b. Nhiệm vụ
- Trình bày khái quát về bối cảnh lịch sử xã hội và thân thế, sự nghiệp
của Nguyễn Đức Đạt.
- Phân tích và luận giải những tƣ tƣởng chủ yếu của Nguyễn Đức Đạt.
- Làm rõ những giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt
trong dòng chảy của lịch sử tƣ tƣởng dân tộc.
3. Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở thực tiễn sinh động của hiện thực lịch sử dân tộc Việt Nam ở


5

nửa sau thế kỷ XIX, luận văn tập trung nghiên cứu tƣ tƣởng của Nguyễn Đức
Đạt qua tác phẩm Nam Sơn tùng thoại (gồm 4 quyển, chia làm 32 thiên).
b. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi khuôn khổ nghiên cứu của luận văn chúng tôi chỉ tập
trung nghiên cứu những tƣ tƣởng của Nguyễn Đức Đạt về triết học, chính trị xã hội, đạo đức, văn hóa, giáo dục, quân sự trong Nam Sơn tùng thoại.
4. P ƣơn p áp n

ên ứu

Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên thế giới quan, phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên
cứu chủ yếu nhƣ phƣơng pháp lịch sử và logic, phân tích - tổng hợp, nghiên
cứu tài liệu, so sánh và hệ thống hóa nhằm luận giải và đánh giá một cách
khách quan về tƣ tƣởng Nguyễn Đức Đạt qua Nam Sơn tùng thoại.

5. Bố cụ đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng 8 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Từ trƣớc đến nay, tuy đã có một số công trình các cấp, các tạp chí, bài
báo nghiên cứu về nhà tƣ tƣởng Nguyễn Đức Đạt nhƣng hầu nhƣ chƣa có một
nhà nghiên cứu, một tác giả nào có công trình nghiên cứu đầy đủ và có hệ
thống về tƣ tƣởng của ông. Trong số các công trình đã xuất bản đáng chý ý
có: đề tài thạc sĩ triết học “Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt trong tác
phẩm Nam Sơn tùng thoại” của Mai Vũ Dũng tại Viện Triết học do Giáo sƣ,
Tiến sĩ Nguyễn Văn Phúc hƣớng dẫn và các bài viết liên quan nhƣ bài viết
“Nguyễn Đức Đạt và tác phẩm Nam Sơn tùng thoại” của Lê Sỹ Thắng trong
sách “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” tập II. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1997; bài viết “Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Nguyễn Đức Đạt” của Nguyễn
Văn Phúc đăng trên Tạp chí Triết học số 9, tháng 9 năm 2005; bài viết


6

“Nguyễn Đức Đạt” của Ninh Viết Giao trong sách Nhà giáo danh tiếng đất
Nam Hồng, Nhà xuất bản Nghệ An (2005); bài viết “Quan niệm của Nguyễn
Đức Đạt về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật” trong “Nam Sơn Tùng
Thoại”, đăng trên Tạp chí Triết học, số 1 (2005), tháng 6 – 2008 của tác giả
Mai Vũ Dũng. Bài viết “Quan niệm về đạo của Nguyễn Đức Đạt”, đăng trên
Tạp chí Văn hóa Nghệ An, tháng 4 năm 2010 và bài viết Tìm hiểu tƣ tƣởng
giáo dục của Nguyễn Đức Đạt, Tạp chí Khoa học – Công nghệ Nghệ An Số
11 năm 2016 của tác giả Nguyễn Thị Hƣơng. Ngoài ra, một số sách khác nhƣ
“Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919”, của Ngô Đức Thọ (2006), Nxb
Văn học, Hà Nôi; sách “Tên tự tên hiệu các tác gia Hán nôm Việt Nam”, của
Trịnh Khắc Mạnh (2012), Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nôi; sách “Một số vấn

đề về Nho giáo Việt Nam”, của Phan Đại Doãn (chủ biên) (1999), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội; sách “Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, khoa bảng
qua các triều đại phong kiến Việt Nam”, Trần Hồng Đức (2006), Nxb
Thông tin, Hà Nội… đều giới thiệu về tiểu sử và một số đóng góp của
Nguyễn Đức Đạt. Tuy nhiên, nhìn chung các công trình, bài viết đều đã
giới thiệu về Nguyễn Đức Đạt và tƣ tƣởng của ông về các vấn đề cụ thể
nhƣ chính trị - xã hội, giáo dục, đạo đức, pháp luật, quân sự… nhƣng chƣa
có công trình nào nghiên cứu đầy đủ một cách có hệ thống về tƣ tƣởng của
ông. Luận văn này, trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các
công trình đã xuất bản, sẽ đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và tƣơng
đối có hệ thống về tƣ tƣởng Nguyễn Đức Đạt qua tác phẩm Nam Sơn tùng
thoại đồng thời làm rõ chân dung tƣ tƣởng của học giả thuộc hạng tiêu biểu
nhất của lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIX.


