Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mỏc – Lênin về hình thái kinh tế-xã hội vào sự nghiệp cụng nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.54 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “xây dựng
đất nước thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất,đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Mục tiêu đó
là sự cụ thể hoá học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội và hoàn
cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những tựu ấy chúng ta không thể quên
được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột
mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt
kinh tế Nhà nước.
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải
đổi mới.
Đề tài: “Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh
tế-xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” là một nội
dung phức tạp và rộng.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1.Mục đích nghiên cứu
Phân tích giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin và vận dụng nó vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích một số vấn đề cơ bản trong lý luận hình thái kinhtế - xã hội của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
1



Phân tích sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác
– Lênin trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu: Lý luận hình thái khinh tế- xã hội
3.2.Phạm vi nghiên cứu: Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam

2


NỘI DUNG
I. Những nội dung cơ bản trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác – Lênin
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có không ít cách tiếp cận,
khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ những nhận thức khác
nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia lịch sử tiến hoá của xã
hội theo những cách khác nhau.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên
cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học
thuyết “hình thái kinh tế xã hội”. Hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chi xã hội ở từng giai đoạn nhất định. Với một
điều quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận hình thái
kinh tế - xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tức toàn bọ
các yếu tố cấu trúc thành bộ mặt của thời đại: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,

khoa học, kỹ thuật… Do đó, nó các nghĩa xã hội được sáng tỏ hơn, toàn diện
hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển xã hội. Loài người đã trải qua năm
hình thái kinh tế - xã hộitheo trật tự từ thấp đến cao đó là. Hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
ngày nay đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế.
Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trử nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu
thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp thì

3


phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiệnmột phương thức sản xuất
mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
Như vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ biện
chứng giũa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.1.1.Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a) Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bọ những năng lượng sản xuất của xã hội ở các
thời kỳ nhất định về mật cấu trúc, lực lượng sản xuất bao gồmhệ thống những tư
liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ
lao động
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và các đối tượng lao động. Ba
yếu tố vật chất quan trọng nhất của quan hệ sản xuất là: lao động, tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Ba yếu tố đó trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ xứ
sở nào cũng không thể thiếu để tiến hành quan hệ sản xuất. Những tư liệu lao
động như trên cùng với các đối tượng lao động tạo thành cái gọi là những tư liệu
sản xuất. Tư liệu sản xuất là bao gồm 2 “yếu tố vật chất” kể trên, không thể kể

đến người lao động. Người lao động và tư liệu sản xuất tạo thành lực lượng sản
xuất của một xã hội. Bất cứ xã hội nào không thể chỉ có người lao động, một lực
lượng để sản xuất ra của cải phải gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Lực lượng sản xuất phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là
biểu hiện trình độ trình phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất
(quan hệ nhất là công cụ lao động) với người lao động với kinh nghiệm và kỹ
năng lao động nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương
thức sản xuất.
b) Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất phản ánh mối quan hệ giữa người với người thể hiện ở 3
mặt: quan hệ tư hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ
4


phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
giữ vị trí quyết định các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con ngườ rạo ra. Song nó được hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Quan hệ sản
xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính phương pháp đa
dạng trong hình thức biểu hiện.
1.1.2. Mối quan hệ biện chứmh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất quyết định mục đích sản xuất: ảnh hưởng tới thái độ của
người lao động kìm hãm việc cải tiến công cụ lao động cũng như việc áp dụng
thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất.
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất mà trước hết là công cụ.

Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ,
thay thế quan hệ sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất vốn và hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù
hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ sản xuất
(ổn định tương đối) quan hệ sản xuất lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp là không phù hợp là bỉểu
hiện mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là sự
phù hợp trong mâu thuẫn bao hàm mâu thuẫn. Khi phù hợp cũng như nếu không
phù hựp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối với
lực lượng sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với lực lượng
sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển quan hệ lợi
ích, từ đó hình thành những yếu tố tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ
5


cũng thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản.
Phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là khách
quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
như sự thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được
Mác – Ănghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất và trình
độ, tính chất của lực lượng sản xuất.
Lực lượng hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là giai cấp là mâu thuẫn
giữa giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài
người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã
hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.

Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến của các nước Tây Âu lực
lượng sản xuất đã mang những yếu tố xã hội gắn với quan hệ sản xuất phong
kiến. Mặc dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được thay đổi liên
tục từ các địa tô lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song quan hệ sản
xuất phong kiến chật hẹp vẫn không chứa đựng được nội dung mới của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất của tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ
sản xuất phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát
triển, cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất
đã hình thành lao động chung của người dân có trí thức và trình độ có chuyên
môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn tới mâu thuẫn gay gắt
vứi chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Theo Mác, do có được lực lượng
sản xuất mới, loài người thay đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi
thay đổi sản xuất làm ăn của mình, loài người thay đổi các quan hệ sản xuất của
mình.
Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của quan hệ
sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
6


Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu
giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở rộng.
Mở ra những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần
với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động
của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các
phương thức sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế xã hội. Dưới những
hình thức và mức độ khác nhau thì con người có ý thức được hay không và quy
luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không
chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.

Mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, đại hội 9 đã khẳng định “ưu tiên” phát triển lực lượng sản
xuất, còn quan hệ sản xuất mới tuy được xây dựng “đồng thời” nhưng phải tính
toán đến sự “phù hợp” với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và theo
“định hướng xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm đối mới này đã tạo cơ sở cho việc đề
ra các giải pháp thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhưng vẫn
không xem nhẹ việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.Thực chất đây
là sự nhận thức đúng đắn quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất ví trình
độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.2.Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xa hội của các quan
hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị
nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới
là quan hệ mầm mống của xã hội sau.
7


Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh thê
khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản
xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các
thành phần kinh tế khác. ở xã hội có giai cấp đối kháng giai cấp này nảy sinh từ
cơ sở hạ tầng, từ những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy
sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế
sẽ thống trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã
hội, trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí quan
trọng nhất.

b) Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tạng của thượng tầng, đó là những quan điểm
tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể
chế tương ứng như nhà nước Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan
hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một thể chế xã hội nhất định người ta
gọi đó là cơ sở hạ tầng.
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết đinh kiến trúc thượng tầng.Vai trò quyết định của cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thể hiện ở một số mặt:
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí
thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả
các lĩnh vực khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương
ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và đời sống
tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ
những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
8


Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn tới sự thay đổi
về kiến trúc thượng tầng. Qúa trình đó diễn ra ngay trong những hình thái kinh
tế xã hội cũng như chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội
khác trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là
mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng được
biểu hiện là mâu thuẫn của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ tầng cũ bị

xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc
thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới.
Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay
bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị
mới. Đương nhiên không phải “khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến
sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng”. Trong quá trình hình thành và phát triển
của kiến trúc thượng tầng mới,nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn
tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai cấp cầm quyền cần
phải biết lựa chọn một số bộ phận hựp lý để sử dụng nó xây dựng xã hội mới.
b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một chiều
vào cơ sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển, chúng có những tác động qua lại
với nhau và ảnh hưởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện trên
các mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện nhiệm vụ
đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ
củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ
của giai cấp thống trị, các bộ phan khác của kiến trúc thượng tầng cũng có tác

9


dụng mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường những tác dụng ấy phải
thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay các thể chế tương ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giản đi
mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến lịch trình lịch sử.Trái lại kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây

dựng xã hội mới, chính mục đích đó quyết định tích cực càng tăng của kiến trúc
thượng tầng của xã hội chủ nghĩa.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện qua
hai trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầngphù hợp với quan hệ
kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại nếu kiến trúc
thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát
triển của kinh tế xã hội, những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm
muộn cũng sẽ bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và
cơ sở thượng tầngchính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế
đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có tác
động mạnh mẽ trở lại.Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ thấp vai
trò của kiến trúc thượng tầng. Nếu tuyệt đối hoá vai trtò của kiến trúc thượng
tầng thì sẽ rơi vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh.
1.3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội.
Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong đó hạt nhân của nó là lý luận
hình thái kinh tế - xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học
trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính là
cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển
của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời
sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng
hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống
xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã
10


hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội với cốt
lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết

hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống
động. các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc
thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng
vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính
xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hoá khoa
học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến
hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hoá, khoa
học,…) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển của
xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy
luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức
và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi
sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội. V.I.Lênin từng nhấn
mạnh rằng: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không
phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó, cho phép có thể
tuỳ ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được ), một cơ thể mà muốn
nghiên cứu nó thì cần phải phan tích một cách khách quan những quan hệ sản
xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định, và cần phải nghiên cứu những
quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”.
Những giá tri khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là
những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã
hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho
những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về lĩnh vực cụ thể
của xã hội. V.I.Lênin từng dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có tham vọng

11


giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa

học để giải thích lịch sử”
II. Sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiêp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo nghĩa chung, khái quát
nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến đổi một nước có một nền kinh tế lạc hậu
thành một nước công nghiệp kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của
văn minh nhân loại về công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta
hiện nay. Đảng ta nêu ra quan niệm về công nghiêp hoá, hiện đại hoá như sau:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng
sức lao động thủ công là chính, sử dụng sức lao động với công nghệ, phương
tiện tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá: mỗi phương thức sản xuất
xã hội nhất định có một cơ sở vật chất kỹ thuật, tương ứng. Cơ sở vật chất – kỹ
thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản
xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghiệp) tương ứng mà lực
lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu
xã hội, chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất của một xã hội là sự
biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, sự phat triển khoa học – kỹ thuật,
tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất thống
trị.
Kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào
công cụ thủ công nhỏ bé lạc hậu. Đặc trưng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa tư bản là nền tảng công nghiệp cơ khí hoá. Chủ nghĩa xã hội giai đoạn
thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư bản đòi hỏi một cơ sở
vật chất kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt:
12



Trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng
khoa học và cách mạng hiện đại. Do vậy, có thể hiểu cơ sở vật chất – kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu hợp lý, có trình
độ hoá xã hội cao dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình
thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thông qua công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư
bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng
đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác
động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoật động chủ
quan của con người. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch
sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
2.2. Qúa trình hình thành, phát triển nhận thức của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,đẻ cải tiến xã hội cũ thành xã
hội mới nhằm đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người, Đảng
Cộng Sản Việt Nam có nhiệm vụ phải vừa lãnh đạo phát triển lực lượng sản xuất
xã hội chủ nghĩa. Xây dựng quan hệ sản xuất là giải quyết mối quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất, từng bước xoá bỏ áp bức, bóc lột,
tạo lập các giá trị công bằng, dân chủ và nhân đạo của chủ nghĩa xã hội. Phát
triển lực lượng sản xuất là giải quyết mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, tạo ra của cải vật chất ngày càng dồi dào đáp ứng nhu cầu thụ hưởng ngày
càng cao của nhân dân. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là con đường đẩy
nhanh tốc độ phát triển lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ

13


nghĩa xã hội. Vì vậy, ngay sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã nêu chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội.
Mà công nghiệp hoá được xem là nhiệm vụ tung tâm của thời kỳ quá độ.
Từ năm 1960 đến năm 2006, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có 46 năm thực hiện
công nghiệp hoá theo quan niệm, mô hình và cơ chế với những thử nghiệm, tìm
tòi, rồi điều chỉnh, bổ sung, phát triển để không ngừng hoàn thiện.
Đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của Đảng từ năm 1960 đến
năm 1986
Giai đoạn năm 1960 đến năm 1975:
Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), với thắng lợi của các kế hoạch
khôi phục kinh tế(1955 - 1957) và bước đàu phát triển kinh tế, văn hóa (1955 –
1960), Đảng nhận thấy tất yếu phải chuyển sang tiến hành công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa trên miền Bắc. Ngay từ những năm 1957 – 1958, khi đánh giá về
kết quả khôi phục kinh tế, vấn đề công nghiệp hoá đã được nêu ra khi giải quyết
tổng thể cơ cấu kinh tế quốc gia thống nhất.Tuy nhiên, phải đến đại hội III của
Đảng (9 - 1960), đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa mới chính thức
định hình đường lối công nghiệp hoá của Đảng được hoạch định, điều chỉnh từ
năm 1960 đến năm 1975 do những đặc điểm sau đây chi phối:
Thứ nhất, tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa từ nền kinh tế lạc
hậu, công nghiệp kém phát triển.
Miền Bắc tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa từ nước nông
nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất nghèo nàn, công nghiệp hầu như không có gì. Di
sản mà chế độ thực dân và phong kiến để lại là một nền kinh tế ít tạo ra khả
năng thúc đẩy công nghiệp hoá, nếu không muốn nói là trình độ quá thấp kém.
Điều này xuất phát từ chủ trương của của thực dân Pháp suốt 80 năm đô hộ Việt
Nam là không phát triển công nghiệp nặng và kìm hãm công nghiệp nhẹ, thạm
chí duy trì cả yếu tố kinh tế từ nền chủ nghĩa. Chính toàn quyền Đông Dương

