Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.23 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài......................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................2
3.1. Mục đích................................................................................................................2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................................3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................................3
4.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................3
4.2. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................3
6. Dự kiến các các đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn.....................................4
7. Bố cục tiểu luận..........................................................................................................4
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TUỔI CHỊU
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.............................................................................................5
1.1. Khái quát về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.........................................................5
1.1.1. Khái niệm về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự...............................................5
1.1.2. Đặc điểm về tuổi chịu trách nhiệm hình sự......................................................6
1.1.3. Lịch sử luật hình sự Việt Nam về tuổi chịu trách nhiệm hình sự....................8
1.1.4. Cơ sở quy định tuổi trong Luật hình sự Việt Nam.........................................14
1.2. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự củ pháp luật hiện hành.................19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................................23
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ TUỔI CHỊU
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ...........................................................................................24
2.1. Thực trạng về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.....................................................24
2.2.1. Thuận lợi.........................................................................................................25
2.2.2. Khó khăn.........................................................................................................26
2.3. Các kiến nghị về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.................................................27
2.3.1. Quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hiện nay................................27



2.3.2. Nâng cao trình độ của các cán bộ làm công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu....28
2.3.3. Đào tạo đội ngũ tiến hành tố tụng đủ năng lực trình độ và chuyên môn thực
hiện chức năng giải quyết vụ án...............................................................................31
2.3.4. Xây dựng cơ sơ pháp lý phục vụ cho việc xác định tuổi chịu trách nhiệm
hình sự....................................................................................................................... 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................................34
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 35


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 20 tháng 6 năm 2017 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đôi, bổ sung năm 2017. Bộ
luậtHình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2018, chỉnh sửa sai sót về mặt kỹ thuật cũng như sửa đổi, bổ sung nhiều quy định
để phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay. Vấn đề trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên đang được dư luận xã hội hết sức quan tâm. Tuy nhiên, việc xác
định những giới hạn độ tuổi thích hợp, đặc biệt là độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm
hình sự luôn là vấn đề khó khăn khi xây dựng chính sách hình sự ở mỗi quốc gia để
phù hợp với các điều ước quốc tế đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế khách quan
của xã hội ở mỗi quốc gia cụ thể.Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em,
Nhà nước Việt Nam đã tham gia Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngày
20 tháng 2 năm 1990 và đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền
trẻ em, trong đó, đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật,
nhất là những trường hợp người chưa thành niên phạm tội.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hình
sự của mỗi quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm
tội, vừa đảm bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải đạt được mục đích bảo vệ
quyền con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên, kể cả khi họ thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với việc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo
dục để người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi trở lên nhận ra sai
lầm, từ đó sửa chữa những sai lầm của mình, tạo điều kiện để các họ có khả năng tái
hòa nhập cộng đồng.
Công việc xác định tuổi của bị can, bị cáo, cũng như người bị hại còn nhiều khó
khăn. Ngoài ra, trong xã hội thực trạng làm giấy tờ giả, giấy tờ không thống nhất hoặc
không có giấy tờ xác minh tuổi càng phổ biến với nhiều lý do khác nhau, làm cho công
tác điều, tra truy tố và xét xử gặp nhiều khó khăn.
Từ những lý luận và thực tiễn trên, người viết quyết định chọn đề tài “Tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận tốt nghiệp của nhân luật.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuổi chịu trách nhiệm là một trong những dấu hiệu quan trọng thuộc chủ thể
phạm tội và đặc điểm thiết yếu thuộc về nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu tuổi
chịu trách nhiệm hình sự có ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm, dựa trên đặc điểm về tâm lý đội tuổi.
Các công trình nghiên cứu khác cũng ít đề cập đến vấn đề về tuổi hay cách xác
định tuổi của con người trong mối quan hệ với trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên cũng có
thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: Luận văn Thạc sĩ “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam”. –
Nguyễn Phú Bền.Tạp chí Luật học số 10/2014 “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự Việt Nam.” – Phạm Văn Bầu.
Các bài viết đăng trên tạp chí có liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự như:
“Hoàn thiện quy định xóa án tính đối với người dưới 18 tuổi bị kết án trong Bộ luật
Hình sự năm 2015” – Ths. Phan Thị Thương Hiền;“Quyền tư pháp và vấn đề bảo vệ
quyền con người của trẻ em hiện nay” – Ths. Tạ Thị Thu Hương; “Về độ tuổi chịu

trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015” – Trần Văn Cường đã được đăng
trên Tạp chí dân chủ và pháp luật.
Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu, bình luận, giải quyết những vấn đề
về mặt lý luận cũng như thực tiễn của pháp luật hình sự qua các thời kỳ. Tuy nhiên, kể
từ thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được thông qua
vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về “Tuổi chịu trách nhiệm hình
sự” là một trong những điểm mới quan trọng của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017.
Người viết phân tích về mặt lý luận và đánh giá thực tiễn áp dụng về những vấn
đề liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự với mục đích làm rõ nội dung và thực
tiễn áp dụng theo quy định Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề lý luận và pháp lý
quy định về tuổi chịu trách nhiệm theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017. Phân tích, đánh giá thực tiễn về các đối tượng người chưa thành niên phạm
tội và chứng minh đối tượng chưa thành niên trong các vụ án hình sự.