7

CHƢƠNG 1

NGUYỄN ĐỨC ĐẠT VÀ TÁC PHẨM
“NAM SƠN TÙNG THOẠI”
1.1. NGUYỄN ĐỨC ĐẠT – THỜI ĐẠI, CON NGƢỜI, SỰ NGHIỆP
1.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
Trong suốt thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có
những chuyển biến sâu sắc. Tại châu Âu, giai cấp tƣ sản lần lƣợt nắm chính
quyền ở các nƣớc. Vào những năm 60 - 70 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng
công nghiệp bắt đầu ở Anh, mở đầu thành tựu to lớn của khoa học công nghệ
đạt đƣợc trong thế kỷ ánh sáng. Trong khi đó, ở Bắc Mỹ, sau thắng lợi của
cuộc chiến tranh giành độc lập, chế độ thống trị của giai cấp tƣ sản đƣợc thiết
lập ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ). Hàng hóa các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây

và Mỹ tràn sang nƣớc ngoài ngày càng nhiều; ngƣợc lại vàng, bạc, nguyên
liệu và nhiều sản vật từ các nƣớc khác cũng tới tấp chuyển về các nƣớc tƣ
bản. Phƣơng Đông là nơi đông dân và tài nguyên phong phú đã trở thành
hƣớng chủ yếu của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây, đua nhau tràn sang không
chỉ tìm thị trƣờng tiêu thụ hàng hóa, mà còn là nơi để đầu tƣ và khai thác
nguồn nguyên liệu cho nền công nghiệp “chính quốc”, vì mục đích phát triển
siêu lợi nhuận của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Vận mệnh các nƣớc phƣơng
Đông đứng trƣớc nguy cơ bị chủ nghĩa tƣ bản thực dân phƣơng Tây đe dọa,
chiếm đoạt thị trƣờng. Ở châu Á, trƣớc mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến và
giai cấp nông dân ngày càng trở nên sâu sắc, không thể dung hòa, chế độ
phong kiến thống trị ở nhiều nƣớc bị lung lay, thậm chí tan rã. Trƣớc tình
hình các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây tràn sang, mỗi nƣớc ở khu vực châu Á đều
chịu tác động, ảnh hƣởng nhiều mặt, trong đó có vấn đề quân sự và tƣ tƣởng
quân sự ở mức độ khác nhau.


8

Đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam, một triều đại phong kiến đã ra đời. Đây là
vƣơng triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam - triều đại
nhà Nguyễn. Năm 1802, sau khi đánh bại vƣơng triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh
lên ngôi hoàng đế, chính thức khôi phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất
nƣớc sau hơn hai thế kỷ chia cắt. Ông lấy niên hiệu là Gia Long, “Gia” trong
Gia Định, “Long” trong Thăng Long. Năm 1804, đổi quốc hiệu là Việt Nam,
sau đó Minh Mạng đổi là Đại Nam, kinh đô đặt tại Huế. Nƣớc Đại Nam về
danh nghĩa vẫn thần phục “thiên Triều” nhà Thanh nhƣng trên thực tế là một
nhà nƣớc độc lập.
Trƣớc tiên, về chính trị - xã hội, Gia Long đã xây dựng, kiện toàn hệ
thống hành chính cũng nhƣ quan chế cho chính quyền mới. Vua Gia Long đã
đặt lệ bốn không “hành chính không đặt tể tƣớng, thi cử không lấy trạng

nguyên, trong cung không lập hoàng hậu, phong tƣớc không ban vƣơng cho
ngƣời ngoại tộc” [11, tr. 39]. Về cơ bản hệ thống quan chế và cơ cấu chính
quyền trung ƣơng của triều đại này giống nhƣ các triều đại trƣớc đó: Vua vẫn
có quyền tối thƣợng. Có các cơ quan trợ giúp cho vua nhƣ có Văn thƣ phòng
(năm 1829 đổi tên là nội các), chuyên về giấy tờ, văn thƣ và ghi chép. Tứ trụ
Đại thần, đảm đƣơng những việc quân cơ đại sự (năm 1834 đổi tên thành
Viện Cơ mật).
Bên dƣới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công.
Thƣợng Thƣ đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ đạo các công việc chung của
Nhà nƣớc. Đô Sát viện (tức là Ngự Sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng trách
thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ
trách một số sự vụ, phủ nội vụ trông coi các kho tàng, Quốc Tử giám quản lí
giáo dục, Thái y viện thực hiện chữa bệnh và thuốc thang… cùng với một số
ti và cục khác. Với cơ cấu bộ máy chính quyền nhƣ vậy, khi có việc quan
trọng, vua sẽ giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm


