Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------

ĐOÀN THỊ LINH GIANG

HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG
CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN Ở PHỔ THÔNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: SƢ PHẠM NGỮ VĂN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: 2015 - 2019

Quản

nh, năm 2019

i


Lời Cảm Ơn
Với những tình cảm chân thành, em xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu trường Đại học Quảng Bình, các thầy cô giáo khoa khoa
học xã hội – trường Đại học Quảng Bình đã tận tình giảng dạy và giúp
đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu và toàn thể giáo viên tổ
Ngữ văn, các em học sinh trường THPT Lệ Thủy, trường THPT
Nguyễn Chí Thanh đã tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình thực
tập cũng như quá trình chúng em tiến hành điều tra, thực nghiệm sư


phạm phục vụ khóa luận.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới cô
giáo TS. Đỗ Thùy Trang, người cô đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và
trực tiếp hướng dẫn cũng như đã hết lòng động viên và tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi tư liệu và viết
khóa luận.
Cuối cùng, em xin gửi tất cả lòng biết ơn sâu sắc tới những người
thân trong gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Mặc dù bản thân đã rất nỗ lực, cố gắng, song khó tránh khỏi
những hạn chế thiếu sót. Kính mong Quý thầy, cô giáo và những
người quan tâm đóng góp ý kiến để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin bày tỏ lòng tri ân đến Quý vị!
Đồng Hới, tháng 05 năm 2019
Tác iả khóa luận

Đoàn Thị Linh Gian

ii


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
- HS : Học sinh
- GV : Giáo viên
- THPT : Trung học phổ thông
- TNST : Trải nghiệm sáng tạo
- HĐTNST: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo

iii



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG KHOÁ LUẬN ....................... iii
MỤC LỤC .....................................................................................................................iv
A. PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu khóa luận ......................................................................................2
2.1. Tài liệu nước ngoài ...................................................................................................2
2.2. Tài liệu trong nước ...................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................8
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 8
5. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................9
6. Cấu trúc khóa luận .......................................................................................................9
B. PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................10
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .............10
1.1. Cơ sở lý luận ...........................................................................................................10
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................................10
1.1.2. Một số mô hình dạy học trải nghiệm sáng tạo .....................................................13
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo .....................................................16
1.1.4. Vai trò của hoạt động trải nghiệm sáng tạo .........................................................20
1.1.5. Ý nghĩa của việc thực hiện hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ
văn ở nhà trường phổ thông ........................................................................................... 21
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................22
1.2.1. Thực trạng dạy và học Ngữ văn ở trường phổ thông ..........................................22
1.2.2. Mục tiêu giáo dục ................................................................................................ 23
1.2.3. Đặc trưng, yêu cầu của việc dạy học môn Ngữ văn ............................................24
1.2.4. Thực tiễn đổi mới phương pháp dạy học THPT sau năm 2015 .......................... 25

TIỂU KẾT CHƢƠNG I .............................................................................................. 26
CHƢƠNG II. MỘT SỐ MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO
TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN .................................................................................28
iv


2.1. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo bằng hình thức sân khấu hóa ..................28
2.2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo bằng các hoạt động thực tiễn .................32
2.3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo bằng hình thức dạy học dự án ................39
2.4. Tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm bằng phương pháp tình huống .................43
TIỂU KẾT CHƢƠNG II ............................................................................................ 49
CHƢƠNG III. THỰC NGHIỆM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG 50
3.1. Những vấn đề chung ............................................................................................... 50
3.2. Nội dung và kết quả khảo sát..................................................................................50
3.3. Thực nghiệm ...........................................................................................................52
3.4. Kết luận ...................................................................................................................56
TIỂU KẾT CHƢƠNG III ........................................................................................... 56
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................57
1. Kết luận ......................................................................................................................57
2. Kiến nghị ...................................................................................................................58
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................59
PHỤ LỤC 1: PHIẾU KHẢO SÁT VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT ............................. 61
Phụ lục 1.1. Phiếu khảo sát học sinh .............................................................................61
Phụ lục 1.2. Kết quả khảo sát học sinh ..........................................................................63
PHỤ LỤC 2: DỰ ÁN TÌM HIỂU HÕ KHOAN LỆ THỦY ....................................66
PHỤ LỤC 3: KẾ HOẠCH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM
TÌM HIỂU HÕ KHOAN LỆ THỦY ..........................................................................71

v



A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Người Việt Nam từ xưa vẫn quan niệm: “Trăm hay không bằng tay quen”, “học
đi đôi với hành”, “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Để nhấn mạnh yếu tố thực
hành và vận dụng thực tế.
Hơn 2000 năm trước, Khổng Tử (551 – 479 TCN) đã nói: “Những gì tôi nghe, tôi
sẽ quên. Những gì tôi thấy, tôi sẽ nhớ. Những gì tôi làm, tôi sẽ hiểu”.
Còn nhà triết học Hy Lạp, Socrate (470 – 399 TCN) cũng nêu quan điểm “Người
ta phải học bằng cách làm một việc gì đó; Với những điều bạn nghĩ là mình biết, bạn
sẽ thấy không chắc chắn cho đến khi làm nó”.
Những tư tưởng của các nhà giáo dục, các nhà triết học thời cổ đại có thể được
coi là nguồn gốc tư tưởng đầu tiên của học qua trải nghiệm. Tư tưởng này thực sự
được đưa vào giáo dục hiện đại từ những năm đầu của thế kỉ XX.
Ở nước ta, một trong những quan điểm đổi mới giáo dục và đào tạo được nêu
trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI của BCH TW là: “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học…” [23, tr. 5].
Theo đó quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi
đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội” [23, tr. 2]. Điều đó cho thấy, việc đổi mới hình thức, phương
pháp dạy học theo chương trình mới sau năm 2015 đặc biệt nhấn mạnh hình thức học
tập trải nghiệm.