2


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tuổi của người phạm tội là “thước đo” tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm, độ tuổi thực hiện tội phạm còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý tội
phạm, nó liên quan đến vấn đề có chịu trách nhiệm hình sự hay không. Vì vậy, khi
nghiên cứu đề tài này, cần phải làm rõ một số vấn đề sau:
- Phân tích quy định về chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 so với Bộ luật Hình sự năm
1985 và Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
- Đánh giá thực tiễn chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, những khó khăn, bất

cập trên cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Đưa ra giải pháp nhằm khắc phục và đề xuất nhằm hoàn thiện quy định về tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là quy định pháp luật và lý luận, thực tiễn và liên quan đến
tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu mọi trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Tiểu luận nghiên cứu về các chủ thể phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên và
người từ đủ 14 đến 16 tuổi quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017. Đánh giá thực trạng về các vấn đề liên quan đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù như: phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu và tổng
hợp các tài liệu nghiên cứu có liên quan để nghiên cứu và làm rõ các vấn đề lý luận,
pháp lý, thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017.
6. Dự kiến các các đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn

3



- Sửa đổi, bổ sung về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Phát hiện những điểm bất cập trong việc xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự
trong các vụ án mà người phạm tội là người chưa thành niên. Những thiếu sót, hạn chế
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh đối tượng phạm tội.
- Nêu ra các kiến nghị, giải pháp đối với các cơ quan nhà nước làm việc liên quan
đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
7. Bố cục tiểu luận
Ngoài mục lục, phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 2
chương với nội dung chính:
Chương 1: Lý luận chung và quy định pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

4


CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một trong những quy định cơ bản của
luật hình sự. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi được xác định trong pháp luật
hình sự của mỗi quốc gia, mà chỉ đến độ tuổi đó trở về sau, một người thực hiện hành
vi phạm tội mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật hình sự của các nước dựa
trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát về tâm lý cũng như căn cứ vào
chính sách hình sự của mình mà quy định tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự
và tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Mức tuổi cụ thể của tuổi bắt đầu có
năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ được xác
định ở mỗi nước là không giống nhau như ở Anh (Scotland) quy định từ 08 tuổi, ở Mỹ

7 tuổi, ở Hàn Quốc 12 tuổi,...1
Ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cở sở
tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Nhà nước đã xác định trong Bộ luật Hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tuổi chịu trách nhiệm hình sự bắt đầu từ 14
tuổi. Tuy nhiên, họ chỉ chịu trách nhiệm hình sự về một số tội theo quy định tại Điều
12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, còn người từ đủ 16 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm trừ trường hợp Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định khác.
Quy định trên đây xuất phát từ đường lối của Nhà nước ta về xử lí các trường
hợp phạm tội của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi trở lên
qua các vụ án hình sự cũng như xuất phát từ cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm ở nước ta. Bên cạnh việc xác định tuổi như là ngưỡng chịu
trách nhiệm hình sự, tuổi cũng là yếu tố để xác định loại hoặc mức trách nhiệm mà họ
phải gánh chịu khi phạm tội. Chính vì vậy, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là yếu tố
không thể thiếu trong quá trình xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một
người.
Trên cơ sở phân tích về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như trên, có thể rút ra định
nghĩa về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ
tuổi được luật hình sự quy định nhằm xác định một người phát triển đến độ tuổi đó
1 “Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự Việt Nam và trên thế giới là bao nhiêu?”
( truy cập ngày 8/2/2018.

5


mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc loại trách nhiệm, mức trách nhiệm
hình sự về hành vi phạm tội do mình gây ra.2
Việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất lớn. Một mặt, khẳng
định, chỉ ở độ tuổi nhất định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới bị coi
là tội phạm, đồng thời mới có khả năng thiết lập quan hệ với Nhà nước. Mặt khác,