9

nhƣ nào đều đƣợc quyền đƣa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự phê chuẩn của
vua mới đƣợc thi hành. Hoàng đế tuy ở ngôi vị cao nhất nhƣng không đƣợc
phép làm điều sai trái. Các quan Giám sát Ngự sử có quyền can gián khi vua
mắc phải sai lầm. Quan chức của triều đình chỉ chạm tới phủ huyện, từ tổng
trở xuống do dân tự trị. Ngƣời dân tự lựa chọn lấy ngƣời của mình mà cử ra
quản trị mọi việc ở địa bàn sinh sống. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một
cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra để lo việc
quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Đến thời Minh Mạng, không
thể bỏ sót cuộc cải cách hành chính của ông trong các năm từ 1831 đến 1832.
Vua quy đổi các tổng trấn, các dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị tỉnh. Năm
1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn

lại ở phía Nam đƣợc chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên - thủ phủ của kinh đô Phú
Xuân, trực thuộc Trung ƣơng, toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.
Tổng đốc đứng đầu tỉnh (mỗi ngƣời phụ trách 2 - 3 tỉnh và chuyên trách
1 tỉnh) và Tuần phủ (dƣới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ
trợ nhƣ Bố Chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án Sát sứ ti lo
về an ninh, luật pháp, còn lãnh binh đảm đƣơng mặt quân sự. Các quan chức
đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ƣơng trực tiếp bổ nhiệm và thƣờng là
võ quan cao cấp, về sau mới bổ dụng thêm các quan văn.
Dƣới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ
phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do ngƣời dân tự lựa chọn cử ra quản
trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội
đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, chăm lo đê điều và vấn đề
trị an trong tổng. Hệ thống chính quyền có xu hƣớng giảm bớt quyền lực ở địa
phƣơng, tập trung ở Trung ƣơng, cùng với cơ cấu hành chính của các tổng, xã
đƣợc tổ chức khá chặt chẽ để triều đình dễ dàng quản lý và có đối sách kịp
thời khi có sự cố. Đối với miền núi và địa bàn sinh sống của những tộc ngƣời


10

thiểu số, Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa hành chính đồng loạt với miền
xuôi. Năm 1829, ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trƣởng của
dân tộc thiểu số), để quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phƣơng làm Thổ
tri các châu huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lƣu quan do
ngƣời Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế
nhƣ ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của ngƣời dân địa phƣơng đến đời
vua Tự Đức đã bãi bỏ chế độ này.
Nhƣ vậy, về cơ bản triều đại nhà Nguyễn đã xây dựng đƣợc một bộ máy
chính trị tập trung thống nhất, mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam
cho đến lúc bấy giờ, chính thực dân Pháp đã ca ngợi sự phân chia hành chính

khoa học của Minh Mạng. Và có thể thấy, bộ mặt hành chính ngày nay của
Việt Nam không khác biệt nhiều so với thời nhà Nguyễn độc lập. Đặc biệt, từ
thời nhà Nguyễn, vấn đề biển đảo đã đƣợc chú trọng bằng việc xác lập chủ
quyền và thành lập các đội hải quân, trong đó đặc biệt chú trọng Hoàng Sa và
Trƣờng Sa. Từ năm 1816, Gia Long đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa,
cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Dƣới triều Minh Mạng, ông cho xây đền,
đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Hải đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải đảm
nhiệm nhiều trọng trách nhƣ khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và có
nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Tháng 3 năm Ất Hợi (1815), triều
Nguyễn điều động một đội thủy quân và đội Hoàng Sa, do Phạm Ánh làm
Trƣởng đoàn, ra vùng đảo Hoàng Sa, khảo sát hải sản và thăm dò đƣờng biển
thuộc vùng biển của nƣớc ta. Tiếp đó, đội thủy quân ở vùng Kinh đô cùng đội
Hoàng Sa, dẫn binh thuyền ra vùng quần đảo Hoàng Sa tiếp tục khảo sát, nắm
tình hình giao thông đƣờng thủy ở khu vực thuộc chủ quyền biển Việt Nam.
Tháng 4 năm Giáp Ngọ (1834), vua Minh Mạng ra lệnh cho Trƣơng Sĩ Phúc
và 20 thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vẽ bản đồ
hoàn chỉnh để phục vụ cho việc nắm địa hình, tài nguyên và bố trí một bộ


11

phận lực lƣợng, thay phiên nhau phòng giữ vị trí chiến lƣợc quan trọng này.
Tháng 4 năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng lệnh cho Võ Văn Hùng ở đảo
Lý Sơn (nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi) tuyển chọn những thanh niên tinh thông
võ nghệ, giỏi bơi để sung vào đội thuyền giao cho Đặng Văn Siểm đảm trách,
dẫn đƣờng và Võ Văn Công phụ trách lƣơng thảo, ra quần đảo Hoàng Sa.
Tiếp đó, tháng 7 năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng cử Phạm Văn Nguyên
phụ trách một đội lính thợ giám thành và phu thuyền ở hai tỉnh Quảng Nghĩa
và Bình Định chở vật liệu đến quần đảo Hoàng Sa để dựng miếu và lập bia đá
trên quần đảo này. Tháng 2 năm Bính Thân (1836), Bộ binh điều động Phạm

