Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Danh mục từ viết tắt
UBND
Ủy Ban nhân dân
Công ước Lahay năm 1993
Công ước Lahay năm 1993 Về bảo vệ trẻ em và
hợp tác tron lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế
Luật Nuôi con nuôi 2010
Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày
17/06/2010
Luật HN&GĐ 2000
Luật Hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10
Luật HN&GĐ 2014
Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13
ngày 19/06/2014
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.................................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.............................................................3
3.1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.............................................................................3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài............................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.............................................................3
4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài...........................................................................3
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài..............................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài...........................................................................4
6. Những đóng góp mới của đề tài...........................................................................5
7. Kết cấu của đề tài..................................................................................................5
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NUÔI
CON NUÔI TẠI VIỆT NAM......................................................................................6
1.1. Khái niệm về con nuôi và nuôi con nuôi..........................................................6
1.1.1. Khái niệm về con nuôi..................................................................................6
1.1.2.Khái niệm về nuôi con nuôi..........................................................................7
1.2. Khái niệm về pháp luật nuôi con nuôi..............................................................8
1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh nuôi con nuôi bằng pháp luật.........................11
1.4. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi.......................................................................12
1.5. Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết của việc nuôi con nuôi...................13
1.5.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia
đình gốc................................................................................................................14
1.5.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm
con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam
nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.........................................................15
1.5.3. Nguyên tắc chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không tìm được
gia đình thay thế trong nước................................................................................17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...........................................................................................19
CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC TẠI VIỆT
NAM............................................................................................................................ 20
2.1. Điều kiện về nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam....................................20
2.1.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi....................................20
2.1.2. Điều kiện về sự đồng ý cho làm con nuôi.................................................22
2.1.3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi.....................................................25
2.2. Các hành vi bị cấm về nuôi con nuôi.............................................................28
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
2.3. Trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em...............................................32
2.4. Đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.........................................................34
2.4.1. Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước................................34
2.5.
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong nước....................................39
2.5.1. Quan hệ giữa người được nhận nuôi và người nhận nuôi.......................40
2.5.2. Quan hệ giữa người được nhận nuôi và các thành viên khác trong gia
đình cha mẹ nuôi..................................................................................................43
2.5.3. Quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với cha mẹ đẻ...................44
2.6. Chấm dứt việc nuôi con nuôi..........................................................................45
2.6.1. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi.........................................................46
2.6.2. Thủ tục giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi.......................................48
2.6.3. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi trong nước...............................49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...........................................................................................51
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC..52
3.1. Tình hình về nuôi con nuôi tại thành phố Châu Đốc.................................52
3.2. Những bất cập tồn tại và nguyên nhân dẫn đến bất cập trong quá trình áp
dụng pháp luật về việc nuôi con nuôi tại thành phố Châu Đốc...........................54
3.2.1. Những bất cập tồn tại trong quá trình trong quá trình áp dụng pháp luật
về việc nuôi con nuôi tại thành phố Châu Đốc...................................................54
3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến các bất cập tồn tại trên địa bàn thành phố
Châu Đốc..............................................................................................................58
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện trong quá trình áp dụng pháp luật về việc nuôi
con nuôi tại thành phố Châu Đốc..........................................................................59
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi tại Việt Nam......................59
3.3.2. Giải pháp về tổ chức, thực hiện trên địa bàn thành phố Châu Đốc.........61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...........................................................................................63
KẾT LUẬN................................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nuôi con nuôi là một vấn đề xã hội xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế
giới và được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các nước trên cơ sở phù hợp với
điều kiện kinh tế và mục đích xã hội của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, nuôi con nuôi là
một vấn đề mang tính nhân đạo luôn vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, được Đảng và Nhà
nước ta đã quan tâm sâu sắc. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay thì chất lượng
cuộc sống của người dân ngày càng tăng lên nhưng tỷ lê vô sinh và gia đình hiếm
muộn con cũng tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, nhu cầu nhận con nuôi của những
người chưa kết hôn cũng đang phát triển khá mạnh mẽ. Vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi
càng trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội hiện nay.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi ở nước ta được hình thành từ khá sớm
và trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền
của trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình. Bên
cạnh đó, vấn đề này đã động viên khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người
Việt Nam, giữ gìn và phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách
trong nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, hệ thống pháp luật này vẫn còn
bộc lộ những hạn chế và bất cập nhất định. Chẳng hạn, theo Luật Hôn nhân và gia đình
số 22/2000/QH10 ngày 09/06/2000 thì các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi còn
được quy định hạn chế trong nhiều văn bản khác nhau. Hai khung pháp lý về nuôi con
trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hầu như được quy định riêng rẽ, làm
cho cơ chế thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi thiếu đồng bộ và thống nhất.
Trước tình hình đó, ngày 17/6/2010 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 7 đã ban hành Luật Nuôi con nuôi số 52/2010 QH12 có
hiệu lực thi hành ngày 01/01/2011 đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc, thiết thực của
Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo vệ trẻ em và tạo ra cơ sở pháp lý đồng bộ
nhằm điều chỉnh về quan hệ nuôi. Thông qua pháp luật nuôi con nuôi tại Việt Nam quy
định các quyền và nghĩa vụ của người nhận nuôi con nuôi cũng như người được nhận
làm con nuôi, điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp, các thủ tục và thẩm quyền
đăng ký nuôi con nuôi đã được quy định một cách cụ thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của trẻ em được nhận làm con nuôi. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
nuôi con nuôi cũng còn nhiều vấn đề bất cập tồn tại trong các quy định của pháp luật
và ngay ở trên địa bàn thành phố Châu Đốc. Chính vì những lý do đó, người viết đã
lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi. Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện tại Thành Phố Châu Đốc” làm đề tài tốt nghiệp cử nhân Luật, chuyên
ngành Luật Kinh tế của mình.