thông qua việc quy định độ tuổi tối thiểu tạo ra hành lang vững chắc nhằm bảo vệ
quyền cho người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi trở lên khi họ
thực hiện tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Mỗi ngành luật có cách xác định khác nhau về độ tuổi. Về nguyên tắc, khi xác
định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chúng ta cần căn cứ vào những quy định của luật
hình sự mà không viện dẫn các quy định của các ngành luật khác3. Vì vấn đề độ tuổi
để xác định tư cách chủ thể là một nội dung có tính chuyên biệt, được xác định theo
từng ngành luật. Nên chỉ khi trong những trường hợp luật hình sự dẫn chiếu sang quy
định của những ngành luật khác thì chúng ta mới sử dụng cách tính tuổi của ngành luật
đó để xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Các ngành luật đều có cách xác định tuổi của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
do mình điều chỉnh. Đối với chủ thể tội phạm, luật hình sự Việt Nam xác định tuổi là
theo tuổi đủ. Điều này thể hiện tại điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “người từ đủ 16 tuổi” và “người
từ đủ 14 tuổi”, đây là ngưỡng để tính tuổi tối thiểu của người phạm tội và xác định
trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Cách tính tuổi đủ tức là phải lấy đầy đủ ngày,
tháng, năm sinhcủa người đó để tính. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi luật hình
sự dẫn chiếu sang ngành luật khác thì phải tính tuổi theo quy định của ngành luật đó.
Đối với các trường hợp xác định tuổi đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi ngoài những vấn đề bắt buộc phải chứng minh (ví dụ như xác định chính xác
ngày, tháng, năm sinh của người phạm tội) đối với các vụ án hình sự nói chung, thì cần
phải xem xét những yếu tố sau đây:
Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người dưới 18 tuổi. Việc xác định tuổi của bị cáo chưa thành niên đặc
biệt quan trọng vì đây là căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cũng
như việc xác định trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
2 Trần Thị Hoàng Lan (năm 2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, trang 10.
3 Trần Thị Hoàng Lan (năm 2012), tlđd (2), trang 11.


6


hành vi phạm tội giúp người tiến hành tố tụng đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội do hành vi phạm tội của người chưa thành niên gây ra để có thể áp dụng
biện pháp tư pháp hay hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành án theo quy định
của pháp luật.4
Điều kiện sinh sống và giáo dục: Hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi
thường bắt nguồn từ điều kiện sống và môi trường giáo dục trong gia đình, nhà trường,
xã hội. Cho nên, làm rõ yếu tố ngày cũng góp phần nhằm giúp xác định khả năng cải
tạo và giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội, đồng thời cũng có thể giúp cho việc xác
định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có thể đưa ra những biện pháp phòng ngừa
thích hợp. Khoa học đã chứng minh con người chịu ảnh hưởng qua lại của tác động
xung quanh, hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên hình thành, nó phát sinh không
phải từ chính môi trường, chính bản thân người đó mà do sự tác động qua lại giữa môi
trường và cá nhân người đó, thể hiện rõ rệt, đó là: điều kiện sinh sống của gia đình,
cách ứng xử của cha mẹ, những người thân trong gia đình, điều kiện học tập và sinh
hoạt ở nhà trường, đoàn thể, nơi làm việc, nơi cư trú.
Có hay không người trên 18 tuổi xúi giục: Việc xác định có hay không người trên
18 tuổi xúi giục cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội là những vấn đề quan
trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm
tội của người dưới 18 tuổi đã thực hiện, từ đó đề ra những biên pháp hữu hiệu ngăn
chặn tái phạm.
Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội: Việc người dưới 18 tuổi phạm tội
là một hiện tượng đang tồn tại trong xã hội. Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên
xuất hiện mà bao giờ cũng có nguyên nhân và điều kiện dẫn đến nó. Chúng ta muốn
đấu tranh phòng, chống tội phạm và đề ra những biện pháp khắc phục, ngăn ngừa có
hiệu quả thì phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc họ thực hiện hành
vi phạm tội.

1.1.3. Lịch sử luật hình sự Việt Nam về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1.1.3.1. Giai đoạn khi có Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi có Bộ luật
Hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 9 thông qua ngày
27/6/1985 là Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao
cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. Bộ luật Hình sự năm 1985 với ý
nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Để đáp ứng và phục
4 “Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
trang 11, ( truy cập ngày 8/2/2018.

7


vụ công cuộc đổi mới của đất nước, luật hình sự buộc phải có những thay đổi mang
tính phát triển. Sự phát triển này được thể hiện qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các ngày
28/12/1989; 12/8/1991; 22/12/1992; 10/5/1997 và là công cụ quan trọng góp phần đấu
tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng được quy định ngay tại
phần chung cùng với nhiều chế định về trách nhiệm hình sự với một số độ tuổi nhất
định. Trên cơ sở căn cứ khoa khọc cũng như từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm có thể nói Bộ luật Hình sự năm 1985 đã có một bước phát triển vượt
bậc thể hiện trình độ cũng như kỹ thuật lập pháp của nước ta. Tuổi chịu trách nhiệm
hình sự được quy định tại Điều 58: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.”
Cách tính tuổi do luật quy định là “đủ 14 tuổi” hoặc “đủ 16 tuổi”, tức là tính theo
tuổi tròn. Thí vụ sinh từ ngày 1/1/1975 đến ngày 1/1/1989 mới đủ 14 tuổi. Trong
trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì ngày sinh tính theo
ngày cuối cùng của tháng sinh và nếu cũng không có điều kiện xác định chính xác
tháng sinh thì xác định ngày sinh là 31/12/năm sinh.5

Luật cũng có sự phân biệt đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Do đó,
hành vi nguy hiểm do vô ý thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải thì chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Khoản 2 điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1985 cũng quy định: “Tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng.”
Nếu người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thực hiện hành vi
nguy hiểm thuộc tội ít nghiêm trọng, tức là hành vi không gây nguy hại lớn cho
xã hội hoặc mức hình phạt cao nhất là đến năm năm tù thì người từ đủ 14 tuổi
trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm
hình sự.
Ví dụ: Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại
Điều 102 Bộ luật Hình sự năm 1985, khung hình phạt cao nhất đối với tội này là đến
ba năm tù. Do đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có hành vi giết người do vượt
5 Nghị quyết 02-HĐTP-TANDTC/QĐ Hướng dẫn áp dụng mốt số quy định của Bộ luật Hình sự của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao ngày 05 tháng 1 năm 1986.

