Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Lí luận về giá trị thặng dư và ứng dụng của nó vào thực tiễn sản xuất kinh doanh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.91 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong quyển I của bộ tư bản có tựa đề là “Về tư bản”, C.Mác đã trình bày
một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị tư bản mà trước đó,
chưa ai có thể làm được. Một trong số các học thuyết được nêu ra là thuyết giá
trị thặng dư, nhờ có nó mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được
vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính
xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng rộng rãi nhất nhằm tạo ra tư bản
để tích luỹ và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Hai
phương pháp này đã được đưa vào ứng dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong
đó có Việt Nam. Nước ta đang trong thời kì đổi mới, để phù hợp với những vấn
đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại và phát triển các học thuyết
đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư. Đó là lí do em chọn đề tài: “Lí luận về giá
trị thặng dư và ứng dụng của nó vào thực tiễn sản xuất kinh doanh ở Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu
- Phân tích lý luận giá trị thặng dư
- Nghiên cứu ứng dụng của lí luận thặng dư vào thực tiễn sản xuất kinh
doanh ở Việt Nam
Kết quả nghiên cứu
- Giá tri thặng dư được nghiên cứu thông qua các phạm trù sau:
Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Hàng hoá sức lao động
Bản chất giá trị thặng dư
- Việt Nam ứng dung lí luận thăng dư vào thực tiễn sản xuất kinh doanh
thông qua hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối.

1


NỘI DUNG


1.Lý luận về giá trị thặng dư
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo cũng
không giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà
tư bản vẫn thu được lợi nhuận. Học thuyết về giá trị thặng dư ra đời là một trong
những phát kiến lớn nhất mà Mác đã đóng góp cho nhân loại.
1.1 Bản chất của giá trị thặng dư
Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao
đổi hàng hoá đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản thân
tiền tệ không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện
nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thườg thì vận đông theo công thức sau H-T-H
nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền, rồi tiền lại chuyển hoá thành
hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức T-H-T tức
là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại
thành tiền. Bất cứ biến động nào vận động theo công thức T-H-T đều chuyển hoá
thành tư bản.
Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn
nhu cầu nên hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ
kết thúc ở giai đoạn hai khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà
người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng
mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về bằng số tiền ứng
ra thì sự vận động trở nên vô nghĩa. Do vậy mà số tiền thu về phải lớn hơn số
tiền ứng ra nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T
+ ∆T. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra Cac Mac gọi là giá trị thặng dư.

2


Vậy có phải lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó mà hình thành
giá trị thặng dư hay không? các nhà kinh tế học tư sản đã cho rằng sự tăng thêm

đó là do lưu thông hàng hoá sinh ra. Nhưng sự quả quyết của các nhà tư sản đều
không có căn cứ.
Trong lưu thông hàng hoá được thay đổi ngang giá thì chỉ có sự thay hình
thái giá trị, còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là
không đổi.
Theo quan điểm của Cac Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một
nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là người
mua các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn của
nó thì khi mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao
hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối
cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền mà người đó sẽ được
lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người
bán. Như vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn
giá trị của nó. Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên mua được rẻ
bán được đắt thì như Cac Mac nói điều đó chỉ có thể là giải thích được sự làm
giầu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giầu
của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng
như trong và sau khi trao đổi không thay đổi mà chỉ có phần giá trị nằm trong
tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.
Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá
trị thặng dư và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không
sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới.

3


Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng
ngoài lưu thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
“vậy thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất

hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông”
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số
tiền đó. Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực
hiện giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự chuyển
hoá đó xảy ra trong quá trình vận động của tư bản. Do đó hàng hoá tao ra giá trị
thặng dư phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính
là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã
tìm thấy trên thị trường.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ
biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định. Cac Mác đã nhấn mạnh
sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện sau:
Một là người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao
động của mình và có quyền đem bán cho người khác.
Hai là người lao động phải tước hết tư liệu tư liệu sản xuất để trở thành người
vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành
hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến
thành tư bản.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính
là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư liệu sinh

4


hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta, những yếu tố tinh thần,
dân tộc, tôn giáo của những người công nhân, những chi phí đào tạo người công
nhân.
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ:

nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa
chúng ta có sự khác nhau căn bản, giá trị hàng hoá hàng hoá thông thường biểu
thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá sức lao động
lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm
tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố
vật chất nó còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền
thống nghề nghiệp mà hàng hoá thông thường đó không có.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình
tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình
đó là quá trình sản xuất ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư
bản chiếm đoạt. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất
đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị, hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi nghĩa
là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị
lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư bản đó
bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá
trình sả xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C Mac
viết: “Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra

5


giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản
xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của
nền sản xuất hàng hoá”.

Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
C.Mac đã lấy ví dụ về việc sản xuất của nước Anh làm đối tượng nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mac đã sử dụng phương
pháp giả định khoa học thông qua giải quyết chặt chẽ tiến hành nghiên cứu:
không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu
sản đem tiêu dùng chuyển hết một lần giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong
nền kinh tế sản xuất giản đơn.
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá
tiền thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra
trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ
hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng
hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng
dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất, chúng ta thấy có hai
phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân
mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới gọi là giá trị cũ.

6


Giá trị do lao động trừu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình
lao động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó
bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được

chia thành hai phần: Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết. Phần thời gian
còn lại là thời gian lao động thặng dư: trong thời gian lao động thặng dư người
công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động hay tiền lương nhà
tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư và bộ phận này thuộc về nhà tư bản
(nhà tư bản chiếm đoạt)
Từ đó mà C.Mac đã đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
1.2 Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ
thuật còn thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường dùng để tăng
giá trị thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân, trong điều kiện thời
gian lao động là tất yếu không thay đổi.
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần
thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của nhà tư
bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao
động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt
đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%
(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp
bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa

7


tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó tồn tại trong
cơ thể sống con người vì vậy mà người công nhân cần có thời gian để ăn ngủ
nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khoẻ nhằm tái sản xuất sức lao động. Mặt
khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người

công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất,
tôn giáo của mình. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hạn thời gian
lao động tất yếu, nhưng không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh thần của
người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài, do vậy mà đã dẫn đến phong trào giai cấp
vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới
tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
gặp phải thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối vào sản xuất. Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần
của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp
công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại
công nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động, bó lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương
đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách
nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư lên
ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động
được quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức
lao động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu
sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện

8


bằng cách tăng năng suất lao động xã hội cho các ngành sản xuất tư liệu tiêu
dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động
tất yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là
100%. Nhưng khi máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời
gian lao động tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao
động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 166%.
(Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ
thủ công, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử
dụng bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người,
nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế,
việc sử dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị
tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian
lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng
được nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa
học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có
trong lịch sử loài người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự
hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công
cụ sản xuất như cách mạng khoa học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã
hội loài người bước sang một nền văn minh mới - nền văn minh trí tuệ.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây
là cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị
thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng

9


hoá thấp hơn giá trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư
siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ

biến rộng rãi, nhưng xét theo phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện tượng thường
xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì vọng của nhà tư bản và là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng.
C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
2. Vận dụng lý luận giá trị thặng dư tương đối vào hoạt động sản xuất
kinh doanh ở nước ta hiện nay
2.1 Sự cần thiết phải nhận thức lại và phát triển lý luận giá trị thặng dư
trong thời đại hiện nay
Mặc dù những tư tưởng, nội dung và phương pháp nghiên cứu lý luận giá
trị thặng dư của Mác, về cơ bản, còn giá trị trong thời đại ngày nay, tuy nhiên
vẫn cần được nhận thức lại và phát triển. Ngày nay điều kiện lịch sử đã có nhiều
thay đổi khác xa so với điều kiện lịch sử của những năm sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai, chứ chưa nói đến thế kỷ 19 mà Mác đã nghiên cứu. Do vậy, để tránh
mắc sai lầm mang tính giáo điều, rập khuôn, duy ý trí, một số kết luận của Mác
trong điều kiện lịch sử cũ lại dựa trên phương pháp giả định gắn với mục đích
nghiên cứu CNTB cổ điển không nên hiểu và vận dụng nguyên si. Hơn nữa, đọc
và hiểu đúng nội dung lý luận giá trị thặng dư trong bộ “Tư bản” là việc không
phải ai cũng làm được. Vì vậy mà phải có sự nghiên cứu cụ thể để rút ra những
kết luận mới cho những trường hợp cụ thể.
Ngày nay mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá
trị thặng dư nói riêng đã có sự thay đổi. Nếu trước đây mục đích nghiên cứu của
kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc

10


lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã

hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục
đích nghiên cứu, khai thác bộ “Tư bản” với tư cách một sách phong phú và sâu
sắc về kinh tế thị trường để xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội ở nước
ta. Do đó cần phải thay đổi một số yếu tố và phạm trù kinh tế phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại.
Ăngghen đã đề cập đến mối quan hệ giữa cái bất biến và cái khả biến
trong việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư. Cái bất biến chính là tính khoa
học bền vững của lý luận giá trị thặng dư, nhưng tính khoa học đó cần phải được
vận dụng sáng tạo và phải đặt trong những điều kiện lịch sử nhất định của thực
tế
2.1 Sự vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh ở nước ta hiện nay
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm
thuê tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư sản. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người công
nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại, mà
giá trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai cấp tư
sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây dựng đất nước, xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát triển xã hội chủ
nghĩa, vì con người. Không tách ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt Nam vận
dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ
hàng đầu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi
quốc gia.
Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng

11



XHCN. Nhưng, phải khẳng định rằng, điều đó không có nghĩa là lý luận giá trị
thặng dư không còn giá trị, mà sự thật đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận giá trị
thặng dư nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung vào sự nghiệp phát triển
kinh tế ở nước ta. Thật vậy, Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ
mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị
thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng trong các danh nghệp ở nước ta nhằm kích
thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ
chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Ứng dụng hai phương pháp sản suất giá trí thặng dư vào sản xuất kinh
doanh ở nước ta hiện nay sẽ đem lai hiệu quả khi Nhà nước sử dụng linh hoạt
trong từng điều kiện sản xuất cụ thể của doanh nghiệp và mục đích sản xuất nhất
định nào đó.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối thu đươc bằng cách tăng
thời gian làm việc trong 1ngày/ 1tháng/ 1năm hoặc tăng cường độ lao động. Dễ
dàng nhận thấy rằng phương pháp này mắc phải hạn chế về giới hạn thời gian
(1ngày có 24h) và sức lực của người lao động là có hạn. Tuy nhiên nó vẫn có thể
vận dụng để đem lại lợi ích kinh tế nếu như hoạt động kinh doanh phải hoàn
thành kế hoạch hoặc chỉ tiêu trong ngắn hạn. Khi đó, tăng thời gian lao động và
cường độ lao động sẽ là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tốt hơn do không
cần phải mất thời gian để chuẩn bị về chi phí và lắp đặt máy móc, các yếu tố
khoa học công nghệ khác.
Tuy nhiên, nếu hoạt động sản xuất diễn ra với định hướng phát triển là các
mục tiêu và kế hoạch lâu dài thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
lại không đem lại hiệu quả bằng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối. Bởi vì, sẽ không có người công nhân nào có khả năng và chấp nhận sự lao
động nặng nhọc và thời gian lao động kéo dài trong một thời gian lâu dài. Mặt

12



khác xét về dài hạn thì việc áp dụng khoa hoc công nghệ tự động hoá sẽ làm cho
cường độ lao động tăng lên nhưng với hình thức lạư căng thẳng thần kinh thay
thế cho cường độ lao động cơ bắp. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ
thuật và công nghệ làm tăng lao động phức rạp, lao động trí tuệ thay thế cho lao
động giản đơn, lao động cơ bắp và nhờ đó làm tăng rất nhiều tỉ suất và giá trị
thặng dư.
Tuy nhiên, sự sử dụng máy móc sẽ làm gia tăng số lượng lao động thất
nghiệp do có sự lựa chọn về sử dụng lao động có trình độ cao hơn, và hạn chế
dần dần lao động chân tay giản đơn. Và việc sử dụng máy móc cũng ko đòi hỏi
về số lượng công nhân lao động chân tay và thủ công. Chính vì thế, nhầ nước
cần có chính sách hợp lý tạo điều kiện học tập và nâng cao tay nghề cho người
lao động cũng như kết hợp các ngành nghề thủ công truyền thống với các ngành
nghề mới sử dụng máy móc trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thăng dư có những đặc điểm
mới. Đó là: Khối lượng thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao
động; lao động trí tuệ, lao động có trình độ kĩ thuật cao càng ngày càng có vai
trò trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương
thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất
phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để
các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần
phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất
lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

13



KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho
chúng ta thấy rằng: Mục tiêu của nền sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện nay là
tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
của toàn dân, và thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài, gian
khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những
khó khăn thử thách và hy sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợi và
đang cố gắng. Muốn làm được điều đó, nhà nước ta đã và đang nghiên cứu và áp
dụng các lí luận về giá trị thặng dư vào nền sản xuất kinh doanh của nước ta
hiện nay. Bởi vì, lí luận về giá trị thặng dư được coi là “hòn đá tảng” luôn có ý
nghĩa riêng của nó trong nền kinh tế của từng thời kì. Áp dụng đúng đắn hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền sản xuất kinh doanh của nước ta
sẽ đem lại những giá trị thực tiễn to lớn để phát triển kinh tế từ đó tạo tiềm lực
để phát triển mọi mặt đời sống trong xã hội.

14



×