1
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã ra đời đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển
khung pháp luật Việt Nam về việc nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, những năm gần đây
nghiên cứu pháp luật về nuôi con nuôi là đối tượng quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu kể
cả việc nuôi con nuôi trong nước và việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, vấn đề này
cũng đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như:
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan (2011) “Việc nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc
mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng theo Luật Nuôi con nuôi”, tạp chí luật học số 08 đã
có sự phân tích trong trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng
xác lập quan hệ nuôi con nuôi được hưởng một số ngoại lệ về điều kiện nhận con nuôi. Từ
sự phân tích đó, bài viết đã đưa ra một số bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
pháp luật;
Bài viết của tác giả Nguyễn Phương Lan (2011) “Hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi theo Luật nuôi con nuôi Việt Nam”, tạp chí luật học số 10 đã có sự tiếp cận gần với
các quy định của pháp luật về việc nuôi con nuôi trên cở sở xác lập quan hệ việc nuôi con
nuôi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong việc nuôi con
nuôi;
Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Bùi Thị Thanh Lê (2015) “Các điều kiện
nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010”, luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại
học quốc gia Hà Nội đã tập trung phân tích về các điều kiện nuôi con nuôi và đánh giá
một số nét thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi từ sau khi Luật Nuôi
con nuôi có hiệu lực đến nay;
Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Bùi Thị Hương (2011) “Nuôi con nuôi
theo pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học quốc gia Hà Nội;
Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Phan Thùy Dương (2013) “Thực tiễn
pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn tại tỉnh Thừa thiên Huế”, luận văn thạc sĩ luật
học, trường Đại học quốc gia Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã có sự đóng góp tích cực vào việc
hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi cả về mặt lý luận và thực
tiễn dưới nhiều gốc độ khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi. Vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi và đánh giá
thực trạng áp dụng pháp luật trong 06 năm qua từ năm 2011 – 2017 khi áp dụng pháp
luật Việt Nam về việc nuôi con nuôi tại Thành Phố Châu Đốc là không trùng lập với
bất kỳ công trình nghiên cứu khác.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi,
người viết muốn tìm hiểu rõ hơn về lý luận chung của việc nuôi con nuôi trong nước,
đồng thời tìm hiểu những thực trạng của việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trong
nước tại thành phố Châu Đốc qua đó có thể đánh giá một số bất cập của pháp luật còn
tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay trên địa bàn nghiên cứu. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện với mong muốn có thể góp phần hoàn thiện quy định
pháp luật Việt Nam và đảm bảo việc thi hành, áp dụng pháp luật về việc nuôi con nuôi
trong nước hiện nay có hiệu quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đề tài, cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu những vấn đề lý luận chung của pháp luật Việt Nam về nuôi
con nuôi trong nước;
Thứ hai, đánh giá một số thực trạng việc áp dụng pháp luật Việt Nam về nuôi con
nuôi trong nước tại thành phố Châu Đốc từ năm 2011 - 2017, trên cơ sở đó sẽ phân
tích những bất cập tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trong
nước trên địa bàn thành phố Châu Đốc;
Thứ ba, đề xuất một giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước tại
thành phố Châu Đốc nhằm tạo điều kiện cho việc thi hành, áp dụng pháp luật thuận lợi
và thống nhất trong công tác nuôi con nuôi ở nước ta hiện nay;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu và phân tích các văn bản pháp luật
hiện hành tại Việt Nam điều chỉnh về vấn đề nuôi con nuôi trong nước theo Luật Nuôi
con nuôi năm 2010 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến việc
nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, sẽ tiếp tục nghiên cứu và đánh giá thêm về thực trạng
nuôi con nuôi trong nước tại thành phố Châu Đốc, từ đó đưa ra một số bất cập tồn tại
và giải pháp hòan thiện áp dụng pháp luật tại thành phố Châu Đốc cũng như góp phần
hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những quy định về việc nuôi con nuôi trong nước
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trên cơ sở có sự so sánh với Luật Hôn
nhân và gia đình 2000. Bên cạnh đó, sẽ tiếp tục nghiên cứu và đánh giá thêm về một
số thực trạng nuôi con nuôi tại thành phố Châu Đốc nhằm góp phần hệ thống hóa lý
luận về chế độ pháp lý đối với việc nuôi con nuôi trong nước, đồng thời nêu ra một số
kiến nghị cho việc hoàn thiện Luật Nuôi con nuôi 2010 về việc áp dụng pháp luật nuôi
con nuôi tại thành phố Châu Đốc hiện nay.
3
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu giới hạn về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam theo quy
định của pháp luật hiện hành như sau Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Nghị định
19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành Luật Nuôi con nuôi năm
2010 và một văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến việc nghiên cứu đề tài
bao gồm các điều kiện đối với các chủ thể có liên quan trong việc nuôi con nuôi trong
nước, trình tự thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trong nước, để đảm bảo cho việc nuôi con
nuôi có giá trị pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Ngoài ra, đề
tài còn nghiên cứu thêm về việc chấm dứt nuôi con nuôi trong nước, thẩm quyền chấm
dứt việc nuôi con nuôi trong nước và hệ quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi.
Loại trừ các quy định về hoạt động nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; nuôi con
nuôi trên thực tế mà chưa đăng ký; nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau
tạm trú ở nước ngoài; đăng ký lại việc nuôi con nuôi, công nhận việc nuôi con nuôi đã
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ngoài ; vấn đề phí, lệ phí đăng ký
nuôi con nuôi, thì đề tài sẽ không nghiên cứu.
Đề tài sẽ tìm hiểu thực trạng của việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong
nước trên địa bàn thành phố Châu Đốc từ năm 2011 đến năm 2017, từ đó sẽ đưa ra một
số bất cập tồn tại và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi
trong nước hiện nay tại thành phố Châu Đốc
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích và tìm hiểu các vấn
đề về lý luận chung, quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng áp dụng quy định
pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
Thứ hai, Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm chủ yếu trong việc rút ra
những nhận định, ý kiến đánh giá sau quá trình phân tích ở từng nội dung, các chương
và kết luận của đề tài.
Thứ ba, Phương pháp chứng minh được sử dụng ở hầu hết các nội dung của đề tài
nhằm đưa ra các dẫn chứng làm rõ các luận điểm trong đề tài.
Thứ tư, Phương pháp thống kê nhằm thu thập thông tin và số liệu thông qua quá
trình áp dụng pháp luật về việc nuôi con nuôi trong nước trên địa bàn thành phố Châu
Đốc.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Với tính chất là một đề tài nghiên cứu các vấn đề pháp luật quy định về nuôi con
nuôi trong nước và thực trạng áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trong nước tại thành
phố Châu Đốc, kết quả đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới như sau:
4
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
Thứ nhất, đề tài đã phân tích một cách có hệ thống từ các vấn đề lý luận chung đến
pháp luật quy định về nuôi con nuôi trong nước trên cơ sở nghiên cứu theo quy định
pháp luật hiện hành tại Việt Nam nhằm góp phần quan trọng trong việc tiếp tục thực
hiện nghiên cứu pháp luật về nuôi con nuôi trong nước hiện nay.
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi
trong nước, đề tài đã có sự đánh giá thực trạng và thống kê số liệu từ năm 2011 -2017
về việc đăng ký nuôi con nuôi trong nước tại thành phố Châu Đốc. Trên cơ sở đó, đề
tài đã chỉ ra được một số bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng pháp luật về nuôi con
nuôi trong nước trên địa bàn thành phố Châu Đốc.