Trong những năm qua, bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông là một trong những
môn học đóng vai trò trung tâm, tuy nhiên kết quả đánh giá môn học Ngữ văn của HS
ở trường phổ thông còn nhiều hạn chế, thậm chí HS còn tâm lý sợ hãi, trốn tránh môn
học. Nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn đang là vấn đề bức thiết đặt ra. Một
trong những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo Dự thảo chương
1


trình mới sau năm 2015 là tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học ngữ
văn. Hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo là hình thức học tập gắn học tập với thực
tiễn, gắn giáo dục trong nhà trường với giáo dục ngoài xã hội, “phá vỡ” không gian
lớp học, đồng thời có sự tham gia của nhiều nguồn lực xã hội vào quá trình giáo dục.
Đây là một hình thức tổ chức dạy học tạo điều kiện cho học sinh có những trải nghiệm
khám phá mới mẻ, qua đó góp phần hình thành năng lực, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ
năng sưu tầm, phát triển năng lực người học.
Như vây, việc đưa hoạt động giáo dục trải nghiệm vào xây dựng cấu trúc
chương trình giáo dục phổ thông mới đã cho thấy tầm quan trọng của hình thức dạy
học này trong việc nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và dạy học Ngữ văn nói
riêng.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay và yêu cầu
của việc tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho HS trong dạy học Ngữ
văn, chúng tôi lựa chọn đề tài:“Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình
Ngữ văn ở phổ thông” cho khóa luận tốt nghiệp.

2. Lịch sử n hiên cứu khóa luận
Vấn đề hoạt động học tập qua trải nghiệm sáng tạo không phải là vấn đề mới với
nhiều nước trên thế giới, nhưng với Việt Nam vấn đề này còn khá mới mẻ. Đặc biệt
chưa có tài liệu nghiên cứu, tác phẩm, luận văn, luận án nào trình bày cụ thể chi tiết
đến tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ văn. Vì vậy
trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tham khảo, tiếp cận các loại tài liệu đề cập đến

những vấn đề chung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo như sau:

2.1. Tài liệu nước ngoài
Lý luận về giáo dục đã được nhiều nhà tâm lí học, giáo dục học quan tâm nghiên
cứu và hoàn thiện từ khá sớm. Hệ thống lý luận về hoạt động trải nghiệm sáng tạo tuy
có nhiều nghiên cứu khác nhau song được trình bày thống nhất với hệ thống lý luận về
hoạt động dạy học.
Đầu tiên phải kể đến lý thuyết hoạt động nghiên cứu về bản chất quá trình hình
thành con người. Luận điểm cơ bản của lý thuyết hoạt động, đã trở thành nguyên tắc
nghiên cứu bản chất người và quá trình hình thành con người, đó là “Tâm lí hình thành
thông qua hoạt động”. Điều này có nghĩa là, chỉ thông qua hoạt động của chính bản
thân con người, thì bản chất người, nhân cách người đó mới được hình thành và phát
2


triển. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Không có hoạt động, không có
con người, do vậy cũng không có xã hội loài người. Nguyên tắc “Tâm lí hình thành
thông qua hoạt động” có ý nghĩa chỉ đạo, tổ chức các hoạt động giáo dục con người
trong nhà trường, trong học tập và giáo dục, rèn luyện, việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo… là hoạt động của chính người học. Con người có tự lực hoạt động mới biến
kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được thành tri thức của bản thân.
Vận dụng nguyên lý trên trong giáo dục, Lev Vygotsky, nhà tâm lí học Hoạt
động nổi tiếng trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng: “Trong giáo dục, trong một
lớp học, cần coi trọng sự khám phá có trợ giúp (assisted discovery) hơn là sự tự khám
phá. Ông cho rằng sự khuyến khích bằng ngôn ngữ của giáo viên và sự cộng tác của
các bạn cùng tuổi trong học tập là rất quan trọng” [25, tr. 13]. Điều này cho thấy để
hình thành tri thức, kỹ năng, kĩ xảo có hiệu quả cao, không chỉ coi trọng sự chỉ dẫn,
hướng dẫn của giáo viên mà phải coi trọng hoạt động cùng nhau, coi trọng sự hợp tác,
làm việc cùng nhau giữa những người học.
Còn nhà Tâm lí học nhận thức hàng đầu Jean Piaget chuyên nghiên cứu bản chất

nhận thức từ góc độ cá nhân, cũng đã có những kết luận trùng hợp với Lev Vygotsky
khi nghiên cứu nhận thức ở người. Lí thuyết của J. Piaget về sự giải quyết mâu thuẫn
trong quá trình phát triển nhận thức đã cho rằng: “ Các cá nhân, trong trường hợp
tương tác cùng nhau, khi có những mâu thuẫn nhận thức xuất hiện đã tạo ra sự mất
cân bằng về nhận thức, do đó đã thúc đẩy khả năng và hoạt động nhận thức, thúc đẩy
sự phát triển nhận thức của mỗi người” [35, tr. 32].
Trong những năm 80 – 90 của thế kỉ XX, lý thuyết kiến tạo ra đời và phát triển,
các tác giả của lý thuyết kiến tạo quan niệm hoạt động học là quá trình người học tự
kiến tạo, tự xây dựng tri thức cho chính mình. “Người học tự xây dựng những cấu trúc
trí tuệ riêng về nội dung học, lựa chọn những thông tin phù hợp, giải nghĩa thông tin
trên cơ sở vốn kinh nghiệm (tri thức đã có) và nhu cầu hiện tại, bổ sung những thông
tin mới để tìm ra ý nghĩa của tài liệu mới” [35, tr. 34]. Như vậy, hoạt động học là quá
trình người học tự kiến tạo tri thức cho chính mình chứ không phải giáo viên mang sẵn
lời giải đến cho họ. Ngoài ra, lý thuyết kiến tạo còn cho rằng: hoạt động học được hiểu
không phải là hoạt động nhận thức cá nhân thuần túy mà là hoạt động cá nhân trong sự
tương tác, giao lưu với các cá nhân khác, chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh cụ thể. Từ
quan niệm trên về hoạt động học, lý thuyết kiến tạo quan niệm hoạt động dạy là hoạt
3


động của giáo viên nhằm tổ chức và hướng dẫn hoạt động học của người học. Người
học là chủ thể tích cực của hoạt động học.
Một trong những lý thuyết nghiên cứu trực tiếp đến hoạt động trải nghiệm sáng
tạo trong dạy học là lý thuyết học từ trải nghiệm của David A Kolb. Trong lý thuyết
học từ trải nghiệm, Kolb cũng chỉ ra rằng “Học từ trải nghiệm là quá trình học theo đó
kiến thức, năng lực được tạo ra thông qua việc chuyển hóa kinh nghiệm. Học từ trải
nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng khác ở chỗ là nó gắn với kinh nghiệm
và cảm xúc cá nhân”. Lý thuyết “Học từ trải nghiệm” là cách tiếp cận về phương
pháp học đối với các lĩnh vực nhận thức. Nếu như mục đích của việc dạy học chủ yếu
là hình thành và phát triển hệ thống tri thức khoa học, năng lực và hành động khoa học