Hữu Nhật đƣa binh lính đến quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi để đo
đạc và đóng 10 cái bài gỗ ở đảo này làm dấu ghi, trên mỗi bài gỗ đề rõ niên
hiệu “Minh Mạng thứ 17 năm Bính Thân”. Kể từ năm 1836 trở đi, vào cuối
tháng giêng, triều đình nhà Nguyễn đều đƣa lính thủy và vệ giám thành ra
quần đảo Hoàng Sa khảo sát, vẽ bản đồ; đồng thời quy định cấp thêm tiền cho
binh lính, từ mồng 1 tháng giêng đến cuối tháng 3 phải trả lƣơng cho binh
lính mỗi tháng, đủ một quan tiền. Mặc dù lực lƣợng và phƣơng tiện còn hạn
chế, nhƣng với những cố gắng của mình, triều Nguyễn đã thể hiện tƣ tƣởng về
xây dựng lực lƣợng và củng cố thế trận bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ
quốc ngay trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tới khi thực dân Pháp xâm
lƣợc Đông Dƣơng thì hai đội hải quân này đã ngừng hoạt động. Ngoài ra, nhà
Nguyễn còn cho biên soạn bộ quốc sử Việt Nam để ngƣời Việt Nam bớt lệ
thuộc vào Bắc sử (Trung Quốc) trong việc học hành, để ngƣời Việt Nam đánh
giá đúng hơn về bản lĩnh, truyền thống của dân tộc.
Sau khi chấn chỉnh về mặt chính trị, hành chính, Nguyễn Ánh chủ
trƣơng xây dựng Gia Định theo quy mô, tổ chức nhƣ một quốc gia thu nhỏ,
đặt sứ quán gồm hai tòa nhà, làm nơi cƣ trú cho sứ giả các nƣớc láng giềng
đến. Một đội lính vệ gồm 20 ngƣời, đƣợc cử thƣờng xuyên canh giữ thành


12

Gia Định. Tháng 3 năm Canh Tuất (1790), Nguyễn Ánh ra lệnh xây thành Gia
Định quy mô lớn theo kiểu bát giác, gồm có 8 cửa ngang dọc với 8 lối đi; các
mặt đông tây, nam, bắc mỗi mặt dài 131 trƣợng 8 thƣớc. Bên ngoài thành đào
hệ thống hào sâu bao quanh, phía ngoài hào là đƣờng phố, nơi cƣ trú của nhân
dân, bên phải và bên trái có trục đƣờng thẳng trồng cây xanh, gọi là đƣờng
thiên lý. Phía bên trong, dựng nhà Thái Miếu, kho chứa, cục chế tạo, điện
Kiến Phƣơng, điện Kim Ấn, điện Kim Hoa và gác Triệu Dƣơng. Mặt đằng
sau xây dựng một hậu điện để Quốc mẫu ở. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn lệnh

xây dựng một số doanh trại cho quân túc vệ đóng giữ, bảo vệ thành. Ở khu
vực giữa sân của thành cho xây dựng kỳ đài, gồm ba tầng, trong đó tầng trên
cùng là tòa bát giác vọng đẩu, ban ngày treo cờ, ban đêm đốt đèn làm hiệu
lệnh, kịp thời báo động khi cần.
Về luật pháp vua Gia Long lệnh cho các quan tham khảo bộ luật Hồng
Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất. Năm 1815, một bộ
luật mới đƣợc ban hành, mang tên Hoàng Việt luật lệ (còn có tên khác là luật
Gia Long). Bộ luật này gồm 398 điều chia làm 7 chƣơng và chép trong một
bộ sách gồm 22 cuốn, đƣợc in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy
hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh nhƣng kỳ thực là
chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều. Chƣơng “Hình luật” chiếm tỉ
lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chƣơng khác nhƣ “Hộ luật” chỉ có 66
điều còn “Công luật” chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá
nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội tuyên truyền “yêu ngôn, yêu
thƣ”, và tệ tham nhũng. Những vị vua sau này đã chỉnh sửa và cải tiến luật
Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mạng cho phù hợp với thời đại.
Về kinh tế, sau khi thiết lập đƣợc vƣơng triều của mình, triều Nguyễn bắt
đầu chú ý đến việc củng cố, xây dựng nền kinh tế của đất nƣớc. Thế nhƣng,
cơ sở kinh tế sau nhiều năm xung đột quân sự cả ở Đàng Trong và Đàng


13

Ngoài, vốn đã nghèo nàn, lạc hậu vẫn chƣa đƣợc triều Nguyễn chăm lo xây
dựng và phát triển, mà có mặt còn bị hạn chế, thậm chí thụt lùi hơn so với các
triều đại trƣớc đây. Chính quyền nhà Nguyễn chỉ lo khôi phục và củng cố
quyền lợi giai cấp địa chủ, tăng cƣờng áp bức, bóc lột bằng các chế độ thu tô
thuế, lao dịch, binh dịch... đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân.
Ngoài ra, cũng nhƣ phần đa các triều đại khác, triều Nguyễn “dĩ nông vi bản”,
đồng thời ý thức đƣợc đƣợc việc ruộng đất công là một vấn đề nan giải nó ảnh