Thứ ba, đưa ra được một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện về pháp luật nuôi
con nuôi trong nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nhận nuôi và
người được nhận làm con nuôi. Bên cạnh đó, để Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đi vào
đời sống xã hội nói chung cũng như ở thành phố Châu Đốc nói riêng được thực thi có
hiệu quả hơn. Khẳng định được bản chất tiến bộ, dân chủ và càng ngày phù hợp với
thông lệ quốc tế cuả pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi trong nước.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của đề
tài được chia làm 3 chương ở phần lý thuyết như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật nuôi con nuôi tại Việt Nam
Chương 2: Pháp luật về nuôi con nuôi trong nước tại Việt Nam
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi
trong nước tại thành phố Châu Đốc
5
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI
TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về con nuôi và nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm về con nuôi
Tại Việt Nam, vấn đề nuôi con nuôi đã được quy định trong hệ thống pháp luật từ
lâu. Luật ngày 09/06/2000 của Quốc hội số 22/2000/QH10 về Hôn nhân và gia đình
(sau đây gọi tắt là Luật HN&GĐ 2000) trước đây đã dành hẳn một chương riêng quy
định về vấn đề con nuôi nhưng luật lại không đưa ra quy định cụ thể về khái niệm con
nuôi dẫn đến trong quá trình áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi không thể xác định
được một thuật ngữ thống nhất về con nuôi. Trước tình hình đó, tại Khoản 3, Điều 3
Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17/06/2010 (sau đây gọi tắt là Luật Nuôi
con nuôi 2010) đã đưa ra khái niệm cụ thể: “Con nuôi là người được nhận làm con
nuôi. Sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”
nhằm tạo ra cách hiểu chung thống nhất về con nuôi. Theo đó, khái niệm về con nuôi
trong Luật Nuôi con nuôi 2010 được hiểu như sau:
Thứ nhất, con nuôi là việc một người được người không sinh ra người đó nhận
làm con nuôi. Theo đó, giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi
không có quan hệ huyết thống và không mang gen di truyền giống với cha mẹ đẻ và
con đẻ. Tuy nhiên, con nuôi cũng có thể có quan hệ huyết thống trong phạm vi nhất
định với người nhận con nuôi nhưng không do người nhận con nuôi sinh ra như cô,
cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi.
Thứ hai, người được nhận làm con nuôi chỉ được xem là con nuôi của người nhận
con nuôi khi được pháp luật công nhận qua thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Như vậy, việc đưa ra khái niệm về con nuôi đã cho thấy mối quan hệ giữa con nuôi
và người được nhận nuôi hình thành dựa trên quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đây là cầu nối cho ý chí, nguyện vọng của các bên tham gia quan hệ nuôi
con nuôi được thực hiện. Chính vì vậy, không phải bất cứ trường hợp nào chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em đều làm cho người được nhận làm con nuôi trở thành con nuôi của
người nhận nuôi, mà chỉ được pháp luật công nhận khi việc nuôi con nuôi được đăng
ký theo đúng thủ tục và quy định của pháp luật.
6
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
1.1.2. Khái niệm về nuôi con nuôi
Theo Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện thì quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi
và người được nhận làm con nuôi là “mối quan hệ ràng buộc một người vào một hoặc
hai người khác, những người có liên quan không có mối quan hệ huyết thống với nhau
như cha mẹ và con đẻ, nhưng người nhận nuôi được xem như cha mẹ của người được
nhận làm con nuôi, dù không sinh ra người được nhận làm con nuôi thì người được
nuôi về phần mình coi người nhận nuôi như cha mẹ ruột của mình. Đó là quan hệ cha
mẹ và con được xác lập không bằng con đường sinh sản mà theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng của hai bên, đặc biệt
là của người nuôi”1. Như vậy, có thể thấy rằng nuôi con nuôi là một khái niệm được
quy định một cách cụ thể tại Điều 67 Luật HN&GĐ 2000. Trên cơ sở đó, tại Khoản 1
Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 đã tiếp tục cụ thể hóa khái niệm về nuôi con nuôi đó
như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi
và người được nhận làm con nuôi”. Do đó, có thể xem xét khái niệm trên về nuôi con
nuôi là một sự kiện pháp lý và nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật
Thứ nhất, nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý “những sự kiện xảy ra trên thực
tế ứng với các quy phạm pháp luật làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một hay nhiều
quan hệ pháp luật”2. Như vậy, nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
Quan hệ này, được xác lập trên cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận dựa trên ý chí, nguyện vọng và tình cảm giữa hai bên chủ thể trong việc nuôi con
nuôi và tuân thủ các điều kiện pháp luật quy định về việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi.
Thứ hai, nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật “các quan hệ xã hội được quy
phạm pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, quan hệ pháp luật chỉ được thiết lập trên thực
tế khi có sự kiện pháp lý tương ứng với một quy phạm pháp luật” 3. Như vậy, quan hệ
pháp luật về nuôi con nuôi là những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi về
quyền và nghĩa vụ trên cơ sở quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi và được các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Quan hệ pháp luật nuôi con nuôi sẽ có đầy đủ các yếu tố về chủ thể, khách thể và nội
dung.
1
TS. Luật học Nguyễn Ngọc Điện (2013), Bình luận Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ
TP.Hồ Chí Minh, trang 197
2
TS.Phan Trung Hiền (2011), Lý luận về nhà nước và pháp luật quyển 2, Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự
thật, trang 135
3
TS. Phan Trung Hiền (2011), Lý luận về nhà nước và pháp luật quyển 2, Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự
thật, trang 122
7
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
Cơ sở chủ yếu trong việc xác lập cha mẹ con trong việc nuôi con nuôi chính là
việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đây cũng chính là cơ sở để phân
biệt giữa việc nuôi con nuôi nói chung và việc nuôi con nuôi thực tế nói riêng. Hai
hình thức này, có nhiều điểm tương đồng với nhau đều được hình thành trên cơ sở ý
chí, nguyện vọng và tình cảm giữa các bên chủ thể có liên quan trong việc nuôi con
nuôi. Việc nuôi con nuôi phải đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi và mang đúng bản chất, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi nhằm xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi, không
phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung của
việc nuôi con nuôi nói chung và việc nuôi con nuôi trên thực tế có những điểm riêng
biệt là cả hai hình thức này đều xác lập việc nuôi con nuôi giữa người nhận nuôi và
người được nhận làm con nuôi nhưng việc nuôi con nuôi nói chung thì phát sinh quan
hệ nuôi dưỡng và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, riêng về việc nuôi
con nuôi thực tế thì chỉ phát sinh quan hệ nuôi dưỡng mà không có đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm. Do đó, việc nuôi con nuôi thực tế sẽ không làm phát sinh quan hệ
pháp lý và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ con theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, việc đưa ra khái niệm về nuôi con nuôi nhằm tạo ra một hệ thống thuật
ngữ pháp lý về nuôi con nuôi để có cách nhìn nhận và toàn diện chính xác về việc nuôi
con nuôi. Việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được
nhận làm con nuôi sẽ làm phát sinh đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
về việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp lý khi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và được pháp luật điều chỉnh.
1.2. Khái niệm về pháp luật nuôi con nuôi
Pháp luật nuôi con nuôi là “hệ thống tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, điều chỉnh việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ pháp lý giữa người nhận nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi và các chủ
thể khác có liên quan trong việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi
con nuôi và người được nhận làm con nuôi” 4. Có thể xem xét hệ thống pháp luật về
nuôi con nuôi qua các giai đoạn sau như sau:
Trước khi Luật Nuôi con nuôi 2010 ra đời thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
là đạo luật đầu tiên của nước ta điều chỉnh về vấn đề nuôi con nuôi. Tuy nhiên, vấn đề
nuôi con nuôi chỉ quy định rất ít cụ thể như quyền và nghĩa vụ của con nuôi thẩm
quyền đăng ký và hủy bỏ việc nhận nuôi con tại Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959. Sau đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời và đã ghi rõ mục đích
4
Phan Thùy Dương (2013), Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 15
8
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
của việc nuôi con nuôi tại Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 “nhằm gắn bó
tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con, bảo đảm người
con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt”, luật cũng đã quy
định về điều kiện con nuôi và người nhận con nuôi, thủ tục công nhận việc nuôi con
nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong vấn đề nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi
con nuôi từ Điều 34 đến Điều 39 và vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được
quy định tại Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Chế định về nuôi con
nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam và được quy định
ngày càng đầy đủ hơn thể hiện được quan điểm của nhà nước ta trong việc bảo vệ và
chăm sóc các quyền cơ bản của trẻ em trong đó có quyền được nhận làm con nuôi.