Paul Doumer đã không giấu giếm ý đồ này: “kỹ nghệ chính quốc phải được bổ
sung chứ không phải bị phá sản bởi kỹ nghệ thuộc địa.
14


Xuất phát điểm nêu trên đặt ra cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa phải
thực hiện một “quá trình kép”: vừa làm những nhiệm vụ của công nghiệp hoá
công hoá tư bản chủ nghĩa (do nước ta chưa trải qua chủ nghĩa tư bản), vừa phải
định hình những nội dung mới của công ngiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện đất nước bị chia cắt,
miền Bắc phải thực hiện vai trò của hậu phương lớn hơn tuyền tuyến lớn miền
Nam và sãn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra miền Bắc.
Sau hiệp nghị Giơnevơ (1954), miền Bắc được giải phóng, có điều kiện
tái thiết sau chín năm bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhưng miền Nam vẫn tiếp
tục nằm dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của cách mạng cả nước,
đặt ra những sứ mệnh lịch sử mới nặng nề của hậu phương lớn miền Nam.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không diễn ra trên phạm vi cả nước,
nên không phát huy được những tiềm năng, thế mạnh của mỗi miền trong quá
trình xây dựng một cơ cấu kinh tế quốc gia thống nhất, tương tác lẫn nhau hiữa
các vùng miền.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc không chỉ đáp ứng nhu
cầu cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, mà còn vì mục tiêu trực tiếp là phục vụ cuộc kháng chiến chống
Mỹ.
Bị đánh phá bằng khôg quân và hải quân của đế quốc Mỹ là những vấn đề
đặt ra không thể không tính toán khi tiến hành công nghiệp hoá ở miền Bắc. theo
đó, xây dựng các nhà máy xí nghiệp… phải xem xét cả khả năng đấu tranh và
hoà bình đan xen, nhất là quy mô và địa bàn phù hợp cho sơ tán, phòng tránh khi
chiến tranh cũng như nhanh chóng khôi phục sản xuất khi hoà bình lặp lại.

Thứ ba, tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện các nước xã hội chủ
nghĩa thực hiện công nghiệp hoá theo đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng và cáh mạng Việt Nam nhận được sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các
nước anh em.
15


Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu từ năm 1960 trong
điều kiện xã hội phát triển đến đỉnh cao, giúp đỡ cách mạng Việt Nam trên tinh
thần chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong điều kiện xuất phát điểm thấp, khả năng
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế kém, nguồn vốn phục vụ công nghiệp hoá chủ yếu
dựa vào sự giúp đỡ của các nước anh em, mà phần lớn trong số đó là viện trợ
không hoàn lại. Tuy vậy, các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ lại thực hiện
chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong quá trình công nghiệp hoá.
Có một thực tế hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa, cụ thể là Liên Xô và Đông
Âu, nhờ tiến hành công nghiệp hoá bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,
nên đã nhanh chóng tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng.
Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960) đã hoạch định đường lối
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đại hội quyết định đưa miền Bắc lên
chủ nghĩa xã hội và đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tự do cho nhân
dânmiền Bắc và làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Đại hội
chỉ ra rằng: “muốn cải tiến tình trạng công nghiệplạc hậu hiện nay của nước ta,
đưa nước ta từ chế độ sản xuấtnhỏ là chủ yếu lên chế độ sản xuất đường công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực hiện công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo
điều cơ bản cho chủ nghĩa xã hội thắng”. Chủ trương công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa của đại hội III là “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước
ta thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.