hƣởng đến thu nhập quốc khố, và cũng là một trong những nguyên nhân khích
lên khởi nghĩa nông dân. Nên ngay từ đầu triều đại, Gia Long đã ra lệnh cấm
bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ
này để đảm bảo nông dân ai cũng có đất cày. Bên cạnh đó, đã thi hành một số
chính sách khuyến khích nông nghiệp nhƣ “trọng nông”, chính sách khai
hoang lập điền, cùng những chính sách phát triển nông nghiệp, nhƣ là cấm
mua bán ruộng đất công, lập kho Thƣờng bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh,
kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc… Ngoài ra, khi nhân dân liên tục
thất thu, triều đình thƣờng phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Vua Minh
Mạng đã định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công
tƣợng (thợ làm quan xƣởng) cùng các hạng dân đinh, phẩm trật cao thấp đều
có khẩu phần nhƣng quan lại, cƣờng hào giành đƣợc những phần tốt hơn.
Ngƣời già, ngƣời tàn tật thì đƣợc nửa phần, cô nhi, quả phụ đƣợc 1/3 phần.
Tuy nhà Nguyễn đã hết sức nỗ lực trong việc mở rộng quỹ đất công, hạn chế
chiễm hữu đất đai thành tài sản riêng nhƣng vấn nạn này vẫn nhức nhối,
không những thế, vẫn còn đất đai bị bỏ hoang. Đồng thời, nông nghiệp vẫn
nằm trong tình trạng lạc hậu, đời sống nông dân đói khổ, nạn chấp chiếm
ruộng đất, thiên tai mất mùa, tô thuế nặng.
Đối với thƣơng nghiệp, nhà Nguyễn thi hành những chính sách ngặt
nghèo nhƣ “trọng nông ức thƣơng”, “bế quan tỏa cảng”, chế độ phƣờng - ty -


14

hội nắm độc quyền buôn bán hay lập cửa hàng… gây hậu quả làm cho nền
kinh tế bị trì trệ, đình đốn, thƣơng nghiệp hoàn toàn bế tắc, ảm đạm. Các tổ
chức thƣơng mại trong nhân dân chủ yếu trong phạm vi gia đình, nếu có hội
buôn lớn thì đó cũng chỉ là sự hợp tác có thời vụ. Ngƣời Việt chủ yếu mua
bán các mặt hàng thuộc về lƣơng thực, thực phẩm, gia vị, các vật dụng nhỏ
nhƣ: gạo, lúa, bắp, đƣờng, hạt tiêu… và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải,

đồ đồng, giấy. Ở nông thôn, hoạt động thƣơng mại mang tính chất trao đổi
nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ.
Nhƣ vậy, nửa đầu thế kỷ XIX, kinh tế thời Nguyễn đã đạt một số thành
tựu khai hoang, thủy lợi phát triển nông nghiệp, nhất là vùng đồng bằng Nam
Bộ và vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ. Hệ thống giao thông đƣờng thủy,
đƣờng bộ phát triển mạnh, nhất là hệ thống kênh đào ở Nam Bộ và hệ thống
đƣờng dịch trạm, nối liền Kinh đô Huế với các trấn, tỉnh trong cả nƣớc. Các
nghề thủ công nghiệp nhƣ khai mỏ, kinh tế hàng hóa, ngoại thƣơng có một số
mặt đƣợc khôi phục, phát triển. Tuy nhiên, về thực chất, dƣới triều Nguyễn
nền kinh tế nƣớc ta thuộc loại nghèo nàn, kém phát triển, nền kinh tế nông
nghiệp nƣớc ta không phát triển và ngày càng sa sút, do nhiều nguyên nhân,
trong đó chủ yếu nhất là do giai cấp địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông
dân ngày càng tăng và chính sách bóc lột của triều Nguyễn đối với nhân dân
rất nặng nề. Mặt khác, nhà Nguyễn không chú ý đến việc bảo vệ đê điều và
xây dựng các công trình thủy lợi, trong khi nạn lũ lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra,
gây hậu quả nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, Triều
Nguyễn chỉ lo khôi phục quyền lợi dòng họ, tăng cƣờng áp bức, bóc lột nhân
dân bằng các chế độ thu tô thuế, lao dịch, binh dịch, đời sống của các tầng lớp
nhân dân rất khổ cực, tiềm lực kinh tế đất nƣớc không phát triển đƣợc. Vì thế,
lƣợng dự trữ hậu cần quốc gia hạn chế, không đủ sức bảo đảm cho quân đội,


15

nhất là nguồn dự trữ để đƣơng đầu trƣớc cuộc tiến công xâm lƣợc từ bên
ngoài bờ cõi.
Về ngoại giao, nhà Nguyễn chỉ giữ mối quan hệ với triều đình Mãn
Thanh, còn đối với các nƣớc đế quốc phƣơng Tây thì thi hành chính sách “bế
quan tỏa cảng”. Giữa thế kỉ XIX, các tàu buôn của Anh, Pháp, Tây Ban Nha
nhiều lần vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thƣơng nhƣng