8


quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Hoặc với
rất nhiều tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985 mà người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự như: Tội xúi giục hoặc giúp
người khác tự xác (Điều 106), Tội cố ý không cứu giúp người đang trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107), Tội đe dọa giết người (Điều 108), Tội không tố
giác tội phạm (Điều 247)...
Đồng thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội do vô ý tức là trong những

trường hợp sau: “Người phạm tôi do cẩu thả mà không thấy trước khả năng gây ra
hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Người
phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng
cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.”6
Trong những trường hợp trên thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi đó có thể cấu
thành tội mà mức cao nhất của khung hình phạt có thể trên năm năm tù, có thể
gây nguy hại lớn cho xã hội thì người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng không
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Tội vô ý làm chết người quy định tại điều 104 Bộ luật Hình sự năm
1985, khung hình phạt cao nhất đối với tội này là mười lăm năm nhưng do hình
thức lỗi của tội phạm này là vô ý nên người dưới 16 tuổi không phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Tóm lại, Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời là một bước ngoặt trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm, từ ngày ban hành đến khi được thay thế,
Bộ luật đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, tình hình kinh tế trong nước
cũng như quốc tế đã qua nhiều biến đổi, một số hành vi quy định là tội phạm
không còn phù hợp nữa, một số hành vi khác có tính nguy hiểm cao hơn cho xã
hội cần phải được hình sự hóa. Yêu cầu đổi mới mọi mặt về đời sống cho đất
nước đặt ra nhiệm vụ xem xét và sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1985
một cách cơ bản và toàn diện nhằm kịp thời thể chế hóa chính sách của Đảng và
Nhà nước trong giai đoạn phát triển mới, đảm bảo hiệu quả cao trong công cuộc
đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm.
1.1.3.2. Giai đoạn khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp
lý, tích cực của Bộ luật Hình sự năm 1985. Bộ luật Hình sự năm 1999 được Quốc hội
khóa X kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21-12-1999, có hiệu lực từ ngày 01-7-2000, được
6 Điều 10, Bộ luật Hình sự năm 1985.


9


sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự số 37/QH/12
ngày 19 tháng 6 năm 2009. So với Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm
1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển
mới của Luật hình sự Việt Nam.
Bộ luật Hình sự năm 1999 đưa Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định
về tuổi chịu trách nhiệm hình sự lên Điều 12 của Chương III Tội Phạm quy đinh về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.”
Như vậy, quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người đủ 16 tuổi trở
lên, về cơ bản vẫn được giữ nguyên như quy định tại Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm
1985. Đó là người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Riêng về trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì có điểm
sửa đổi cơ bản là thay đổi phạm vi xử lý của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về
những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trước đây, theo Bộ luật Hình sự năm 1985, quy
định người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự về
những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Điều đó có nghĩa là những người ở lứa tuổi trên
không phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng kể cả là vô ý
và những tội phạm nghiêm trọng do vô ý.
Nếu theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì tội
phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình. Các tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng 7. Thì đối với trách nhiệm
hình sự của người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi theo Bộ luật Hình
sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cho dù

người phạm tội thực hiện nó với mục đích cố ý hay vô ý thì vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm mà mình gây ra.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được
quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội phạm
được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.8

7 Khoản 2,Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 1985.
8 Khoản 2, Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

10


Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.9
So sánh hai quy định trên đây thì thấy Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009 đã mở rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội ở lứa tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi. Sau khi Bộ luật Hình sự năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 có hiệu lực thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với lỗi vô ý thì vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt cao nhất là mười lăm năm tù. 10
Ngoài những quy định tại Điều 12, trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 còn chứa đựng những quy định khác bao hàm nội
dung tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể về đường lối xử lý người chưa thành niên

phạm tội được quy định tại chương X của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009. Theo đó, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội nhằm giáo dục, giúp
đỡ, uốn nắn, sửa sai, giúp họ phát triển, hoàn thiện về nhận thức và về hành vi phù hợp
với xã hội; không áp dụng hình phạt chung thân, tử hình, hình phạt tiền, hình phạt bổ
sung đối với người chưa thành niên phạm tội11. Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 1999,
sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định cụ thể về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
đồng thời quy định những vấn đề liên quan đến giảm nhẹ hình phạt đối với người từ đủ
14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi phạm tội.
Về cơ bản cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là áp dụng tính tuổi đủ, tuổi tròn. Trong trường hợp
có đủ điều kiện để xác định ngày, tháng, năm sinh thì tính đến ngày tháng năm sinh
của người đó. Việc xác định độ tuổi của người phạm tội thông thường dựa trên các
giấy tờ hợp pháp như giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân... Khi xét
xử các vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên, Tòa án cần phải xác định
đúng tuổi của họ cũng như sự phát triển về thể chất, tinh thần, cũng như mức độ nhận
thức hành vi phạm tội của họ. Trong trường hợp không có cơ sở để xác định tuổi của
9 Khoản 3, Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
10 Khoản 3, Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
11 Khoản 5, Điều 69,Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009