cho mỗi cá nhân thì mục đích hoạt động giáo dục là hình thành và phát triển những
phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, sự đam mê, các giá trị, kĩ năng sống và những
năng lực chung khác cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Để phát triển sự hiểu
biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người học nhưng để phát
triển và hình thành phẩm chất thì người học phải được trải nghiệm. Như vậy, trong lý
thuyết của Kolb, trải nghiệm sẽ làm cho việc học trở nên hiệu quả bởi trải nghiệm ở
đây là sự trải nghiệm có định hướng, có dẫn dắt chứ không phải sự trải nghiệm tự do,
thiếu định hướng.
Từ giữa thế kỉ XX, nhà khoa học giáo dục nổi tiếng người Mỹ John Dewey, đã
chỉ ra hạn chế của giáo dục nhà trường và đưa ra quan điểm về vai trò của kinh nghiệm
trong giáo dục. Với triết lí giáo dục đề cao vai trò của kinh nghiệm, Dewey cũng chỉ ra
rằng, những kinh nghiệm có ý nghĩa giáo dục giúp nâng cao hiệu quả giáo dục bằng
cách kết nối người học và những kiến thức được học với thực tiễn. Theo ông “học qua
trải nghiệm xảy ra khi một người sau khi tham gia trải nghiệm nhìn lại và đánh giá,
xác định cái gì là hữu ích hoặc quan trọng cần nhớ và sử dụng những điều này để thực
hiện các hoạt động khác trong tương lai”.
Lý thuyết hoạt động nghiên cứu về bản chất quá trình hình thành con người.
Trong đó Lý thuyết hoạt động đã nêu ra một luận điểm cơ bản và đã trở thành nguyên
tắc nghiên cứu bản chất người và quá trình hình thành con người, đó là “tâm lí hình
thành thông qua hoạt động”. Nghĩa là, thông qua hành động của chính bản thân con
người, nhân cách mới được hình thành và phát triển. Hoạt động là phương thức tồn tại
của con người. Nguyên tắc này có ý nghĩa chỉ đạo, tổ chức các hoạt động giáo dục con
4


người trong nhà trường. Người học có tự lực hoạt động thì mới biến kiến thức, kinh
nghiệm thành tri thức, kĩ năng của bản thân.
Tại Hàn Quốc (một trong những quốc gia có nền giáo dục phát triển nhất của khu
vực), trong cuốn “ Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” – Bộ KH - KT và GD Hàn Quốc
2009, đã nói tới một trong những chương trình đổi mới của giáo dục Hàn Quốc là hoạt

động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là những hoạt động nằm
ngoài các hệ thống các môn học trong nhà trường, đó là những hoạt động tự chủ, hoạt
động câu lạc bộ, hoạt động từ thiện và hoạt động định hướng. Hoạt động trải nghiệm
sáng tạo Hàn Quốc không tách rời hệ thống các môn học trong nhà trường mà có quan
hệ tương tác, bổ trợ nhau để hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý
chí, kĩ năng sống và năng lực cần có trong xã hội hiện đại. Hoạt động này mang tính
thực tiễn rất cao, gắn bó với đời sống và cộng đồng, có tính tổng hợp nhiều lĩnh vực
giáo dục.
Tóm lại, nghiên cứu của các nhà tâm lí học, các nhà giáo dục học cũng như mô
hình học tập trải nghiệm mà các nước trên thế giới đang tiến hành đều khẳng định rõ
vai trò, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong việc hình thành và
phát triển năng lực học sinh. Đây chính là nội dung chúng tôi tiếp cận, vận dụng trong
dạy học Ngữ văn ở Việt Nam nhằm tiếp cận với nền giáo dục thế giới.

2.2. Tài liệu trong nước
Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đã đề cập đến việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh
như là một phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học. Mục đích của việc
tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm hình thành và phát triển nhân cách, phẩm
chất cho người học; các giá trị sống, kĩ năng sống và những năng lực cần có của người
học để đáp ứng những yêu cầu con người trong xã hội hiện đại. Các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo sẽ được thiết kế theo chủ đề của từng môn học và theo hướng tích
hợp liên môn. Hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
phong phú linh hoạt hơn, mở rộng hơn về thời gian, không gian, quy mô, đối tượng
tham gia… tạo điều kiện tối đa cho người học tham gia trải nghiệm và phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo. Hơn hết, người học được chú trọng xác định là trung tâm
của quá trình trải nghiệm sáng tạo.
- Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể Việt Nam sau năm 2015
5



cũng đề cập đến tám lĩnh vực học tập chủ chốt và hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Theo dự thảo, hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ được thiết kế, tổ chức ở cả ba cấp
học, được phát triển từ các hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa và được thiết kế
theo các chuyên đề từ chọn. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể được tổ chức bằng
các hình thức như: tham quan thực tế, diễn đàn, giao lưu, trò chơi, câu lạc bộ… Từ đó,
học sinh được phát triển các kĩ năng, năng lực cũng như cảm xúc, phẩm chất đạo đức,
… nhờ việc vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc
sống một cách sáng tạo. Như vậy, có thể thấy hoạt động trải nghiệm chính là một nội
dung quan trọng trong định hướng đổi mới giáo dục phổ thông ở Việt Nam giai đoạn
sau 2015.
Trong nước, thời gian qua cũng có nhiều bài báo, bài nghiên cứu khoa học về
tình hình học tập trải nghiệm sáng tạo như:
+ Kỷ yếu hội thảo: “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ
thông và mô hình phổ thông gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương” của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, đã thu hút rất nhiều bài viết của các tác giả trong cả nước. Đã có 19
bài của 21 tác giả gửi đến hội thảo, trong số đó có một số bài viết hay, đã đề cập ở mức
độ nóng, vấn đề tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh như:
Trong bài viết “Một số vấn đề về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương
trình giáo dục phổ thông mới”.
+ PGS.TS Lê Huy Hoàng, trường Đại học Sư phạm Hà Nội có đề cập tới quan
niệm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo là “hoạt động mang xã hội, thực tiễn đến với
môi trường giáo dục trong nhà trường để học sinh tự trải nghiệm trong tập thể, qua đó
hình thành và thể hiện được phẩm chất, năng lực; nhận ra năng khiếu, sở thích, đam
mê; bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị; nhận ra chính mình cũng như khuynh hướng
phát triển của bản thân; bổ trợ cho và cùng với các hoạt động dạy học trong chương
trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo dục” [35, tr. 62]. Tác giả cũng đề cập
đến nội dung, đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Từ kinh nghiệm hoạt động
sáng tạo ở Hàn Quốc tác giả đưa ra vấn đề trải nghiệm sáng tạo thông qua nghiên cứu
khoa học kĩ thuật và giáo dục STEM.