Đến Luật Hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10 ngày 09/06/2000 (sau đây gọi
tắt là Luật HN&GĐ 2000) đã dành một chương riêng, chương VIII quy định về con
nuôi từ Điều 67 đến Điều 78, trong đó quy định cụ thể về việc nuôi con nuôi, điều kiện
đối với người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, vợ chồng cùng
nhận nuôi con nuôi, sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm
con nuôi, đăng ký việc nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên xác định dân tộc của con nuôi,
quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi,… Bên
cạnh đó, tại chương XI của Luật HN&GĐ 2000 cũng quy định về quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài trong đó cũng có rất nhiều quy định khá đầy đủ về vấn đề này. Trên
cơ sở đó, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, pháp luật về nuôi con nuôi đang
bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập. Các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi được quy
định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Nghị định số 68/2002/NĐCP ngày 10/07/2002 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia
đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 Quy định về đăng ký và quản lý hộ tịch (sau đây
gọi tắt là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP); Nghị định số 69/2006/NĐ-CP 21/07/2005
Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày
08/12/2006 Hướng dẫn thực hiện một số quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài và các văn bản pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, về phòng
chống buôn bán phụ nữ và trẻ em … Việc nuôi con nuôi được quy định trong Luật
Hôn nhân và Gia đình qua các thời kỳ và một số văn bản dưới luật điều chỉnh thêm về
vấn đề này có ý nghĩa góp phần, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; đồng thời góp
phần giải quyết một phần hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây
ra trước đây. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật này chưa được quy định
9
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
thống nhất trong một đạo luật chung, nên một số quy định về nuôi con nuôi còn chồng
chéo và mâu thuẫn với nhau đã làm giảm hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật trên
thực tế.
Để khắc phục các bất cập, hạn chế trên và bảo đảm sự thống nhất, khả thi của các
quy định pháp luật về nuôi con nuôi trong mối tương quan hài hòa với phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt trước yêu cầu hội nhập quốc tế khi Việt Nam tham
gia ký kết Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực con nuôi quốc tế (sau đây gọi tắt là Công ước Lahay năm 1993), yêu cầu pháp luật
Việt Nam phải hải hòa với pháp luật các nước trên thế giới và phù hợp với thông lệ
quốc tế. Do đó, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp
thứ 7, thông qua ngày 11/06/2010 đã thống nhất thông qua Luật Nuôi con nuôi, luật
này có hiệu luật thi hành vào ngày 01/01/2011. Phạm vi điều chỉnh Luật Nuôi con nuôi
bao gồm: “nguyên tắc, điều kiện nuôi con nuôi, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi
con nuôi, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi và con nuôi, trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức về nuôi con nuôi”5. Tất cả những quy định mà Luật Nuôi con nuôi 2010 đưa ra
nhằm mục đích cao nhất là xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích
tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
Sau khi Luật Nuôi con nuôi 2010 có hiệu lực, thì vào ngày 21/03/2011 Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 19/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Nuôi con nuôi ( sau đây gọi tắt là Nghị định số 19/2011/NĐ-CP)
quy định về thẩm quyền đăng ký về việc nuôi con nuôi, một số thủ tục giải quyết về
việc nuôi con nuôi, lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
nuôi con nuôi ở khu vực biên giới… Các văn bản pháp lý nói trên đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng trong việc áp dụng để giải quyết việc nuôi con nuôi không chỉ trong nước
mà còn có cả nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong đó tăng cường giải quyết cho
trẻ em làm con nuôi trong nước, việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ là biện
pháp thay thế cuối cùng sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thu xếp
được cho trẻ em làm con nuôi trong nước. Mỗi quy định cụ thể của Luật Nuôi con nuôi
2010 luôn bám sát mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn
hội nhập hiện nay và chú trọng điều chỉnh những vấn đề ổn định và lâu dài trong lĩnh
vực nuôi con nuôi. Ngoài các văn bản pháp luật nói trên để việc nuôi con nuôi được
thực hiện thuận lợi về thủ tục và đạt được mục đích nhân đạo là tìm một mái ấm gia
đình cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trong thời gian qua đã có một số văn bản dưới
luật khác ra đời như sau: Thông tư số 12/2011/TT-BTP ngày 27/06/2011 Về việc ban
5
Theo Điều 1 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
10
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
hành và hướng dẫn ghi chép, lưu trữ, sử dụng, biểu mẫu nuôi con nuôi; Thông tư
24/2014/TT-BTP ngày 29/12/2014 Sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư
12/2011/TT-BTP về việc ban hành và hướng dẫn ghi chép, lưu trữ, sử dụng, biểu mẫu
nuôi con nuôi; Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP). Đến ngày 19/06/2014 Quốc hội khóa 13 đã ban hành Luật
số 54/2014/QH13 về Hôn nhân và gia đình (sau đây gọi tắt là Luật HN&GĐ 2014) đã
thay thế cho Luật HN&GĐ 2000 đã có sự kế thừa quy định về nuôi con nuôi, tuy nhiên
theo Luật HN&GĐ 2014 thì vấn đề nuôi con nuôi chỉ đề cập dưới gốc độ quyền và
nghĩa vụ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi tại Điều 78.
Như vậy, về cơ bản thì quy định pháp luật về nuôi con nuôi đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật. Mỗi quy định cụ thể về vấn đề nuôi con
nuôi luôn bám sát mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn tiếp theo
mang tính ổn định và lâu dài trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh nuôi con nuôi bằng pháp luật
Môi trường gia đình là nơi có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách của mỗi con người, nhưng không phải tất cả trẻ em được sinh ra đều có cha mẹ
và đều có may mắn giống nhau. Vì vậy, việc nuôi con nuôi đối với những trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn được xem là biện pháp bảo đảm tốt nhất cho trẻ em thể hiện được sự tôn
trọng những quyền cơ bản của trẻ em, đảm bảo cho trẻ em được yêu thương chăm sóc,
nuôi dưỡng trong môi trường gia đình tốt nhất và đây là việc làm thể hiện truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta lá lành đùm lá rách luôn được xã hội ủng hộ. Bên cạnh đó, mối quan hệ
gia đình trong việc nuôi con nuôi được phát sinh trên cơ sở thể hiện ý chí, tình cảm,
nguyện vọng giữa các bên chủ thể có liên quan, không dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống
như cha mẹ đẻ và con đẻ nhằm góp phần đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi
được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt đồng thời thỏa mãn được lợi ích ích tinh thần
của người nhận con nuôi mong muốn gắn bó tình cảm lâu dài với người được nhận làm
con nuôi. Tuy nhiên, trên thực tế lợi ích của trẻ em trong việc nuôi con nuôi có thể sẽ
không được đảm bảo hoặc nhằm mục đích vụ lợi khác, làm biến đổi mục đích, ý nghĩa tốt
đẹp của việc nuôi con nuôi. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em trong
việc nuôi con nuôi cần có các quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này là cần thiết bởi
những lý do sau:
Thứ nhất, ở góc độ trẻ em tạo ra một hành lang pháp lý nhằm đảm bảo mục đích
việc nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi. Lợi ích tốt
nhất đối với người được nhận làm con nuôi phải xem xét trên mọi phương diện của
11
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
cuộc sống và là yếu tố có tính quyết định đến việc nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, sự cần
thiết cơ bản pháp luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi là đem đến cho trẻ em một quan
hệ gia đình hợp pháp tạo cho trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc, và giáo dục trong
môi trường gia đình tốt nhất.