vẫn vấp phải sự ức thƣơng của nhà Nguyễn. Sau khi Gia Định rơi vào tay
Pháp, việc ngoại giao giữa triều đình với các nƣớc phƣơng Tây khó khăn, Tự
Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn ty để lo buôn bán và Thƣợng
Bạc viện để giao dịch với ngƣời nƣớc ngoài nhƣng không có kết quả.
Tuy nhiên, do ra đời trong bối cảnh đặc biệt, là “triều đại duy nhất trong
lịch sử Việt Nam đƣợc dựng lên không phải từ một cuộc chiến tranh giải
phóng, mà bằng một cuộc chiến huynh đệ tƣơng tàn rất dài và khốc liệt” [6,
tr.7]. Hơn nữa, nhà Nguyễn lại trải qua rất nhiều biến cố trong khoảng thời
gian tồn tại, mang nhiều thị phi nhƣ cầu viện ngoại bang, làm mất nƣớc vào
tay Pháp quốc (cuối thế kỷ XIX) và cũng có nhiều công lao trong việc thống
nhất đất nƣớc mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Đặc biệt, đặt trong hoàn
cảnh hết sức phức tạp, nhà Nguyễn đã có sự cố gắng nhƣng do đi không đúng
hƣớng, phần vì chậm trễ trong cải cách nên đã không thể đƣa dân tộc ra khỏi
cơn bĩ cực. Vì vậy, hậu quả là trong thời kỳ cai trị của nhà Nguyễn đã không
đủ vững mạnh và bị mất lòng dân. Chỉ trong hơn 100 năm tồn tại nhà Nguyễn
đã chứng kiến hơn 400 cuộc khởi nghĩa nông dân (trong đó, đời Gia Long 33
cuộc, đời Minh Mạng 234 cuộc, đời Thiệu trị 58 cuộc, đời Tự Đức 40 cuộc.
Nguyên nhân của tình trạng đó là do nhân dân cực khổ, là hậu quả của chính
sách kinh tế, quân sự, ngoại giao của triều đình, đã khiến vƣơng triều này rơi
vào hố sâu của con đƣờng thỏa hiệp, dần dà đã nằm trong quyền “Bảo hộ” của
thực dân Pháp. Trong đó phải kể đến các phong trào của nông dân miền xuôi,


16

tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành. Cuộc khởi nghĩa này kéo dài 6
năm (1821 - 1827), thu hút đông đảo nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ và
một số nho sĩ, thổ hào các địa phƣơng tham gia. Nghĩa quân lập căn cứ ở Trà
Lũ (Nam Định), nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động ra các tỉnh ven biển,
từ Thái Bình, Nam Định đến Quảng Yên, có lúc lan sang cả Sơn Tây, Hòa

Bình và Thanh Hóa. Nghĩa quân tiến công các đồn lũy, bao vây huyện lỵ, phủ
lỵ và nhiều lần đánh bại các cuộc càn quét của quân triều đình, lấy của nhà
giàu phân phát cho ngƣời nghèo. Trƣớc thanh thế của nghĩa quân, triều
Nguyễn phải huy động quân đội ở Bắc Thành (Bắc Bộ), Thanh Hóa, Nghệ An
và một phần lực lƣợng vệ quân ở Kinh đô Huế tới đàn áp. Cuộc khởi nghĩa
thất bại, nhƣng dân gian vẫn lƣu truyền một bài vè ca ngợi Phan Bá Vành và
cuộc chiến đấu bền bỉ của nghĩa quân.
Bên cạnh đó, ở miền núi có các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở vùng miền núi phía Bắc, dân tộc Mƣờng ở Thanh Hóa,
Nghệ An, các dân tộc Tây Nguyên, dân tộc Chăm ở Nam Bộ. Tiêu biểu trong
số này là cuộc khởi nghĩa ở Cao Bằng, do Nông Văn Vân lãnh đạo diễn ra
trong 2 năm (1833 - 1835), thu hút đông đảo các dân tộc thiểu số tham gia;
trong đó, có lần đánh chiếm các tỉnh thành Tuyên Quang, Cao Bằng uy hiếp
các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên... Nghĩa quân Nông Văn Vân
còn liên kết với nghĩa quân ở Sơn Tây tiến đánh Hà Nội, Bắc Ninh. Triều
đình nhà Nguyễn phải điều quân ở các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ đến đàn áp
mới dập tắt đƣợc.
Trong giai cấp phong kiến, một số quan lại, thổ hào địa phƣơng, nhất là
một số nho sĩ có khí tiết, vì quyền lợi của nhân dân đã đứng lên cùng nhân
dân đấu tranh chống lại những bất công do triều Nguyễn gây ra. Trong số đó
có Cao Bá Quát quê ở Gia Lâm (ngoại thành Hà Nội). Dƣới danh nghĩa “phù
Lê”, tháng 9-1854, Cao Bá Quát suy tôn Lê Duy Cự (hậu duệ nhà Lê), tự


17

xƣng quốc sƣ kêu gọi nhân dân nổi dậy, đƣợc nhiều tù trƣởng các dân tộc
vùng Sơn Tây, Hòa Bình tham gia. Nghĩa quân dự định đánh chiếm Hà Nội
để từ đó phát triển sang các tỉnh khác, nhƣng kế hoạch bị lộ, cuộc khởi nghĩa
chỉ diễn ra ở các vùng Mỹ Đức, Ứng Hòa, Thanh Oai (Hà Tây), Tam Dƣơng