+ Bài viết của PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống nghiên cứu “Hoạt động trải nghiệm
sáng tạo – kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam”. Trong đó, tác giả giới thiệu
kinh nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong giáo dục phổ thông nước
6


Anh và Hàn Quốc. Đây đều là những nước đã đưa hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào
chương trình đào tạo từ sớm và đạt được những kết quả to lớn. Từ đó tác giả đưa ra
kết luận: “Lâu nay chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam đã có hoạt động giáo
dục nhưng chưa được chú ý đúng mức; chưa hiểu đúng vị trí, vai trò và tính chất của
các hoạt động giáo dục. Chưa xây dựng được một chương trình hoạt động giáo dục đa
dạng, phong phú và chi tiết với đầy đủ các thành tố của một chương trình giáo dục.
Chưa có hình thức đánh giá và sử dụng kết quả các hoạt động giáo dục một cách phù
hợp” [35, tr. 20].
+ ThS. Bùi Ngọc Diệp trong bài viết “Hình thức tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông”, cũng đưa ra quan niệm về hoạt động
trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông. Theo đó “Các em được chủ động
tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: từ thiết kế hoạt động đến chuẩn
bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng
của bản thân; các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh
giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự
đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và của bạn
bè,…” [35, tr. 85].
+ Bài viết của PGS.TS Đinh Thị Kim Thoa, ĐHGD – ĐHQGHN, “ Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo góc nhìn từ lí thuyết và học từ trải nghiệm” có đề cập đến sự
khác biệt giữa học đi đôi với hành, học thông qua làm và học từ trải nghiệm. Trong đó,
“học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng khác ở chỗ là nó gắn với
kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân” [35, tr. 49]. Tác giả cũng đưa ra mô hình và chu
trình học từ trải nghiệm của David Kolb và vận dụng lý thuyết “Học từ trải nghiệm”
của Kolb vào việc dạy học và giáo dục trong trường học. Theo tác giả, để phát triển sự

hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người học; nhưng để
phát triển và hình thành năng lực (phẩm chất) thì người học phải trải nghiệm. Hoạt
động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục thông qua sự trải nghiệm và sáng tạo
của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được trong nhà trường với thực tiễn
cuộc sống, nhờ đó các kinh nghiệm được tích lũy thêm và dần chuyển hóa thành năng
lực.
- Ở THCS, chương trình tập trung nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, phục vụ
cộng đồng và bắt đầu đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động phát
7


triển cá nhân, lao động vẫn được tiếp tục triển khai để phát triển các phẩm chất và
năng lực của học sinh.
- Ở THPT, chương trình hoạt động trải nghiệm tập trung cao hơn vào nội dung
giáo dục hướng nghiệp. Thông qua các chủ đề sinh hoạt tập thể, hoạt động lao động
sản xuất, câu lạc bộ hướng nghiệp và các hoạt động định hướng nghề nghiệp khác, học
sinh được đánh giá và tự đánh giá về năng lực, sở trường, hứng thú liên quan đến nghề
nghiệp; có thể tự chọn cho mình ngành nghề phù hợp; được rèn luyện phẩm chất và
năng lực để thích ứng với nghề nghiệp tương lai.
Như vậy, các nguồn tài liệu trong nước và thế giới đều đề cập đến vai trò của
hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh. Các
tài liệu này cũng làm rõ khái niệm, nội dung, hình thức tổ chức của hoạt động TNST
nhưng chưa có tài liệu nào đề cập cụ thể đến hoạt động học tập trải nghiệm trong môn
Ngữ văn. Môn học Ngữ văn với những đặc trưng riêng, hình thành và phát triển năng
lực chuyên biệt của học sinh cần được nghiên cứu, tiếp cận theo những đặc trưng riêng
biệt… Mặc dù, chưa có tài liệu nào đề cập cụ thể đến việc tổ chức hoạt động học tập
trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ văn nhưng các công trình nghiên cứu trên là
nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.

3. Đối tƣợn và phạm vi n hiên cứu

3.1. Đối tƣợn n hiên cứu
Đề tài chúng tôi tập trung nghiên cứu mô hình hoạt động TNST trong dạy học
Ngữ văn ở nhà trường phổ thông.

3.2. Phạm vi n hiên cứu
- Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu lý luận về các mô hình hoạt động TNST
trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu dự án về sân khấu khóa với chủ đề tìm hiểu hò khoan Lệ Thủy.

4. Phƣơn pháp n hiên cứu
- Để tiến hành việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương
pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa, tổng kết các tài
liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu để xác lập cơ sở lý luận cho đề tài.
- Ngoài ra khóa luận cũng được tiến hành bằng một số thao tác nghiên cứu thực
tiễn như:
+ Phương pháp điều tra: Sử dụng các mẫu phiếu điều tra học sinh để thu thập
8


thông tin về thực trạng hoạt động TNST ở nhà trường phổ thông.
+ Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học của học sinh để thu thập những
thông tin cần thiết.
+ Thực nghiệm sư phạm: Đánh giá chất lượng và hiệu quả hệ thống kiến thức đã
xây dựng theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng hệ thống toán học để xử lí các kết
quả khảo sát.

5. Đón


óp của đề tài

Từ những phương diện của lịch sử vấn đề, khóa luận chúng tôi có những đóng
góp:
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của hoạt động học tập TNST trong dạy học Ngữ
văn.
- Phản ánh được thực trạng dạy và học Ngữ văn, thực trạng của việc tổ chức hoạt
động học tập TNST ở trường phổ thông.
- Đề xuất, thiết kế một số mô hình TNST trong chương trình Ngữ văn ở Trường
Phổ thông. Ngoài ra đóng góp thêm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên
cứu về các hoạt động TNST trong dạy học và dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ
thông.

6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài chúng tôi gồm
ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Một số mô hình hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ
văn.
Chương 3: Thực nghiệm tổ chức trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ văn ở
nhà trường phổ thông.