Thứ hai, pháp luật điều chỉnh các điều kiện và quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể
có liên quan là điều cần thiết nhằm đảm bảo được sự ổn định, bền vững lâu dài trong
việc nuôi con nuôi cũng như bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể
có liên quan, mà trước hết là trẻ em được nhận làm con nuôi. Mặt khác, quy định của
pháp luật về nuôi con nuôi cũng chính là cơ sở pháp lý để giải quyết khi xảy ra tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi
cũng như xử lý các hành vi vi phạm của các cá nhân, tổ chức, cơ quan trong lĩnh vực
nuôi con nuôi. Bởi vì, không có các quy định mang tính quy phạm thì các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ không có căn cứ để giải quyết, vì vậy quyền và lợi ích giữa các
bên có liên quan không được đảm bảo trong những trường hợp xảy ra tranh chấp hoặc
có hành vi vi phạm trong lĩnh vực này.
Thứ ba, ở góc độ xã hội việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi là cơ sở giảm đi
gánh nặng đối với nguồn ngân sách nhà nước vì không phải đưa các trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi hoặc trẻ em không nơi nương tựa… vào các cơ sở nuôi dưỡng mà vẫn
đảm bảo được lợi ích tốt nhất cho trẻ em là đem lại một gia đình tốt nhất cho trẻ em
thông qua việc xác lập nuôi con nuôi.
Như vậy, việc thiết lập hành lang pháp lý vững chắc về việc nuôi con nuôi hiện
nay là một vấn đề cần thiết, đồng thời là cơ sở pháp lý để giải quyết một cách hợp lý
và hợp tình phù hợp với thực trạng khách quan của quan hệ nuôi con nuôi nhằm bảo
vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi
đặc biệt là người được nhận làm con nuôi.
1.4. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Hiện nay, nước ta là một quốc gia đang phát triển với mức thu nhập của người
dân còn thấp nên điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn kèm theo nhiều vấn đề phát
sinh từ xã hội, có rất nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như: trẻ em mồ côi, trẻ em bị
bỏ rơi, trẻ em không nơi nương tựa…. Trong khi đó, ở độ tuổi này những trẻ em đó
phải được sống trong môi trương gia đình tốt nhất và nhận sự chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục từ cha mẹ. Vì vậy, việc nuôi con nuôi càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa
trong đời sống xã hội hiện nay như sau:
Thứ nhất, đối với người được nhận làm con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của con
nuôi và đem lại cho con nuôi một gia đình nơi có vai trò quan trọng trong việc hình
thành nhân cách của mỗi con người. Người được nhận làm con nuôi sẽ được hưởng sự
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình từ cha mẹ nhằm tạo cho
12
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
người được nhận làm con nuôi có sự phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần.
Đây cũng là biện pháp bảo vệ thiết thực về quyền trẻ em, đặc biệt là quyền được sống
trong môi trường gia đình của trẻ em.
Thứ hai, đối với người nhận con nuôi thì việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan
hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững. Bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng đem lại cho
họ một đứa con phù hợp đối với nguyện vọng của họ và đáp ứng được nhu cầu về tình
cảm, tinh thần một cách đầy đủ và trọn vẹn của người làm cha, làm mẹ. Có thể thấy
rằng, nhiều cặp vợ chồng hoặc những người độc thân vì không có khả năng sinh con
nên họ có nhu cầu nhận con nuôi nhằm mong muốn giúp họ thực hiện được quyền làm
cha mẹ của mình, được thể hiện tình cảm của những người làm cha, mẹ đối với con.
Thứ ba, việc nuôi con nuôi đem lại ý nghĩa cho toàn xã hội thông qua việc đem
lại một mái ấm gia đình cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo cho con nuôi
được lớn lên trong môi trường có sự giáo dục tốt từ cha mẹ nuôi để trở thành người có
ích cho xã hội. Mặt khác, nhằm góp phần làm giảm tình trạng trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi,
không nơi nương tựa rơi vào các hành vi vi phạm pháp luật hoặc vướng vào các tệ nạn
xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình và xã hội.
Như vậy, việc nuôi con nuôi có ý nghĩa vô cùng quan trọng đáp ứng một cách hài
hòa giữa lợi ích của người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Nếu nhân
cách của con người bao gồm hai mặt: đức và tài, thì gia đình là nơi nuôi dưỡng đạo
đức và gieo mầm tài năng. Do đó, việc nuôi con nuôi sẽ tạo cho trẻ em được sống dưới
mái ấm gia đình, góp phần vào việc xây dựng và ươm mầm tài năng cho nước ta.
1.5. Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết của việc nuôi con nuôi
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 lần đầu tiên đã quy định về nguyên tắc giải quyết
việc nuôi con nuôi tại Điều 4. Trong mọi trường hợp, khi tiến hành giải quyết việc
nuôi con nuôi đều phải tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc mà pháp luật đã quy định.
Bên cạnh đó, các nguyên tắc không chỉ có giá trị chi phối toàn bộ quá trình giải quyết
việc nuôi con nuôi mà con chi phối việc thực hiện nuôi con nuôi tại Việt Nam. Như
vậy, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi bao gồm ba nguyên tắc: “khi giải
quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường
gia đình gốc; Việc nuôi con nuôi phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người
nhận được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không
phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội; Chỉ cho làm con nuôi
người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế trong nước”6.
1.5.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình
gốc
6
Theo Điều 4 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
13
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
Gia đình gốc là “gia đình của những người có quan hệ huyết thống”7 bao gồm cha
mẹ đẻ; anh, chị, em ruột; ông bà nội ngoại; cô, cậu, dì, chú, bác ruột… và là nơi trẻ em
được sinh ra, cái nôi để hình thành cho sự phát triển sau này và được chăm sóc, nuôi
dưỡng về thể chất, tinh thần và trí tuệ. Khi được sinh ra trẻ em còn non nớt về thể chất
và trí tuệ nên trẻ em cần được chăm sóc đặc biệt trong bầu không khí yêu thương, hạnh
phúc của gia đình có cả cha mẹ và những người thân của mình và sống với những người
thân thích ruột thịt, trẻ em có cảm giác an toàn, được che chở. Điều này thể hiện sự tôn
trọng quyền của trẻ em trong Luật Nuôi con nuôi 2010 về nguyên tắc khi giải quyết việc
nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.