Vốn cho công nghiệp gồm hai ngườn, một mặt, tranh thủ sự viện trợ của
các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mặt khác tích luỹ từ trong nước, thời kỳ đầu
chủ yếu thông qua tiết kiệm, sau đó tăng cường tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế khi
sản xuất phát triển.
Xoá bỏ hoàn toàn các cơ sở kinh tế tư nhân, tập trung cho khu vực công
nghiệp quốc doanh. Tăng cường sự lãnh đạo công nghiệp, thực hiện phân cấp
16


quản lý công nghiệp giữa trung ương và địa phương, đồng thời đảm bảo sự lãnh
đạo tập trung thống nhất của trung ương.
Xây dựng và củng cố thị trường xã hội chủ nghĩa nhất, áp dụng chế dộ thu
mua và cung cấp có kế hoạch. Nhà nước độc quyền ngoại thương, từ thu mua,
vận chuyển đến xuất khẩu, thu ngoại lệ, nhập thiết bị máy móc phục vụ công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Tích cực đào tạo cán bộ khoa học – kỹ thuật và công nhân lành nghề cho
các ngành kinh tế, đồng thời đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật trên tất cả các lĩnh
vực của nền kinh tế quốc dân. Đào tạo cán bộ kỹ thuật gồm cả trong nước và gửi
đi đào tạo nước ngoài.
Để nhanh chóng đưa snr xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đại
hội IV chỉ ra rằng: điều có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa – nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội – tạo ra một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản
để tạo ra cơ cấu ấy là “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Qúa trình này được thực hiện
bằng cách tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó
cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt.
Quá trình công nghiệp hoá phải được tiến hành từng bước phù hợp với
trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chưa thể dẩy mạnh công
nghiệp hoá, mà là tạo tiên đề cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hoá ở chặng
đường tiếp theo.
Nghị quyết Trung ương bảy khoá VII quan niệm “công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoật động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
17


bộ khoa hoc – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan niệm này
phản ánh một bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về công nghiệp hoá, hiên
đại hoá, thể hiện ở mấy khía cạnh sau:
- Phạm vi công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là sự dịch chuyển cơ
cấu kinh tế theo hướng gia tăng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong GDP mà là
sự chuyển đổi căn bản toàn diện mọi hoạt động kinh tế và hoạt động quản lý; cả
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
- Cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển lực lượng sản
xuất để dần ra tới trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được
dần thay thế bằng sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến.
Công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Từ một nước có xuất phát
điểm thấp, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật lạc hậu còn thua kém nhiều nứơc và
trong điều kiện cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh, công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa phải tuân theo quy luật phát triển tuần tự,
vừa cần thiết phải đi thẳng vào hiện đại hoá để phát triển “ rút ngắn”.Mặc dù,
phát triển “rút ngắn” nhưng không phải nóng vội chủ quan, mà thực chất là đi tắt
đòn đầu những thành tựu khoa học – công nghệ của nhân loại đã đạt được trong
thời kỳ mới.

Công nghiệp hóa hiện đại hóa không chỉ thuần túy là quá trình kinh tế - kỹ
thuật, kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình văn hóa sâu xa hơn là quá trình chất
lượng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hóa, tiêu chuẩn hóa, trí tuệ
hóa, có tác phong công nghiệp, thích ứng với đòi hỏi của chính thực tiễn quá
trình công nghiệp hóa.
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hóa không chỉ đơn giản là
ra sức phát triển công nghiệp, không chỉ nhằm tăng tỷ trọng giá trị công nghiệp
và dịch vụ trong GDP mà phải xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội với các tiềm lực kinh tế - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
18