9


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Trải nghiệm
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường xuyên nhắc đến thuật ngữ trải
nghiệm, chính vì mức độ phổ biến của thuật ngữ này nên cũng có nhiều quan niệm
khác nhau về trải nghiệm.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết, từng chịu
đựng”, còn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế nhận thấy điều đó đúng”. Như vậy,
trải nghiệm có nghĩa là quá trình chủ thể được trực tiếp tham gia hoạt động và rút ra
những kinh nghiệm cho bản thân .
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “trải nghiệm” được diễn giải theo hai nghĩa.
“Trải nghiệm” theo nghĩa chung nhất “là bất kì một trạng thái có màu sắc, cảm xúc
nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng với tri thức, ý
thức…) trong đời sống tâm lí của từng người”. Theo nghĩa hẹp, “trải nghiệm là những
tín hiệu bên trong, nhờ đó các sự kiện diễn ra đối với cá nhân được ý thức chuyển
thành ý kiến cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh
hành vi của cá nhân”.
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, trải nghiệm hay kinh nghiệm là tổng quan
khái niệm bao gồm tri thứ, kĩ năng trong quan sát sự vật hoặc sự kiện đạt được thông
qua tham gia vào hoặc tiếp xúc đến sự vật, sự kiện đó. Lịch sử của từ “trải nghiệm”
gần nghĩa với khái niệm “thử nghiệm”. Thực tiễn cho thấy trải nghiệm đạt được
thường thông qua thử nghiệm. Trải nghiệm thường đi đến một tri thức về sự hiểu biết
đến sự vật, hiện tượng, sự kiện.

1.1.1.2. Sáng tạo
Khái niệm sáng tạo được sử dụng đồng nghĩa với nhiều thuật ngữ khác như: sự
sáng tạo, óc sáng tạo, tư duy… Các thuật ngữ này đều liên quan đến một thuật ngữ gốc
Latin “Crear” và mang nghĩa chung là “sự sản xuất, tạo ra, sinh ra một cái mà trước
đó chưa hề có, chưa tồn tại”.
Ngoài ra, sáng tạo còn được hiểu là tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh
thần; tìm ra cái mới, cách giải quyết mới không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có, có
10



thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học, nghệ thuật, sản xuất – kỹ thuật.
Như vậy, sáng tạo chính là việc tạo ra cái mới. Sáng tạo là tiềm năng có ở mọi
người bình thường và được huy động trong từng hoàn cảnh cụ thể.

1.1.1.3. Năng lực
Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và tổ chức, kiến thức,
kỹ năng, thái độ, giá trị, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức
tạp của hoạt động, trong một bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận động tổng
hợp của nhiều yếu tố bao gồm phẩm chất, kiến thức và kỹ năng được thực hiện thông
qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó.
Trong tài liệu tập huấn “Kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm
sáng tạo trong trường trung học”, năng lực được hiểu là “tổ chức các thuộc tính độc
đáo của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt
động đó có hiệu quả. Hay nói cách khác, năng lực là khả năng vận dụng các kiến thức,
kỹ năng, thái độ… và thực hiện các nhiệm vụ trong hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn”
[10, tr. 28].

1.1.1.4. Hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng
tạo
Hoạt động giáo dục theo nghĩa rộng là “những hoạt động có chủ đích, có kế
hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua cách thức
phù hợp nhằm để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục” [9, tr. 44]. Hoạt động giáo dục này bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động
giáo dục theo nghĩa hẹp.
Hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ đích, có
kế hoạch do nhà giáo dục định hướng, kế hoạch, tổ chức trong và ngoài giờ học, trong
và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục theo nghĩa hẹp, hình thành ý
thức, phẩm chất, giá trị sống hoặc các năng lực tâm lý xã hội…

Hoạt động dạy học là quá trình người dạy tổ chức và hướng dẫn hoạt động học
của người học lĩnh hội tri thức khoa học kinh nghiệm của loài người để phát triển trí
tuệ và hoàn thiện nhân cách người học.
Như vậy, hoạt động dạy học chủ yếu nhằm phát triển trí tuệ, hoạt động giáo dục
theo nghĩa hẹp chủ yếu nhằm phát triển phẩm chất đạo đức, đời sống tình cảm. Trong
chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, hoạt động giáo dục (nghĩa hẹp) thực hiện
các mục tiêu giáo dục thông qua một loạt các hoạt động như hoạt động giáo dục ngoài
11


giờ lên lớp, hoạt động tập thể…
Theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mọi hoạt động giáo dục
(nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và các mục tiêu của hoạt động giáo dục
(nghĩa hẹp) nói trên sẽ được thực hiện chỉ trong một hoạt động có tên gọi là hoạt động
trải nghiệm sáng tạo. Như vậy hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ thực hiện tất cả các
mục tiêu và nhiệm vụ của các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập
thể… và thêm vào đó là những mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục của giai đoạn mới.
Như vậy khái niệm hoạt động học tập TNST trong nhà trường phổ thông có thể
được hiểu là “các hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt
động dạy học trong nhà trường. Hoạt động TNST là một bộ phận của quá trình giáo
dục, được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa trên lớp và có mối quan hệ bổ sung,
hỗ trợ cho việc dạy học. Thông qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể
và các hành động của học sinh, hoạt động TNST sẽ khai thác kinh nghiệm của mỗi cá
nhân, tạo cơ hội cho các em vận dụng một cách tích cực những kiến thức đã học vào
thực tế và đưa ra những sáng kiến của mình, từ đó phát huy và nuôi dưỡng tính sáng
tạo của mỗi cá nhân học sinh” [35, tr. 8].
Từ khái niệm này cho thấy, so với hoạt động ngoài giờ lên lớp đang được tiến
hành hiện nay trong chương trình phổ thông thì hoạt động TNST sẽ phong phú hơn về
nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động. Đặc biệt mỗi hoạt động phải phù
hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất năng lực nhất định của học sinh.

Theo hiệp hội “giáo dục trải nghiệm” quốc tế thì học qua trải nghiệm là một
phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học
tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh tổng kết lại để tăng cường
hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển các năng lực bản
thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội.
Học tập TNST còn được hiểu là “hoạt động giáo dục, trong đó, từng cá nhân học
sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong môi trường nhà trường cũng như môi
trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó
phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực…, từ đó tích lũy kinh
nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng năng sáng tạo của cá nhân mình” [10, tr.
8].
Các khái niệm này đều khẳng định vai trò định hướng, hướng dẫn của nhà giáo
dục. Nhà giáo dục không tổ chức, phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hỗ trợ,
12


giám sát. Học sinh là chủ thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động. Phạm vi các chủ đề
hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và tiềm
năng sáng tạo; hoạt động là phương thức cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân
cách con người.
Từ đó có thể thấy rằng hoạt động học tập TNST là phương thức hoạt động chỉ sự
tương tác, sự tác động của chủ thể với đối tượng xung quanh và ngược lại. Hoạt động
ở đây là hoạt động của chính bản thân chủ thể. Những hoạt động này và mang tính trải
nghiệm, vừa là cách nhận thức, tác động của riêng mỗi chủ thể. Qua hoạt động giải
quyết vấn đề mà người học thu nhận những giá trị cần thiết của bản thân, đó chính là
quá trình mang tính trải nghiệm. Học tâp TNST nhấn mạnh đến sự trải nghiệm, thúc
đẩy năng lực sáng tạo của người học. Trong đó “trải nghiệm” là phương thức giáo dục,
“sáng tạo” là mục tiêu giáo dục.