(Phú Thọ), Vĩnh Tƣờng (Vĩnh Phúc). Bị triều đình tập trung quân đến đàn áp,
Cao Bá Quát hy sinh (năm 1855), quân khởi nghĩa tiếp tục hoạt động đến năm
1856 thì tan rã.
Đặc biệt, trong phong trào nổi dậy chống triều Nguyễn còn có cả những
ngƣời thuộc hàng ngũ thân thuộc của quan lại cao cấp, trụ cột triều đình. Đó
là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833 - 1835) xuất phát từ
mâu thuẫn giữa các phe phái trong triều đình (cha nuôi Lê Văn Khôi là Lê
Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định, có mƣu đồ chống đối, sau khi bị vua Minh
Mạng tử tội cả gia đình). Tháng 6 năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi cùng
những ngƣời đồng mƣu phát động binh lính nổi dậy, phá nhà lao, rồi trang bị
khí giới cho tù nhân, đánh chiếm thành Phiên An (thành Gia Định), tự xƣng
Bình Nam đại nguyên soái, phát hịch kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa.
Trong một tháng, nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động chiếm 6 tỉnh Nam
Kỳ, chủ trƣơng lập chính quyền riêng, đƣợc giáo dân và giáo sĩ phƣơng Tây
ủng hộ. Triều đình phải huy động các đạo quân lớn đến đàn áp mới chiếm lại
đƣợc các tỉnh bị mất. Đầu năm Giáp Ngọ (1834), Lê Văn Khôi ốm chết, nghĩa
quân hoạt động đến tháng 7 năm Ất Mùi (1835) thì tan rã.
Nhƣ vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, hầu nhƣ năm nào cũng có các cuộc
nổi dậy của nhân dân chống chính quyền nhà Nguyễn. Để ổn định trật tự xã
hội, triều Nguyễn không thực hiện thay đổi những chính sách tiến bộ có lợi
cho dân, cho nƣớc, mà chỉ dùng biện pháp chính là sức mạnh quân sự để trấn
áp. Có những lúc lực lƣợng quân sự phải huy động cả quân ở Kinh đô, quân ở
các địa phƣơng đến mức tối đa để đàn áp nhân dân nổi dậy. Việc làm đó của


18

triều Nguyễn không những ảnh hƣởng đến việc củng cố quốc gia thống nhất,
mà còn làm tổn hại sức mạnh đoàn kết thống nhất của dân tộc, trong đó có
sức mạnh quân sự, hạn chế đến tƣ tƣởng quân sự, không thể tăng cƣờng đƣợc

khả năng bảo vệ đất nƣớc trƣớc họa ngoại xâm đang đến gần.
1.1.2. Tình hình văn ó , giáo dục, tƣ tƣởng
Các vua nhà Nguyễn đều hết sức quan tâm, trú trọng đến việc học và thi
cử, nghĩa là việc đào tạo và tuyển chọn nhân tài cho đất nƣớc. Họ đều nhận rõ
vai trò trọng yếu của văn hóa, giáo dục, tƣ tƣởng trong công cuộc củng cố
chính quyền. Vì vậy, nhà Nguyễn đã thực hiện theo mô hình nhà Tống: tập
trung mọi quyền hành, thống nhất chính trị, thống nhất tƣ tƣởng. Hầu nhƣ các
vua Nguyễn đề là những nhà nho học khá uyên bác, hay là những nhà văn nhà
thơ có nhiều sáng tác, say mê văn học. Nhằm phát triển văn hóa, triều Nguyễn
chú trọng đến việc học hành và thi cử. Hệ thống trƣờng học đƣợc thiết lập
trong cả nƣớc.
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các
trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành
Huế trƣờng học lớn nhất để tuyển chọn dạy cho con cháu quan lại và những
ngƣời giỏi ở các địa phƣơng, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nƣớc, mở khoa thi
Hƣơng lấy những ngƣời có học, có hạnh ra làm quan. Tập Thiện Đƣờng là nơi
dành cho hoàng tử, Tôn Học Đƣờng (lập dƣới thời Tự Đức) là nơi các hoàng
thân và con cháu dòng họ Nguyễn theo học. Ở các tỉnh đặt quan đốc học phụ
trách việc học, còn mỗi phủ đặt một quan giáo thụ, mỗi huyện đặt một quan
huấn đạo. Đốc học, giáo thụ, huấn đạo đƣợc tuyển chọn từ các cựu thần, cùng
những ngƣời từng thi đỗ trong các kỳ thi hƣơng, thi hội và tiến sĩ triều
Nguyễn. Trong dân chúng, việc học tập khá thông thoáng, vì vậy, cùng tồn tại
với hệ thống trƣờng của nhà nƣớc, còn có một số lớp học tƣ mở ở các làng,
xã, do những hƣu quan, những ngƣời đỗ đạt, nhƣng không ra làm quan, đảm