Đây là, một trong những nguyên tắc cơ bản trong lời nói đầu của Công ước Liên Hiêp
quốc về quyền trẻ em 1989 cũng đã khẳng định rằng: “Gia đình với ý nghĩa là tế bào xã
hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên,
nhất là trẻ em, cần được sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đương được đầy đủ
trách nhiệm của mình trong cộng đồng”. Bên cạnh đó, tại Điều 13 Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 ngày 15/06/2004 (sau đây gọi tắt là Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004) cũng quy định như sau: “Trẻ em có quyền sống
chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp
vì lợi ích của trẻ em”. Như vậy, việc trẻ em được quyền sống trong môi trường gia đình
gốc sẽ tác động đến sự trưởng thành về tình cảm, trí tuệ và thể chất của trẻ em, giúp trẻ
em trở thành con người biết yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ và cảm thông với người
khác trong xã hội. Ngoài ra, nguyên tắc này cũng được pháp luật tôn trọng, bảo vệ và
không ai được phép tách trẻ em ra khỏi cha mẹ đẻ. Trong trường hợp cần thiết, phải đưa
trẻ em ra khỏi gia đình gốc thì điều đó chỉ được thực hiện trên cơ sở phải đem lại lợi ích
tốt nhất cho trẻ em về mọi mặt trong cuộc sống.
Trên thực tế, việc trẻ em không được sống trong gia đình gốc xuất phát rất nhiều
nguyên nhân như: gia đình có hoàn cảnh khó khăn không đủ điều kiện để tiếp tục
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; trẻ em mồ côi; trẻ em bị bỏ rơi; cha hoặc mẹ đã có
những hành vi ngược đãi con mình đã bị dư luận và xã hội lên tiếng… Vì vậy, để trẻ
em có điều kiện được biết nguồn gốc của mình sau khi lớn lên trong việc nuôi con
nuôi thì luật cũng quy định thêm về thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế như sau:
“Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi”8.
Tất cả những người được liệt kê theo luật quy định là lựa chọn đầu tiên khi cha, mẹ,
ông, bà, anh, chị, em ruột không có khả năng nuôi dưỡng. Do đó, những người thân
thuộc và có cùng huyết thống này sẽ đảm bảo được nguồn gốc cho trẻ em sau này.
7
Theo Khoản 8, Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
8
Theo Khoản 1, Điều 5 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
14
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
Trên sơ sở đó, “Con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình. Không ai được
cản trở con nuôi được biết về nguồn gốc của mình”9. Luật quy định trên thực tế có rất
nhiều trường hợp sau khi nhận con nuôi, cha mẹ nuôi không muốn con nuôi biết được
nguồn gốc của mình để tình cảm giữa họ và con nuôi không bị rạn nứt. Tuy nhiên, việc
không cho trẻ em biết được nguồn gốc gia đình của mình sẽ có những ảnh hưởng xấu
nhất định. Ví dụ: do không biết được nguồn gốc gia đình nên sau khi lớn lên đứa trẻ đó
có quan hệ tình cảm hoặc kết hôn với một người nào đó có họ trong phạm vi ba đời
hoặc cùng dòng máu về trực hệ cùng huyết thống với nhau, đây không những là điều
cấm theo Luật HN&GĐ 2014 mà còn ảnh hưởng đến con cháu sau này có thể bị các
bệnh về dị dạng cơ thể. Ngoài ra, sẽ làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đạo đức
xã hội và gây tổn thương về tâm lý rất lớn cho người được nhận làm con nuôi.
1.5.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con
nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội
Nguyên tắc này là cơ sở cho việc xem xét áp dụng các điều kiện và trình tự, thủ
tục giải quyết việc nuôi con nuôi đối với người nhận con nuôi và người được nhận làm
con nuôi trên cơ sở một cách công bằng. Quyền và lợi ích hợp pháp của người được
nhận làm con nuôi phải đặt lên hàng đầu nhưng không phải là duy nhất, do đó khi
quan hệ nuôi con nuôi đã được thiết lập, trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi
thì quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em được tính đến mối tương quan với quyền và
lợi ích hợp pháp của cha mẹ nuôi một cách thích hợp. Trong quan hệ nuôi con nuôi,
cha mẹ nuôi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con nuôi và ngược lại
con nuôi cũng phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của con đối với cha mẹ nuôi của
mình.
Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện và theo nguyện
vọng giữa bên nhận nuôi và bên được nhận làm con nuôi, không ai hoặc bất kỳ một
yếu tố nào có thể bắt một người nhận một đứa trẻ làm con nuôi hoặc bắt đứa trẻ nhận
một người khác làm cha mẹ nuôi nếu đứa trẻ đó không muốn và các bên thể hiện ý chí,
tự nguyện việc cho nhận con nuôi bằng hành động đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với trường hợp việc nuôi con nuôi mà người được
nhận làm con nuôi còn cha mẹ đẻ hoặc người người giám hộ và trẻ em từ 09 tuổi trở
lên làm con nuôi thì phải được sự đồng ý cho làm con nuôi của những người này trên
cơ sở “phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không ép buộc, không bị đe dọa hay
mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất
9
Theo Khoản 1, Điều 11 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
15
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
khác”10. Bên cạnh đó, khi trẻ em có đủ điều kiện theo quy định pháp luật, thì cơ quan
nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết cho trẻ em làm con nuôi theo đúng
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà không đặt vấn đề trẻ em là nam hay nữ để
được làm con nuôi. Xét về phía người nhận con nuôi, thì Luật Nuôi con nuôi 2010
cũng không đưa ra quy định áp dụng riêng đối với người nhận con nuôi là nam hay nữ,
mà luật tạo ra cơ hội bình đẳng đối với tất cả mọi người dù là nam hay nữ, độc thân
hay đang trong tình trạng tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì đều có quyền nhận trẻ
em làm con nuôi trên cơ sở tuân thủ quy định của pháp luật nuôi con nuôi về các điều
kiện xác lập việc nuôi con nuôi. Bởi vì, quyền được nhận làm con nuôi và quyền nuôi
con nuôi là một trong những quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình được quy
định tại Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 (sau đây gọi tắt là Bộ luật
Dân sự 2015)11.
Việc nuôi con nuôi được thiết lập và thực hiện trong mọi trường hợp không được
trái với pháp luật và đạo đức xã hội, đây là nguyên tắc thể hiện được tính nhân đạo và
truyền thống của dân tộc ta. Trên cơ sở đó, việc nuôi con nuôi trái với pháp luật ở đây
được hiểu là việc nuôi con nuôi đi ngược lại với những điều mà pháp luật quy định,
chứa đựng những nguy cơ gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
có liên quan trong việc nuôi con nuôi. Từ đó, có thể thấy rằng việc nuôi con nuôi
không được trái với pháp luật ở đây là pháp luật nói chung như Luật Nuôi con nuôi
2010; Luật HN&GĐ 2014; Bộ luật Dân sự 2015; Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục
trẻ em 2006; Pháp lệnh Dân số của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 06/2003/PLUBTVQH11 ngày 09/01/2003 về dân số (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Dân số 2003)...