1.1.2. Một số mô h nh dạy học trải n hiệm sán tạo

1.1.2.1. Mô hình của D.Kolb (1984)
David Kolb đã giới thiệu mô hình học tập dựa trên trải nghiệm nhằm “quy trình
hóa” việc học với các giai đoạn và các thao tác được định nghĩa rõ ràng. Thông qua
quy trình này, cả người học lẫn người dạy đều có thể cải tiến liên tục chất lượng cũng
như trình độ của việc học. Đây là một trong số những mô hình được sử dụng rộng rãi
nhất trong việc thiết kế chương trình học, thiết kế bài giảng trong chương trình phổ
thông cũng như các khóa học sau phổ thông.
Chu trình học tập Kolb gồm bốn bước được mô tả như hình dưới đây:

Kinh
thể

kinh
nghiệm

hợp
13


Dưới đây là mô tả chi tiết hơn về các bước trong Chu trình Kolb:
Kinh nghiệm cụ thể
Người học có thể đã đọc một số tài liệu, tham dự bài giảng, xem một số video
trên Internet về chủ đề đang học tập... Tất các các yếu tố đó sẽ tạo ra các kinh nghiệm
nhất định cho người học. Và chúng trở thành “nguyên liệu đầu vào” quan trọng của
quá trình học tập. Tuy vậy, kinh nghiệm quan trọng nhất là những kinh nghiệm mà các
giác quan của con người có thể cảm nhận rõ ràng được.
Quan sát, phản hồi
Người học cần có các phân tích, đánh giá các sự kiện và các kinh nghiệm đã có.
Người học tự mình quan sát và suy tưởng về các kinh nghiệm đó, xem mình cảm thấy
thế nào, có hiểu được hay không, có thấy nó hợp lý hay không, có thấy nó đúng hay

cảm thấy nó “có gì đó không ổn”, có quan điểm hay thực tế nào đi ngược lại với các
kinh nghiệm mình vừa trải qua hay không… Đối với việc học, việc suy tưởng hàm ý
sâu sắc rằng ta phải luôn tự hỏi và tự trả lời “việc học có tiến triển tốt đẹp hay
không?”, và thuần túy sử dụng trực giác để trả lời câu hỏi đó. Trong quá trình quan sát,
suy ngẫm và xa hơn nữa là ghi lại các suy tưởng ấy theo một cách tự nhiên và tự thân,
ta sẽ rút ra được các bài học cũng như định hướng mới cho chặng đường học tập tiếp
theo thú vị và hiệu quả hơn. Khi suy tưởng, chúng ta sẽ “tham gia” sâu hơn vào quá
trình, bản thân điều đó cũng đã giúp đỡ rất nhiều cho việc học tập. Với việc suy tưởng
có chất lượng, ta sẽ có được các cải tiến, nâng cấp, điều chỉnh cho tiến trình phát triển
của việc học tập.
Khái quát hóa, tổng hợp
Sau khi có được quan sát chi tiết cộng với suy tưởng sâu sắc, người học tiến hành
khái niệm hóa các kinh nghiệm đã nhận được. Từ kinh nghiệm, ta có các khái niệm,
“lý thuyết mới”. Bước này chính là bước quan trọng để các kinh nghiệm được chuyển
đổi thành “tri thức”, hệ thống khái niệm và bắt đầu lưu giữ lại trong não bộ. Không có
bước này, các kinh nghiệm sẽ không thể được nâng cấp và phát triển lên một tầm cao
mới hữu ích hơn mà chỉ là các trải nghiệm vụn vặt nhặt được trong tiến trình học tập
hay thực hành.
Giai đoạn khái niệm hóa kết thúc bằng việc ta lập một kế hoạch cho cách hành
động tiếp theo trong thời gian tới. Thông thường giai đoạn này được tiếp nối giai đoạn
trước một cách tự nhiên bằng việc trả lời cho các câu hỏi quan trọng trong quá trình
14


quan sát và suy tưởng – có thể coi như kết luận của toàn bộ quá trình suy tưởng, và
giai đoạn tiếp theo sẽ là giai đoạn kiểm chứng kết luận đó có đúng hay không.
Chủ động áp dụng kinh nghiệm
Ở giai đoạn trước, người học đã có một bản “kết luận” được đúc rút từ thực tiễn
với các luận cứ và suy tư được liên kết chặt chẽ. Bản kết luận đó có thể coi như một
giả thuyết, và ta phải đưa vào thực tiễn để kiểm nghiệm. Việc này hết sức quan trọng

trong việc hình thành nên tri thức thực sự. Theo Kolb và những người theo đường lối
tạo dựng (hay “kiến tạo”), chân lí cần được lĩnh hội, hoặc kiểm chứng được. Đây là
bước cuối cùng để chúng ta xác nhận hoặc phủ nhận các khái niệm từ bước trước.

1.1.2.2. Mô hình dạy học trải nghiệm (Betts, S.C. & Dalla, R.L., 1996) phát
triển dựa trên mô hình của D.Kolb (1984)

1. LÀM (tạo ra
kinh nghiệm)
(làm, hoạt động,
thao tác, thử
nghiệm để có trải
nghiệm v.v.)

5. ỨNG DỤNG

2. CHIA SẺ

(giải quyết vấn đề
tương tự theo
kinh nghiệm đã
có…)

(kết quả quan sát,
phản hồi, ý
kiến...)