19

nhiệm dạy học. Chỉ cần có học lực khá, ngƣời ta cũng có thể mở trƣờng tƣ
thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trƣờng tƣ thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở

nhà ngƣời hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học.
Chế độ thi cử dƣới triều Nguyễn tổ chức gồm có: thi Hƣơng, thi Hội, thi
Đình. Năm Đinh Mão (1807), vua Gia Long mở kỳ thi Hƣơng đầu tiên, năm
Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng mở kỳ thi Hội, thi Đình đầu tiên. Thời kỳ
đầu, triều Nguyễn dùng chữ Nôm, đến thời vua Minh Mạng, việc học tập, thi
cử và trong văn thƣ hành chính đều dùng chữ Nho. Tuy nhiên, nội dung đào
tạo và hình thức thi cử không có cải cách gì nhiều so với các triều đại trƣớc
đó. Ngoài những trƣờng do nhà nƣớc mở, bất kỳ ngƣời nào có học lực khá,
cũng có thể mở trƣờng tƣ dạy học, hoặc dạy tại nhà thầy. Nhờ vậy, việc học
hành đƣợc mở rộng, góp phần phát triển nền giáo dục của đất nƣớc.
Đồng thời với trƣờng dạy văn, triều Nguyễn còn mở một số trƣờng dạy
võ. Nội dung học gồm: tập xách nặng, nhảy, côn, đao, quyền, khiên, tập bắn
và cả cách xem ngày giờ về thiên văn. Cũng nhƣ bên văn, thi võ đƣợc tổ chức
theo hai bậc gồm thi Hƣơng và thi Hội. Khi bàn đến việc đặt khoa thi võ và
dựng bia võ công, năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng ra dụ “Điều cốt
yếu trong việc trị nƣớc là phải làm cả văn, lẫn võ”. Đến năm Đinh Dậu
(1837), vua Minh Mạng ra lệnh mở kỳ thi Hƣơng và thi Hội về võ, định lệ mở
kỳ thi Hƣơng võ vào các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi và thi Hội võ vào các năm
Tý, Mão, Ngọ, Dậu.
Dƣới triều Nguyễn, chế độ học hành và thi cử đƣợc tổ chức khá quy củ,
chặt chẽ theo một hệ thống, từ trung ƣơng đến các địa phƣơng trong cả nƣớc,
nhƣng về nội dung không có gì mới so với các thời trƣớc. Vì thế, nền giáo
dục khoa cử dƣới triều Nguyễn đạt đƣợc thành tựu khá rực rỡ không kém các
triều đại trƣớc. Nhân tài thực sự cống hiến cho đất nƣớc, trong đó cả nhân tài
về tƣ tƣởng, chính trị, văn hóa, quân sự là rất hạn chế. Đội ngũ quan lại, trong


20

đó quan võ dƣới triều Nguyễn, từ trung ƣơng xuống địa phƣơng không đáp

ứng đƣợc yêu cầu xây dựng quân đội mạnh, chỉ huy tài giỏi để đối phó với
các thế lực thù địch trong nƣớc và thủ đoạn phá hoại của các nƣớc tƣ bản
phƣơng Tây, nhất là Pháp đang âm mƣu xâm lƣợc khi có thời cơ.
Tuy nhiên, chƣơng trình và các nội dung giáo dục vẫn chủ yếu sử dụng
khuôn vàng thƣớc ngọc của nho giáo là Ngũ kinh (Thƣ, Dịch, Lễ, Thi, Xuân
Thu). Đây là 5 bộ sách kinh điển, là tƣ tƣởng chính thống của tiên thánh, tiên
vƣơng. Nguyễn Đức Đạt đã từng tán dƣơng ngũ kinh nhƣ sau: Kinh dịch là
quy” kinh lễ là “củ”, quy củ đo tròn, củ thì đo vuông. Kinh thƣ là “vàng”
(kim), kinh thi là “ngọc bích” (bích) vàng cứng bền mà ngọc nhuận sáng.
Kinh Xuân thu là gấm hoa kiêm cả bốn kinh kia [40, tr. 33] và ông cũng
khẳng định:
Tóm hết sự biến đổi trong thiên hạ, thông suốt tình hình trong
thiên hạ, không sách nào rõ bằng kinh Dịch. Nêu lên chế độ cho
thiên hạ, bồi thực cội gốc cho thiên hạ, không sách nào rõ bằng kinh
Thƣ. Thu thập trí tuệ của thiên hạ, không sách nào rõ bằng kinh
Xuân Thu. Châm trƣớc điển tác trong thiên hạ, định ra đạo chí cực
cho thiên hạ, không sách nào rõ bằng kinh Lễ [40, tr. 36].
Nhƣ vậy, lời Nguyễn Đức Đạt cũng là ý kiến của tất cả các nhà nho Việt
Nam thời bấy giờ. Nhƣ vậy, nho giáo gần một ngàn năm nay không khác ở
chỗ học sách kinh điển nào mà chỉ khác nhau ở chỗ hiểu kinh điển đó và giải
quyết vấn đề thực tiễn nhƣ thế nào. Đã là nho thì tin rằng cơ bản của điều hay
lẽ đúng trên đời đều đã có sẵn hết, đủ hết trong Ngũ kinh Tứ thƣ rồi. Bởi vậy,
nhà nho thuộc kinh truyện tự phụ tự đắc rằng mình không gì không biết, ngồi
nhà kín mà nhƣ đứng ngã tƣ đƣờng. Vì vậy, tƣ tƣởng nho giáo độc tôn ở thời
này đã trở lên lạc hậu lỗi thời, bất lực trƣớc những vấn đề thực tiễn của thời
đại.


×