Bên cạnh đó, Luật Nuôi con nuôi 2010 cũng quy định nguyên tắc trong giải quyết việc
nuôi con nuôi không được trái với đạo đức xã hội, vậy đạo đức đức xã hội ở đây có thể
được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng12. Đạo đức xã hội trong việc nuôi con nuôi thể hiện dựa trên
quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập, con nuôi được sống trong môi trường
lành mạnh để phát triển về thể chất, trí tuệ và nhân cách, điều đó góp phần thúc đẩy
phát triển toàn xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế có một số tư tưởng lạc hậu vì mong
muốn sinh bằng được con trai nên đã sinh ra nhiều con gái, sau đó cho con gái của
mình làm con nuôi người khác để có thể tiếp tục sinh được con trai hoặc vì mê tính dị
đoan đã cho con mình làm con nuôi người khác… Việc làm trên, đã trái với pháp luật
và đạo đức xã hội trên cơ sở không tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em,
không bảo đảm được lợi ích tốt nhất của trẻ em về thể chất và tinh thần chỉ vì lợi ích
10
Theo Khoản 3, Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Theo Khoản 1, Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015
12
Theo Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015
11
16
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
riêng của bản thân cha mẹ đẻ hoặc những người khác có có liên quan trong việc nuôi
con nuôi nên đã đẩy một số trẻ em rơi vào hoàn cảnh hoàn cảnh khó khăn và phát triển
trong môi trường có nhiều tệ nạn hội xảy ra.
1.5.3. Nguyên tắc chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không tìm được gia
đình thay thế trong nước
Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định cần tôn trọng quyền trẻ em được sống trong môi
trường gia đình gốc. Vì vậy, trong điều kiện, hoàn cảnh nào đó mà trẻ em không được
sống trong môi trường gia đình gốc, để đảm bảo tốt nhất lợi ích của trẻ em, pháp luật ưu
tiên tìm gia đình thay thế cho trẻ em ở trong nước là việc nuôi con nuôi. Do vậy, chỉ xem
xét đến giải pháp cho trẻ em làm con nuôi người ở nước ngoài nếu không thể tìm được gia
đình thay thế cho trẻ em ở trong nước và mục đích cho trẻ em làm con nuôi người ở nước
ngoài cũng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Đây là một trong những nguyên tắc được quy
định trong lời nói đầu của Công ước Lahay 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực con nuôi quốc tế như sau: “Công nhận rằng vấn đề con nuôi quốc tế có thể có lợi thế
là đem lại một gia đình lâu dài cho những trẻ em không tìm được một gia đình thích hợp
tại nước gốc của mình”. Tại Điều 5 Luật Nuôi con nuôi 2010 cũng đã quy định thứ tự ưu
tiên lựa chọn gia đình thay thế như sau:
Thứ nhất, cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm
con nuôi;
Thứ hai, công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam;
Thứ ba, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
Thứ tư, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;
Thứ năm, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.
Theo đó, việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài là giải pháp cuối cùng
vì trẻ em có thể sẽ gặp khó khăn để có thể hòa nhập với môi trường mới như về vấn đề
rào cản ngôn ngữ, tâm lý, thói quen sinh hoạt, môi trường sống… Quy định này nhằm
đảm bảo cho trẻ em có cơ hội được sống trong môi trường gia đình gốc, khi làm con
nuôi người nước ngoài nếu so sánh về điều kiện vật chất thì có thể sẽ có điều kiện
sống tốt hơn, nhưng chưa thỏa mãn về yếu tố tinh thần, truyền thống văn hóa, ngôn
ngữ của trẻ em đó. Vì vậy, để có thể tìm gia đình thay thế cho trẻ em ở trong nước thì
tại Điều 15 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng quy định trường hợp trẻ em không
được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em là bắt buộc nhằm để tăng thêm cơ hội ưu tiên
cho trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước. Trẻ em là những đối tượng chưa
trưởng thành về thể chất và trí tuệ, các em chỉ cảm nhận được sự an toàn, bình yên và
che chở khi được nuôi dưỡng, chăm sóc trong môi trường quen thuộc. Do đó, việc
nuôi con nuôi nước ngoài bị hạn chế, chỉ luôn là giải pháp sau cùng nhằm đảm bảo cho
17
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
trẻ em được sinh ra và lớn lên trên quê hương của mình và giúp cho trẻ em có điều
kiện hòa nhập vào đời sống cộng đồng tốt hơn.
18
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Với tiền đề là những vấn đề lý luận chung về pháp luật nuôi con nuôi tại Việt
Nam. Có thể thấy rằng, việc nuôi con nuôi là một vấn đề xã hội và là một chế định
pháp lý xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của con người và đã thể hiện mối quan hệ gắn bó và quan tâm giữa tất cả mọi
người trong xã hội với nhau dựa trên cơ sở xác lập quan hệ cha mẹ và con thông qua
việc nuôi con nuôi mà không phải dựa trên quan hệ huyết thống tự nhiên như mối quan
hệ cha, mẹ đẻ và con đẻ, nhằm hình thành một gia đình mới giống với gia đình gốc
cho trẻ em được nhận làm con nuôi và được sự công nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Chính vì vậy, khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi thì người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi phải thỏa mãn đầy đủ các điều theo quy định của pháp
luật về nuôi con nuôi. Do đó, đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc áp dụng pháp
luật về nuôi con nuôi kể từ khi Luật Nuôi con nuôi 2010 có hiệu lực đến nay. Như vậy,
chương 1 này là nền tảng lý luận để người viết tiếp tục nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành về nuôi con nuôi tại Việt Nam trong chương 2.
19
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC TẠI VIỆT NAM
2.1. Điều kiện về nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam
Để được pháp luật thừa nhận về việc nuôi con nuôi tại Việt Nam thì việc nuôi con
nuôi phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi;
Thứ hai, điều kiện về sự đồng ý cho làm con nuôi;
Thứ ba, điều kiện đối với người nhận con nuôi.