sản xuất, nhân dân có cuộc sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an
ninh vững chắc. Sự khác nhau căn bản về bản chất của quá trình công nghiệp
hóa ở nước ta với công nghiệp hóa ở các nước tư bản chính là ở mục đích này,
còn hình thức, bước đi, biện pháp tiến hành thì có thể tham khảo kinh nghiệm
các nước đi trước để quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta
không vấp phải những sai lầm mà các nước tư bản đã phạm phải.
Nghị quyết trung ương bảy khóa VII đã cụ thể hóa thành những phương
hướng và những giải pháp cụ thể để phát triển công nghiệp đến năm 2000. Với
nghị quyết trung ương bảy khóa VII, đất nước ta đã chuyển dần sang thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đến năm 1996 đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt ra cho đại
hội VIII tầm nhìn mới về khả năng đưa đất nước chính thức chuyển sang thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6 năm 1996) diễn
ra trong bối cảnh xu thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh trở thành dòng chủ lưu trong
quan hệ quốc tế; cạnh tranh phát triển kinh tế trong hòa bình, tánh đối đầu trở
thành phương châm chỉ đạo đường hướng, chính sách đối ngoại của hầu hết các

quốc gia cách mạng khoa học – công nghệ tiếp túc có bước phát triển như vũ
bão, đặc biệt là Công nghệ thông tin, số hóa, Điện tử, vật liệu mới, năng lượng
mới, công nghệ sinh học. Đối với nước ta, qua 10 năm đổi mới, thế bao vây cấm
vận bị phá vỡ, nước ta bước đầu hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế
giới; nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao, cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều nhu
cầu bức xúc của nhân dân về xã hội từng bước được giải quyết; Quốc phòng –
An ninh được giữ vững. Đại hội VIII đánh giá đất nước đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Thành tựu này cùng với bối cảnh của thời đại đã tạo ra
thời cơ mới cho sự phát triển của đất nước. Đan xen với thời cơ đó là những
nguy cơ, trong đó có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực và thế giới.
19


Tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa nước ta từng bước rút ngắn
khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới, không có
con đường nào khác ngoài đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII ( 6- 1996 ), trên cơ sở đánh giá những thành tựu đã
đạt được trong “chặng đường đầu tiên” đã quyết định đưa đất nước chuyển sang
thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên cơ sở các quan điểm của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương bảy khóa VII, Đại hội VIII đã bổ
sung, phát triển thành sáu quan điểm lớn chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu , đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không
ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện
đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định.[1,120].
Có thể khái quát bước chuyển biến tư duy lý luận về công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa của Đảng ở mấy nét lớn sau đây:
Một là, từ công nghiệp hóa gắn với quan niệm xây dựng quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa đi trước một bước mở đường cho sự phát triển của lực lượng
20


sản xuất, chuyển sang thực hiện ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp.
Hai là, chuyển từ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với cách làm nóng
vội, bỏ qua các bước đi trung gian cần thiết, đã chuyển sang thực hiện công
nghiệp hóa vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn trước tạo tiền đề cho sự phát triển
của giai đoạn sau, vừa cho phép phát triển “rút ngắn” trên cơ sở đi tắt, đón đầu
các thành tựu phát triển nhảy vọt về khoa học và công nghệ của thế giới.
Ba là, từ quan niệm công nghiệp hóa cổ điển chuyển sang quan niệm công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, thực hiện các mục
tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không làm tổn hại đến khả năng
phát triển trong tương lai.
Bốn là, từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp
đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để

đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ cấu
kinh tế công – nông nghiệp và dịch vụ hiện đại.
Năm là, từ nền kinh tế “ khép kín”, “hướng nội”, “quan hệ chỉ khép kín
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa,chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mới, đa
dạng hóa, đa phương hóa phù hợp thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu
kết hợp với thay thế nhập khẩu.
Sáu là, chuyển từ quan niệm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là trách
nhiệm của các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, sang công nghiệp hóa
là trách nhiệm của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo.
Bảy là, chuyển từ công nghiệp hóa thực hiện trong khuôn khổ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang tuân theo thị trường, gắn thị trường
trong nước với thị trường thế giới thành một chỉnh thể hữu cơ, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