11


bị cáo chưa thành niên thì tiến hành điều tra kết luận tuổi của người phạm tội theo
nguyên tắc quy định trong Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTCBCA-BTP-BLĐTBXH của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao,
Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tại Điều 6 chương 2.
Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên do cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng
các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng,
năm sinh của bị can, bị cáo thì tuổi của họ được xác định như sau: Trường hợp

xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì trong tháng đó lấy
ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. Trường hợp xác định được quý
nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối
cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. Trường hợp xác định được nửa của
năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng
cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. Trường hợp xác định được
năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng
cuối cùng đó làm ngày, tháng sinh. Trường hợp không xác định được năm sinh
thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.12
1.1.3.3. Giai đoạn khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 đến nay
Bộ luật Hình sự (Luật số 100/2015/QH13) được Quốc hội khóa XIII, kỳ
họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Hình số 100/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 20
tháng 6 năm 2017, cả 2 luật trên có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2018 là Bộ luật Hình sự hiện hành của nước ta. Về nội dung quy định về tuổi
chịu trách nhiệm hình sự cơ bản không thay đổi, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 vẫn kế thừa những quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 nhưng cụ thể hơn và chi tiết hơn. So sánh với
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có những quy định mới. Nếu như theo Bộ
luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định người từ đủ 14 trở
lên đến dưới 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thì Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 lại quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự chỉ khi thỏa mãn một số điều kiện được

12 Khoản 2, Điều 417, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

12



quy định theo khoản 2, Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017.
Trong đó, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự khi phạm tội rất nghiệm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc
26 tội danh, còn đối với 03 tội danh khác (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác; tội hiếp dâm; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản)
thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự kể cả trong trường hợp phạm tội ít nghiệm
trọng hoặc tội nghiêm trọng. Như vậy, riêng đối với 03 tội danh này thì phạm vi
chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có mở rộng
hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 nhằm đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa thành niên.
Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp
phạm tội rất nghiêm trọng trừ tội phạm quy định tại các Điều 123, 134, 141,
142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự
mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc người phạm tội tự nguyện khắc phục phần
lớn hậu quả.
Nếu như Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định
người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm thì
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 lại quy định “người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. Điều này có nghĩa, Bộ luật Hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định về điều khoản loại trừ về
việc chịu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu thuộc các
trường hợp theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Điển hình cụ thể như Điều 146 Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi, thì Luật
đã quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các
hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Hoặc

Điều 147 Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm có quy định:
“Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi
trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm”. Là một trong các điều luật không thuộc “phạm vi” phạm tội của người từ
đủ 16 tuổi trở lên.
Các trường hợp này được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Hình sự năm 2015 quy định cụ thể tại Khoản 2, Điều 91 như sau: “Người dưới
18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết
13


giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự
và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này; Người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng,
trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của
Bộ luật này.”
Như vậy, nếu người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được miễn trách
nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả. Thay
vào đó người này sẽ được áp dụng một trong các biện pháp giám sát; giáo dục
áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Điểm giống nhau ở 3 Bộ luật Hình sự năm 1985; Bộ luật Hình sự năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 là không đề cập đến độ tuổi miễn trách nhiệm hình sự. Nếu đến một
độ tuổi con người mới có khả năng nhận thức về hành vi của mình, thì theo thời
gian đến một độ tuổi nhất định, sự già yếu và bệnh tật sẽ làm giảm đi trí nhớ sự
minh mẫn, khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi đó. Do đó, nên
chăng quy định về độ tuổi tối đa phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.1.4. Cơ sở quy định tuổi trong Luật hình sự Việt Nam

1.1.4.1. Tâm sinh lý học
Một người từ khi sinh ra không thể nhận thức đầy đủ về hành vi của mình. Chỉ
khi họ đạt đến một độ tuổi nhất định, họ mới có khả năng nhận thức đầy đủ và điều
khiển hành vi của mình. Sự phát triển đó gắn liền với tâm sinh lý học ở mỗi người.
Những thay đổi trong cuộc sống và hoạt động trong quá trình phát triển sẽ gây ảnh
hưởng rất lớn đến nhân cách, và giá trị đạo đức ở mỗi con người.
Con người phát triển qua từng giai đoạn, mỗi giai đoạn được coi như là cột mốc
quan trọng của đời mình. Có thể chia các giai đoạn trong sự phát triển của tâm sinh lý
ở con người như sau:
Giai đoạn tiểu học: Từ 6 tuổi đến 11 tuổi, ở giai đoạn này các em được tiếp xúc
đến những thứ mới mẻ hơn, quan hệ bạn bè, trường lớp sẽ ảnh hưởng đến một phần
trong sự hình thành tâm sinh lý ở các em. Tuy nhiên, ở giai đoạn này các em chưa
nhận thức được nhiều hành vi mang nguy hiểm cho xã hội, mọi hoạt động điều có sự
giám sát của các bậc phụ huynh và thầy cô giáo, những người lớn xung quanh các em.
Các em chưa thực sự có thể đưa ra quyết định của riêng mình. Vì những lý do trên nên
tuổi chịu trách nhiệm hình sự không được quy định ở độ tuổi này.