LÀM

ÁP DỤNG


PHẢN HỒI

3. TRIỂN KHAI

4. KHÁI QUÁT
HÓA

(trao đổi, phân
tích, thực hiện
thao tác…)

(kết nối kinh
nghiệm thu được
với thực tế, lấy ví
dụ tương ứng…)

15


Quy trình dạy học trải nghiệm theo mô hình của Betts, S.C. & Dalla, R.L. được
mô tả cụ thể như sau:
Làm/ Trải nghiệm
Người học làm, thực hiện một hoạt động tuân theo các hướng dẫn cơ bản về an
toàn, tổ chức hoặc quy định về thời gian, người học làm trước khi được chỉ dẫn cụ thể
về cách làm.
Chia sẻ
Người học chia sẻ lại các kết quả, các chú ý và những điều quan sát, cảm nhận
được trong phần hoạt động đã thực hiện của mình. Người học tìm cách diễn đạt và mô
tả lại rõ ràng nhất các kết quả của trải nghiệm và mối tương quan của chúng.

Triển khai
Người học cùng thảo luận, nhìn lại cả quá trình trải nghiệm, phân tích và phản
ánh lại. Người học sẽ liên hệ trải nghiệm với chủ đề của hoạt động và các kỹ năng
sống học được.
Khái quát hóa
Liên hệ những kết quả và điều học được từ trải nghiệm với các ví dụ trong cuộc
sống thực tế. Bước này thúc đẩy người học suy nghĩ về việc có thể áp dụng những điều
học được vào các tình huống khác như thế nào.
Ứng dụng
Người học sử dụng những kỹ năng, hiểu biết mới vào cuộc sống thực tế của
mình. Người học trực tiếp áp dụng những điều học được vào tình huống tương tự hoặc
các tình huống khác - thực hành.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt độn trải n hiệm sán tạo
1.1.3.1. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo mang tính tích hợp và phân hóa cao
Hoạt động TNST có nội dung rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến
thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục
đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục nghệ
thuật, thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông, giáo
dục môi trường, giáo dục phòng chống ma túy, giáo dục phòng chống HIV/AIDS và tệ
nạn xã hội.
Nội dung giáo dục của hoạt động TNST thiết thực và gần gũi với cuộc sống thực
tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học sinh, giúp các em vận dụng những hiểu
16


biết của mình vào trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng, thuận lợi. Hoạt động
TNST có thể tổ chức theo các quy mô khác nhau như: theo nhóm, theo lớp, theo khối
lớp, theo trường hoặc liên trường. Tuy nhiên, tổ chức theo quy mô nhóm và quy mô
lớp có ưu thế hơn về nhiều mặt như đơn giản, không tốn kém, mất ít thời gian, học
sinh tham gia được nhiều hơn và có nhiều khả năng hình hành, phát triển các năng lực

cho học sinh hơn. Hoạt động TNST có khả năng thu hút sự tham gia, phối hợp, liên kết
nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ môn, cán bộ Đoàn, tổng phụ trách Đội, ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học
sinh, chính quyền địa phương, Hội khuyến học, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ở địa
phương, các nhà hoạt động xã hội, những nghệ nhân, những người lao động tiêu biểu ở
địa phương... Các nội dung của họat động TNST thường thuộc bốn nhóm sau đây:
- Nhóm hoạt động xã hội
- Nhóm hoạt động học thuật
- Nhóm hoạt động nghệ thuật và thể thao
- Nhóm hoạt động định hướng nghề nghiệp
Việc lựa chọn nội dung cụ thể cho hoạt động trải nghiệm cần đảm bảo các
nguyên tắc sau:
+ Mục tiêu: Nội dung lựa chọn phải có ưu thế để đạt được mục tiêu năng lực đề
ra.
+ Phù hợp: Nội dụng lựa chọn cần phù hợp với độ tuổi học sinh, trình độ học
sinh. Không nên xây dựng các chủ đề trải nghiệm vượt quá xa nội dung kiến thức của
học sinh. Ngoài ra phù hợp với điều kiện của nhà trường, địa phương…
+ Khoa học – giáo dục: Nội dung phải đảm bảo tính logic và khoa học, tính thẩm
mĩ và tính đạo đức.
+ Thời sự: Nội dung lựa chọn cần đáp ứng với những nhu cầu của xã hội ở thời
điểm giáo dục.
+ Gắn kết: Nội dung cần gắn với đời sống thực tiễn của địa phương, đất nước,
hòa nhập quốc tế. Các chủ đề hoạt động trải nghiệm sáng tạo cần có sự đóng góp và
tham gia của toàn thể học sinh với sự hướng dẫn và tham gia của giáo viên, cán bộ
quản lý, cán bộ chuyên môn… ở địa phương nhằm thông qua các hoạt động. Từ đó,
học sinh không chỉ giải quyết được vấn đề đặt ra mà còn có thể rèn luyện các kỹ năng
17



cho mình.
1.1.3.2. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được thực hiện dưới nhiều hình thức
đa dạng
Hoạt động TNST có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như trò
chơi, diễn đàn, tọa đàm, giao lưu, tham quan du lịch, hội thi, kịch, câu lạc bộ, các công
trình nghiên cứu khoa học. Mỗi hình thức hoạt động được xây dựng đều có những khả
năng giáo dục nhất định. Từ các hình thức tổ chức đa dạng đó mà việc giáo dục học
sinh được thực hiện một cách tự nhiên, sinh động, hấp dẫn, phù hợp với tâm sinh lý
lứa tuổi cũng như nhu cầu, nguyện vọng của học sinh. Trong quá trình thiết kế, tổ
chức, đánh giá các hoạt động TNST đó, cả GV và HS đều có cơ hội thể hiện được sự
sáng tạo, tích cực chủ động, linh hoạt để làm tăng sức hấp dẫn và hiệu quả cho các
hình thức tổ chức hoạt động TNST.
Căn cứ theo hướng dẫn của Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới có thể
thấy hoạt động TNST được tổ chức với tư cách là một hoạt động độc lập. Hoạt động
TNST cũng là một hình thức dạy học được áp dụng cho từng môn học như: Ngữ văn,
Lịch sử, Địa lý, Sinh học…
Hoạt động TNST có thể được tổ chức với nhiều quy mô khác nhau như theo
nhóm, theo lớp, theo khối, theo trường… tùy thuộc vào từng nội dung trải nghiệm và
điều kiện tổ chức. Tuy nhiên tổ chức hoạt động TNST theo quy mô nhóm và quy mô
lớp cho thấy ưu thế về nhiều mặt như: tổ chức đơn giản, mất ít thời gian, học sinh
tham gia được nhiều hơn và dễ dàng trong việc theo dõi, đánh giá.
Địa điểm tổ chức các hoạt động TNST có thể ở trong hoặc ngoài nhà trường như:
lớp học, thư viện, phòng đa năng, sân trường, viện bảo tàng, các khu di tích lịch sử và
văn hóa… hoặc ở các địa điểm khác ngoài nhà trường có liên quan đến chủ đề hoạt
động.
1.1.3.3. Hoạt động trải nghiệm mang tính sáng tạo
Hoạt động học bằng trải nghiệm là quá trình học tích cực, chủ động sáng tạo và
hiệu quả. Bởi tham gia vào các hoạt động trải nghiệm sáng tạo là học sinh có điều kiện
phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân học sinh. Học sinh
có thể tham gia vào tất cả các khâu của quá trình trải nghiệm: từ thiết kế đến chuẩn bị,

thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với lứa tuổi và khả năng của bản
thân. Đồng thời, học sinh có cơ hội được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được tham gia
18


đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động; được khẳng định bản thân, tự đánh giá kết
quả hoạt động của bản thân, của nhóm và của bạn bè. Từ đó hình thành và phát triển
cho học sinh những giá trị sống, kỹ năng và năng lực cần thiết.
1.1.3.4. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo đòi hỏi sự phối hợp, liên kết nhiều
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
Khác với hoạt động dạy học, hoạt động TNST có khả năng thu hút sự tham gia
phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: GV chủ
nhiệm, GV bộ môn, cán bộ Đoàn, ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, chính
quyền địa phương, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức ở địa
phương… Mỗi lực lượng giáo dục có những thế mạnh và tiềm năng riêng. Tùy thuộc
vào nội dung, tính chất của từng hoạt động trải nghiệm sáng tạo mà đòi hỏi sự tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp của các lực lượng giáo dục; có thể chủ trì hoặc phối hợp về
nhiều mặt khác nhau như: đầu tư kinh phí, phương tiện, địa điểm tổ chức hoạt động
hoặc đóng góp về chuyên môn, ủng hộ về tinh thần. Do vậy, hoạt động TNST tạo điều
kiện cho học sinh được học tập, giao lưu rộng rãi, được lĩnh hội các nội dung giáo dục
qua nhiều kênh khác nhau, nhiều cách tiếp cận khác nhau.. Điều đó làm tăng tính đa
dạng, sự hấp dẫn và hiệu quả giáo dục.
1.1.3.5. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo giúp lĩnh hội những kinh nghiệm mà
các hình thức học tập khác không thực hiện được
Mục tiêu quan trọng của hoạt động học tập là lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử, xã hội
loài người và thế giới xung quanh bằng nhiều con đường khác nhau để phát triển nhân
cách. Tuy nhiên, có những kinh nghiệm chỉ có thể lĩnh hội thông qua sự trải nghiệm
thực tiễn. Học qua hoạt động trải nghiệm giúp lĩnh hội kinh nghiệm đối với một số
lĩnh vực tri thức mà không một hình thức nào thực hiện được. Ví dụ, phân biệt mùi vị,
cảm thụ âm nhạc, tư thế cơ thể trong không gian, cảm xúc… Những điều này chỉ thực

sự có được khi học sinh được trải nghiệm với chúng. Sự đa dạng trong trải nghiệm sẽ
mang lại cho học sinh vốn sống kinh nghiệm phong phú mà nhà trường không thể
cung cấp thông qua các công thức hay định luật, định lí… Qua hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, học sinh học luôn cả nội dung hoạt động và cả con đường, cách tổ
chức, quản lý hoạt động.
Hoạt động học tập TNST khuyến khích các hoạt động trải nghiệm của học sinh.
Phương pháp này chủ yếu tạo ra nhiều hoạt động trải nghiệm liên tiếp cho học sinh để
19


các em khám phá từng bước khả năng sáng tạo của mình. Học sinh không phải học
thuộc lòng, ý nghĩa hay giá trị của mỗi chủ đề bài học mà các em được rèn luyện óc
quan sát, cách miêu tả hay cách phỏng vấn các chủ đề mà các em đang quan tâm. Các
em làm quen với phương pháp nghiên cứu, thu thập và xử lí thông tin, trình bày bằng
các hình thức đa dạng như triển lãm, thuyết trình, báo tường, kịch nói,… các kết quả
tìm hiểu của mình hay của nhóm mình. Sự đam mê chủ động khám phá sẽ dẫn các em
đến sự sáng tạo. Thông qua hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo, các em sẽ được
rèn luyện nhiều kĩ năng sống mà không một phương pháp dạy học nào có thể đạt được.
Trong quá trình TNST, học sinh có cơ hội tương tác cao với các bạn trong nhóm,
trong lớp học. Các em sẽ suy nghĩ, trao đổi về các kiến thức đã được học trước đó và
liên kết thực tế, tìm tòi phát triển và trình bày ý kiến cá nhân. Trong khi đó người thầy
sẽ không truyền thụ kiến thức một chiều mà đóng vai trò cố vấn, định hướng học sinh
cách học, cách tiếp cận, khám phá nội dung bài học.
Như vậy học sinh sẽ đóng vai trò là trung tâm. Qua quá trình học thông qua trải
nghiệm sáng tao, các em được hình thành phương pháp đọc và quan sát một cách tích
cực chủ động, có quan điểm cá nhân.
Tóm lại, học từ trải nghiệm là một phương pháp học hiệu quả có thể thực hiện
với bất cứ lĩnh vực tri thức nào. Nó giúp hình thành năng lực cho người học. Hoạt
động giáo dục nhân cách học sinh cũng đạt được hiệu quả qua hoạt động trải nghiệm.
1.1.4. Vai trò của hoạt động trải nghiệm sáng tạo


- Hoạt động TNST làm tăng tính hấp dẫn trong học tập. Hình thức dạy học trải
nghiệm là hình thức giáo dục HS theo hình thức dạy học ngoài thực tế, chiếm vai trò
rất quan trọng là cầu nối giữa hoạt động giảng dạy và học tập trên lớp với giáo dục học
sinh ngoài lớp. HS vận dụng kiến thức học được vào cuộc sống một cách linh hoạt,
tránh nhàm chán.

- Phát huy tính tích cực tư duy sáng tạo cho HS. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
khai thác được tiềm năng của HS bằng sự nỗ lực của chính bản thân các em. Học tập
trải nghiệm chú trọng vào việc giúp HS khai thác những tiềm năng sẵn có, định hình
những thói quen, tính cách tốt ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, Phương pháp học
này không áp đặt HS mà khuyến khích tối đa sự sáng tạo của các em.
- Dạy học trải nghiệm tạo điều kiện kết nối các kiến thức khoa học liên môn. Nội
dung học tập trải nghiệm rất phong phú và đa dạng mang tính tổng hợp kiến thức kĩ
20


×