2.1.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Để được nhận làm con nuôi thì người được nhận làm con nuôi phải đáp ứng đầy đủ
những điều kiện theo quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất, về độ tuổi. Độ tuổi của người được nhận làm con nuôi phải dưới 16
tuổi13. Có thể thấy rằng, trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ và là các cá nhân chưa có thể độc lập tự lo cuộc sống của mình về mặt vật chất
và tinh thần. Do đó, quy định này đúng với mục đích tạo mái ấm gia đình cho trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn được nhận làm con nuôi, được sống trong môi trường gia đình
để được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục từ cha mẹ nuôi góp phần tích cực và quan
trọng trong sự phát triển nhân cách tốt đẹp của con người nói chung và của con nuôi
nói riêng. Vì vậy, độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi được quy định theo Luật
là phù hợp với độ tuổi được coi là trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em 2004 “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”14. Như vậy, so với Luật HN&GĐ
2000 thì “người được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống” thì việc
tăng độ tuổi của người được nhận làm con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi 2010 là cần
thiết và hợp lý nhằm tạo thêm cơ hội cho trẻ em từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể
được nhận làm con nuôi. Bên cạnh đó, Luật còn bổ sung nhóm đối tượng từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây15:
Một là, được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
Hai là, được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Vì vậy, đây là một quy định mới so với các pháp luật về nuôi con nuôi trước đây, vì
những lý do nào đó mà các đối tượng này không còn cha, mẹ đẻ hoặc cha, mẹ đẻ
không thể tiếp tục nuôi dưỡng, thì việc tạo điều kiện để các đối tượng này được tiếp
tục sống với cha dượng, mẹ kế hoặc sống cùng cô, cậu, dì, chú, bác ruột là phù hợp với
nguyên tắc trẻ em được quyền sống trong môi trường gia đình gốc của mình và đây là
việc làm cần thiết mang tính nhân đạo sâu sắc, phù hợp với phong tục tập quán, truyền
thống đạo đức của người Việt Nam.
13
Theo Khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
15
Theo Khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
14
20
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
Thứ hai, người được nhận làm con nuôi chỉ được làm con nuôi của một người độc
thân hoặc của cả hai người là vợ chồng 16. Có thể thấy rằng, trẻ em chỉ có thể làm con
nuôi trong hai trường hợp: làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai là vợ
chồng, quy định này đã có sự kế thừa quy định của Luật HN&GĐ 2000. Tuy nhiên,
Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định rõ ràng hơn đối với trường hợp một người độc thân
để tránh hiểu nhầm một người trong số hai người là vợ hoặc chồng nhận con nuôi,
người con nuôi sẽ được nhận sự yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng từ cha nuôi hoặc
mẹ nuôi của mình. Đối với trường hợp, trẻ em làm con nuôi của cả hai người là vợ
chồng, người con nuôi đó sẽ trở thành con chung của cả hai người là vợ chồng. Vì vậy,
Luật không cho phép người đang có vợ hoặc có chồng nhận con nuôi riêng, vợ chồng
chỉ có thể nhận con nuôi chung và việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai
người là vợ chồng. Hai người là vợ chồng nhận con nuôi phải có hôn nhân hợp pháp,
có nghĩa là hai bên là nam và nữ có đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình và được đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Theo đó, pháp luật không thừa nhận việc nuôi con nuôi với các trường
hợp sau đây:
Một là, trường hợp một trong hai người là vợ chồng nhận con nuôi;
Hai là, trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn hoặc hai người cùng giới tính chung sống với nhau như vợ chồng mà cùng
nhận một trẻ em làm con nuôi.
Như vậy, quy định này nhằm đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có một
môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương đầy đủ từ tất cả thành viên trong gia
đình, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình tự nhiên như gia
đình gốc của mình, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi về môi trường sống,
học tập, vui chơi và giải trí tốt nhất.
Tuy nhiên, “Luật Nuôi con nuôi 2010 đòi hỏi rằng tại một thời điểm nhất định nào
đó, một người chỉ có thể làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người
là vợ chồng, luật không cấm một người làm con nuôi nhiều lần” 17. Tức là tại thời điểm
trẻ em đang được cho làm con nuôi thì không được phép cho làm con nuôi người khác.
Tuy nhiên, một người đã từng là con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai
người là vợ chồng có thể làm con nuôi của người khác nếu tại thời điểm đó, người
được nhận làm con nuôi ở trong tình trạng chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi và con đã
được xác lập trước đây với người đã từng là cha mẹ nuôi, do đó việc chấm dứt quan hệ
việc nuôi con nuôi phải thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 25
Luật Nuôi con nuôi 2010 và đứa trẻ đó vẫn có đủ điều kiện về độ tuổi để được nhận
16
Theo Khoản 3, Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
TS. Luật học Nguyễn Ngọc Điện (2013), Bình luận Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ
TP.Hồ Chí Minh, trang 202
17
21
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi thực trạng và giải pháp hoàn thiện tại thành phố Châu Đốc
làm con nuôi thì vẫn có thể tiếp tục được nhận làm con nuôi của một người khác. Nếu
con nuôi nuôi có thể làm con nuôi của nhiều gia đình thì cùng một lúc họ sẽ đồng thời
nhận được những sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo các cách khác nhau của các
gia đình khác nhau, điều này không có lợi cho sự phát triển của trẻ em vốn là người
chưa có sự trưởng thành về thể chất và nhân cách. Vì vậy, người được nhận làm con
nuôi phải được sống trong một gia đình và được sự giáo dục thống nhất của cha mẹ
nuôi, đứa trẻ đó không thể hôm nay sống với người này, hôm sau sống với người kia
nhằm góp phần loại bỏ khả năng lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi để tiến hành mua
bán, chiếm đoạt trẻ em đây là đối tượng rất cần sự bảo vệ của nhà nước và pháp luật.
2.1.2. Điều kiện về sự đồng ý cho làm con nuôi
Luật Nuôi con nuôi 2010 có sự kế thừa Luật HN&GĐ 2000 quy định về sự đồng
ý cho làm con nuôi của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi
nhằm để cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi luôn cân nhắc,
suy nghĩ kĩ trước khi quyết định cho con mình làm con nuôi với mong muốn đứa trẻ sẽ
có môi trường, điều kiện sống tốt hơn, khi bản thân họ không thể có điều kiện nuôi
dưỡng chăm sóc cho trẻ. Tuy nhiên, tại Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định đầy
đủ hơn và chặt chẽ so với Luật HN&GĐ 2000 hơn, cụ thể như sau:
Thứ nhất, điều kiện về sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em
được cho làm con nuôi. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ là những người có trách nhiệm
nuôi dạy trẻ trước khi trẻ được nhận làm con nuôi nên trong quá trình thể hiện ý kiến
của những người này xem xét khả năng của người nhận con nuôi có thể thay họ thực
hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em đó hay không. Ý chí của những người
này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh bạch, phù hợp với lợi ích của người
được nhận làm con và xuất phát từ “sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà không bị
ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác” 18. Sự tự nguyện này sẽ được hình thành trên cơ sở
nhận thức đầy đủ ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc cho con đẻ của mình làm con
nuôi người khác, phù hợp với mong muốn và tình cảm của cha mẹ đẻ, phù hợp với lợi
ích của người được nhận làm con nuôi. Ngược lại, mọi tác động, dụ dỗ, lừa dối, cưỡng
ép... để có được sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ trong việc cho trẻ làm
con nuôi người khác đều không hợp pháp và không phù hợp với nguyên tắc giải quyết
việc nuôi con nuôi. Vì vậy, sự đồng ý hay không đồng ý của cha, mẹ đẻ hoặc người
giám hộ là một trong những điều kiện xác lập hoặc không xác lập mối quan hệ cha mẹ
và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Sự đồng ý
18
Theo khoản 3 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
22