14


Giai đoạn trung học: Từ 12 đến 15 tuổi, đây là giai đoạn bước vài trung học cở
sở. Lứa tuổi này là giai đoạn khá quan trọng, nó là sự chuyển giao giữa tuổi thơ và tuổi
trưởng thành. Giai đoạn này là sự phát triển mạnh về mọi mọi mặt như thể chất, trí tuệ,
tình cảm, đạo đức... Tuyến nội tuyết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp
trạng), thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do đó trẻ em trong độ tuổi
từ 11 đến dưới 15 tuổi thường dễ xúc động, dễ bực tức. Vì thế, có thể thấy các em
thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động13. Sự phát triển
của các em tại giai đoạn này có nhiều điểm giống các khía cạnh khác nhau của những
người lớn xung quanh các em. Điều này hình thành do hoàn cảnh sống, hoạt động khác
nhau của các em tạo nên.

Giai đoạn phổ thông: Từ 16 đến 18 tuổi, là giai đoạn phát triển về thể chất và
tâm sinh lý một cách hoàn chỉnh. Mọi hoạt động của ở giai đoạn này đối với các em
đều gắn liền với “trách nhiệm”, mặc dù sự phát triển ở giai đoạn này vẫn còn chịu sự
giám sát của cha mẹ hoặc người lớn xung quanh. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp
nhất và cũng là thời kỳ chuẩn bị cho những bước phát triển sau này. Hoạt động của họ
sẽ hình thành nhân cách, đạo đức cho họ và môi trường sống cũng ảnh hưởng một
phần lớn đến việc phát triển tâm sinh lý ở giai đoạn này.
Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển ở các lứa tuổi trong các giai
đoạn ở một con người giúp cho chúng ta có cách cư xử đúng đắn trong xã hội cũng
nhứ trong quan hệ pháp luật. Và đây sẽ là những căn cứ để xác định độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
1.1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm là cơ sở thực tiễn để xác định và quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Mỗi quốc gia khác nhau quy định về độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự là khác nhau. Dựa trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và sự phát
triển tâm, sinh lý (thể chất, trí tuệ) của con người của mỗi nước mà các quốc gia quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và những quy định phù hợp với nước mình.
Theo dõi Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm
pháp luật trước Quốc hội vào kỳ họp cuối mỗi năm từ năm 2011 đến năm 2016, cho
thấy kết quả phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật ở nước ta đã có những
chuyển biến tích cực. Nếu như năm 2011 tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật
được Chính phủ nhìn nhận là diễn biến phức tạp, hầu hết các loại tội phạm đều tăng so
với cùng kỳ những năm trước đó (tăng cả về số tội phạm và loại tội), với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ngày càng tăng; tội phạm có tổ chức dưới
13 Trần Thị Hoàng Lan (năm 2012), tlđd (2), trang 18.

15


hình thức băng nhóm bao kê nhà hàng, đòi nợ thuê dưới danh nghĩa thành lập các

doanh nghiệp kinh doanh nhà hàng, vũ trường, cầm đồ…, tội phạm sử dụng công nghệ
cao, mua bán người,… có xu hướng tăng; hành vi phạm tội chống đối người thi hành
công vụ mang tính manh động cao; tội phạm sử dụng vũ khí có chiều hướng gia tăng,
thủ đoạn phạm tội tinh vi, manh động, liều lĩnh, tội phạm giết người mang tính dã
man, tàn bạo, gây bức xúc trong xã hội… thì từ năm 2012 cho đến năm 2016 tình hình
tội phạm, vi phạm pháp luật dần được kiềm chế và đặc biệt năm 2016 thì về tổng thể
tình hình tội phạm có giảm.14
Lứa tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là lứa tuổi cơ bản hình thành về nhân cách
cũng như cách ứng xử của họ trong quá trình giao tiếp hằng ngày. Quá trình hình thành
nhân cách, khả năng nhận thức từ cuộc sống hằng ngày, từ môi trường trong gia đình,
họ hàng, bạn bè thầy cô. Tuy nhiên, khoảng thời gian hình thành nhân cách, khả năng
nhận thức trong lúc này còn nằm dưới sự kiểm soát của cha mẹ, thầy cô. Mọi hoạt
động còn dựa trên cảm tính trước các tình huống cụ thể xung quanh cuộc sống của
những người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nhưng thực tiễn cho thấy những người ở lứa
tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng đã gây không ít thiệt hại, nguy hiểm cho xã hội
ảnh hướng và xâm phạm đến quyền, lợi ích của người khác. Do vậy, trách nhiệm hình
sự của những người ở lứa tuổi này cũng được quy định trong những trường hợp xác
định.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng cho thấy những người từ 16 tuổi
trở lên là lứa tuổi phổ biến nhất thực hiện hành vi nguy hiểm xâm phạm và các quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Thực tiễn cũng cho thấy, bắt đầu từ 16 tuổi trở lên,
hầu như các hành động của cá nhân trong hoạt động giao tiếp xã hội đều do họ tự
quyết định. Vì vậy pháp luật hình sự nước ta mới xác định từ lứa tuổi này họ phải chịu
trách nhiệm về mọi tội phạm do họ gây ra.15
1.1.4.3. Mối quan hệ giữa tuổi chịu trách nhiệm hình sự với năng lực trách
nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người
có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ người có năng lực trách
nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm.Theo qui định của Bộ luật Hình sự
năm 2017, sửa đổi, bổ sung năm 2017: chủ thể của tội phạm bao gồm con người và