21


2.3. Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa – sự
vận dụng sáng tạo lực lượng về hình thái kih tế - xã hội của chủ nghĩa Mác –
Lênin trong tình hình mới
Đại hội IX đã đề ra đường lối kinh tế là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa,xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh”. Chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010 là: “ Đưa đất nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành đồng bộ
về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”
Từ định hướng chiến lược đó, Đại hội xác định “Phát triển kinh tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm”. Nhiều vấn đề do lịch sử để lại
và do thực tiễn cuộc sống thúc bách đòi hỏi phải được giải đáp cả về mặt nhận
thức và tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn với
việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo thu nhập
của người nông dân xấp xỉ bằng thu nhập chung của xã hội và sản phẩm nông
nghiệp thỏa mãn được nhu cầu thị trường trong nước và thế giới. Muốn vậy phải
tổ chức lại sản xuất nông nghiệp thành nền sản xuất hàng hóa có chất lượng
ngày càng cao, áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học và công nghệ, thực hiện cơ
22


giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa và sinh học hóa. Công nghiệp và dịch vụ
vùng nông thôn phải tạo dựng và phát triển vừa để phục vụ đầu vào và đầu ra
của nông nghiệp, vừa để giải quyết việc làm và nghệ nghiệp mới cho số lao
động nông thôn dôi dư và mới tăng thêm, nhất là chế biến, bảo quản sau thu
hoạch, hổ trợ kỹ thuật, chuyên giao công nghệ... Tăng cường đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tâng kinh tế - xã hội nông thôn.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền
vững trong tương lai. Yêu cầu quan trọng hàng đầu là sử dụng hợp lý và tiết
kiệm tài nguyên, bảo và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh
học, coi đây là một nội dung quan trọng của các chiến lược, quy hoạch, kế toán,

chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác quản lý ở
tất cả các lĩnh vực, các vùng; thực hiện nghiêm Luật bảo vệ môi trường.
Nội dung của đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế trong những năm 2006-2010 được Đại hội X xác định là: “Tranh thủ cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Yêu cầu cụ thể của quá
trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức cuer con
người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh
thổ.
- Giảm chi phí trung gian, năng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
23


Từ những quan điểm và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác
định nêu trên, Đại hội X đã chỉ rõ sáu định hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời gian tới:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
+ Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng, dịch vụ
+ Phát triển kinh tế vùng
+ Phát triển kinh tế biển
+ Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ

+ Bảo vệ và sử dụng co hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi
trường tự nhiên.
Công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay không thể hiểu như trước kia.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay cũng không phải đơn thuần là sự phát
triển mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hiện đại hóa tất cả
các ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra sự cân đối hài hòa giữa các ngành
trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh
Phương hướng cụ thể:
Điều đầu tiên cần phải giải quyết là chuyển đổi cơ câu “công – nông
nghiệp và dịch vụ” phù hợp với xu hướng “mở” của nền kinh tế. Vấn đề này
được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lý
trong các ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư.

24


KẾT LUẬN
Nước ta với biết bao nhiêu tiềm năng sẽ trở thành giàu mạnh nếu phát
triển đúng hướng của con đường duy nhất đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội như
Đảng và Nhà nước ta đã chọn thông qua việc công nghiệp hóa kết hợp khôn
ngoan với hiện đại hóa là một cơ hội để nước ta phát huy hêt khả năng, khẳng
định vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới. Và quả thực từ một nước rất
nghèo nàn lạc hậu đến nay ta đã không còn nghèo nàn, chúng ta đã đạt được
những thành quả nhất định trong nhiều lĩnh vực.
Song sẽ là ảo tưởng nếu mù quãng cường điệu và chỉ nhìn vào những
thành tựu có được mà không tiếp xúc nhận thức tình hình thực trạng nước ta so
với nước khác tiến bộ hơn để vận động đưa ra những giải pháp đúng đắn thì
nước ta sẽ tụt hậu và rơi vào tình trạng đói nghèo.
Hiện tượng con rồng châu Á không thể xảy ra nếu còn rất nhiều khó khăn,

lạc hậu, nợ nần chồng chất, bùng nổ dân số, xung đột triền miên về tôn giáo và
sắc tộc... Điều đó đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt , linh hoạt trong sợ đổi mới
vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có lý luận
về hình thái kinh tế - xã hội.

25


×