pháp nhân thương mại. Trong bài nghiên cứu này, người viết sẽ chỉ đề cập đến năng
lực trách nhiệm hình sự của cá nhân.
14 “Phòng, chống tội phạm hiện nay ở nước ta hiện nay – thực trạng và một số kiến nghị”
( truy cập ngày 15/4/2018.
15 Trần Thị Hoàng Lan (năm 2012), tlđd (2), trang 20.

16


Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự16. Tuy nhiên, một
người có năng lực trách nhiệm hình sự cũng phải đạt đến một độ tuổi nhất định. Mà
theo khoa học luật hình sự thì “Chủ thể của tội phạm là người có năng luật trách
nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể”17.
Bộ luật không quy định như thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ đề
cập đến tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Chương IV
Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự ở Điều 21: “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự”. Như vậy, một người nếu đạt đến một độ tuổi nhất định nhưng lại phát
triển về mặt tâm sinh lý không được bình thường, mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh
làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi mà thực hiện tội
phạm thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Và nếu, một người phát triển bình
thường về mặt sinh lý, đã đạt đến một độ tuổi nhất định mà thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định
thì hiển nhiên sẽ bị xử lý. Vậy, một người khi trở thành chủ thể phạm tội khi thõa mãn
các điều kiện nhất định.
Điều kiện thứ nhất, chủ thể đó phải là người có năng lực trách nhiệm hình
sự. Mà năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi của một người. Đó là khả năng tâm lý của một người, không phụ thuộc vào
pháp luật. Năng lực nhận thức có ở mỗi con người từ khi mới sinh ra. Nó phát
triển và hoàn thiện theo sự phát triển của cấu tạo sinh học cơ thể con người qua
quá trình lao động và giáo dục trong xã hội. Đến một thời điểm nhất định trong
đời sống của con người thì năng lực này mới được xem là tương đối đầy đủ.
Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự hình thành trên hai cơ sở: sự phát
triển sinh học của cơ thể và đời sống xã hội. Bộ luật Hình sự không quy định
16 Khoản 1, Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
17 Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, trang 122.

17


một người như thế nào là thoả mãn điều kiện về khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi mà chỉ đề cập đến trường hợp người mất khả năng
nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi. Như vây, để nhận biết một
người đủ năng lực nhận thức và khả năng điều khiển hành vi hay không phải
dựa vào hai yếu tố trên.
Điều kiện thứ hai, chủ thể của tội phạm phải đạt đến độ tuổi nhất định thì
mới được coi là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, vì khi đạt đến
một độ tuổi nhất định thì con người mới có đủ khả năng nhận thức, điều khiển
hành vi và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Khi đạt đến một ngưỡng tuổi
nào đấy thì con người cũng sẽ phát triển vể cơ thể cũng như tâm sinh lý. Và chủ
thể của tội phạm phải thực hiện hành vi phạm tội củ thể và thỏa mãn hai điều

kiện trên thì mới được coi là tội phạm theo quy định của luật hình sự ở nước ta.
Việc luật đưa ra một độ tuổi nhất định là dựa vào cơ sở khoa học, căn cứ vào thực
tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cở sở tham khảo kinh nghiệm các nước
khác, Nhà nước ta đã xác định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự theo luật định. Nội dung này nhằm ngụ ý rằng người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi trở lên đã có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của mình. Và nếu họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, thực hiện một
hành vi phạm tội cụ thể thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, một con người được coi là có
năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ thì phải đáp ứng hai điều kiện nêu trên.
Mỗi người có sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý đến một giai đoạn
nhất định trong đời sống sẽ hoàn thiện năng lực này và khi đó họ được coi là
chủ thể của tội phạm. Giai đoạn hoàn chỉnh này trong đời sống của mỗi cá nhân
được luật hình sự mỗi nước trên thế giới quy định không giống nhau. Việc làm
này phù hợp với sự phát triển tâm, sinh lý (thể chất, trí tuệ) của con người ở
mỗi quốc gia vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự là hai khái
niệm có mối liên hệ “chặt chẽ” với nhau. Con người từ khi sinh ra đã có ý thức
nhưng không phải có ý thức là có năng lực trách nhiệm hình sự mà phải qua
một quá trình phát triển về tâm, sinh lý trong điều kiện xã hội nhất định thì năng
lực đó mới hình thành. Và con người chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì
mới được coi là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, tự nhận thức về
tính nguy hiểm của hành vi và khả năng điều khiển hành vi của mình.
1.2. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự củ pháp luật hiện hành
18


Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hình sự
của mỗi quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm

tội, vừa đảm bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải vừa đạt được mục đích bảo vệ
quyền con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên, kể cả khi họ thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, tạo cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự xử lý
người chưa thành niên phạm tội, nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm người chưa
thành niên; đồng thời bảo đảm minh bạch và thực hiện tốt nguyên tắc nhân đạo, Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định rõ các tội danh cụ thể
thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà người từ
đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung một số tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có tính chất, mức độ nguy hiểm, xảy ra
phổ biến mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự để xử
lý nghiêm khắc.
Tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Tại khoản 1 Điều 12 tiếp tục quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm và bổ sung thêm “trừ những tội phạm mà Bộ luật này
có quy định khác” để khắc phục hạn chế của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 200918 đối với trường hợp một số tội danh mà chủ thể phải là người đủ 18
tuổi. Cụ thể, tại phần tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, có 2 tội quy định chủ thể phải là người đã thành niên nghĩa là phải đủ
18 tuổi chứ không phải đủ 16 tuổi như quy định, cụ thể như: Tội giao cấu với trẻ em
(Điều 115) và Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116). Nên Bộ luật Hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 bổ sung thêm “trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy
định khác” nhằm để điều chỉnh những trường hợp mà người phạm tội là người từ đủ
18 tuổi trong phần tội phạm thì Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

có 3 tội quy định chủ thể phải là người đủ 18 tuổi chứ không phải đủ 16 tuổi.

18 Điều 12, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

19


Cụ thể như tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145) quy định “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ
luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”; tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
(Điều 146) quy định “ Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các
hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”; hoặc tội sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) quy định “Người nào đủ
18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm
hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm” là một trong các tội mà chủ thể phạm tội là người từ đủ 18
tuổi trở lên mà không phải là người từ đủ 16 tuổi.
Đối với khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự 7 tội danh, kể cả ở khung cấu thành cơ bản lẫn ở khung cấu
thành tăng nặng như: Tội giết người (Điều 123); tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134); tội hiếp dâm (Điều 141);
tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi (Điều 144); tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản (Điều 169). Và 22 tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng (nghĩa là tội đó có khung hình phạt cao nhất phải từ trên 07 năm tù trở
lên) cụ thể theo các Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người);

Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản);
Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất
ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển
trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252
(tội chiếm đoạt chất ma túy); Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266
(tội đua xe trái phép); Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho
công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286
(tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn
hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289
(tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện
điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
20


thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều 299 (tội
khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về
an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự).”
Vậy việc quy định tội danh cụ thể cho chủ thể phạm tội là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng xác định được
trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, qua
đối chiếu các quy định về 29 tội danh nêu trên thì tội sản xuất, mua bán, trao
đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái
pháp luật tại điều 285 không thỏa mãn quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật
Hình sự hiện hành. Cụ thể, điều luật 285 quy định:
“1. Người nào sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị,
phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, viễn thông, phương tiện điện

tử để sử dụng vào mục đích trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng
đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ
03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000
đồng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản.”
Căn cứ tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017 thì đây là tội phạm nghiêm trọng, không phải là tội phạm rất
nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại được liệt kê trong
khoản 2 Điều 12 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
như là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt quan trọng là không hợp lý.

21


Có thể nói đây là lỗi kỹ thuật trong quá trình xây dựng Bộ luật Hình sự hiện

hành, do đó cần sửa đổi lại là loại bỏ Điều 285 ở khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho phù hợp.
Như vậy, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 được quy định chi tiết hơn, phù hợp với sự phát triển của xã hội
Việt Nam và đây cũng là một trong những sự tiến bộ về khả năng lập pháp của Nhà
nước ta.

22


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên cơ sở phân tích ở Chương 1 Lý luận chung và quy định pháp luật về tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, người viết đã nêu và phân tích các quan điểm khác nhau liên
quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017. Khái niệm về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đặc điểm theo quy
định của luật, phân tích quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự hiện hành.
So sánh “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” qua từng giai đoạn từ Bộ luật Hình sự
năm 1985 đến Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Bộ luật Hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tổng hợp các nghiên cứu để phân tích Cơ sở
thực tiễn của tâm sinh lý học về các lứa tuổi ở các giai đoạn khác nhau của một con
người. Từ đó, xem đây là tiền đề của xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở nước ta.
Đặc biệt là mối quan hệ giữa tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm
hình sự là hai khái niệm hầu như có sự gắn kết chặt chẽ với nhau trong việc truy cứu
trách nhiệm hình sự của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo
quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định.

23



×