CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ
DẠY HỌC ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC PHỔ THƠNG MỚI Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình đổi mới chương trình GDPT, để đạt
được mục tiêu thì khơng thể thiếu trang thiết bị và đồ dùng
dạy học vì nó là một phương tiện vật chất phục vụ cho quá
trình dạy - học và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
TBDH giúp cho người dạy ln tìm tịi, đổi mới phương
pháp, hình thức giảng dạy, người học năng động, tích cực,
phát huy tính chủ động, sáng tạo trong học tập, góp phần nâng
cao hiệu quả và chất lượng giáo dục toàn diện. Trong xu thế
đổi mới giáo dục hiện nay, đặc biệt là sự ứng dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại để tạo ra những thiết bị,
đồ dùng dạy học đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại. Vậy
thì làm thế nào để quản lý, sử dụng TBDH có hiệu quả, đây là
vấn đề được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đề
cập nghiên cứu.
Nghiên cứu ngoài nước
Nhà giáo dục học vĩ đại người Cộng hịa Séc Jan Amos
Komenski (1592-1670), là một trong những ơng tổ sư phạm ở
Châu Âu và thế giới, đã đặt nền móng đầu tiên cho dạy học
trực quan, chủ trương giảng dạy bằng hoạt động, bằng sự
quan sát trực tiếp, bằng sự tiếp xúc với sự vật trong đời sống
hàng ngày. Trong tác phẩm “Phép dạy học vĩ đại”, ơng viết:
“…khơng có gì trong trí não nếu như trước đó khơng có gì
trong các cảm giác. Vì thế, tất nhiên bắt đầu dạy học khơng
thể từ sự giải thích bằng lời về các sự vật mà phải từ sự quan
sát trực tiếp chúng. Lời nói khơng bao giờ được đi trước sự
vật”. Như vậy, Komenski đề cao một phương pháp dạy học
khuyến khích người học tự tiếp thu tri thức bằng chính những
giác quan của mình. Ông nhấn mạnh: “ Cái có thể tri giác
được hãy để cho học sinh tri giác bằng các giác quan của
chúng, cái nhìn được hãy để cho nhìn, cái nghe được hãy để
cho nghe. Đó là quy tắc “vàng” đối với trẻ em, đối với dạy
học” [19].
Ông nhấn mạnh việc sử dụng các đồ dùng, các phương
tiện trực quan trong dạy học “…Việc dạy học phải bằng sự
vật, hiện tượng. Vì sự vật là thân thể, lời nói là cái ảo…lời nói
mà khơng có sự vật là vỏ khơng có nhân, bao khơng có kiếm,
bóng khơng có hình, thân khơng có hồn” [23].
Tại hội nghị quốc tế về giáo dục lần thứ 39 họp tại
Giơnevơ (Thụy sĩ) năm 1984, nhiều hội nghị về thiết bị dạy
học ở các nước Xã hội chủ nghĩa đã thống nhất " Ngành giáo
dục cần được đổi mới thường xuyên về mục đích, cấu trúc,
nội dung, TBDH và phương pháp để tạo cho tất cả các học
sinh có những cơ hội học tập". Nền giáo dục của từng quốc
gia dân tộc nó tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh
tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt là vật chất, kĩ thuật để đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục; ngoài hiện đại hóa nội dung,
chương trình thì phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là
hết sức quan trọng; hiện nay hầu như các nước trên thế giới
quan tâm đến việc hoàn thiện cơ sở vật chất, tập trung nghiên
cứu, thiết kế, sản xuất TBDH với nhiều tính năng, chất lượng
hiện đại để đáp ứng cho nhu cầu giáo dục của từng dân tộc.
Từ những yếu tố trên họ đã tự tìm cho mình một hướng đi,
yêu cầu quản lý thiết bị dạy học theo đúng nguyên tắc, nội
dung, quy trình quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục của
từng quốc gia.
Nhà giáo dục Thụy Sĩ Johann Heinnich Pestalozzi
(1746-1827) được thơi thúc bởi các cơng trình của JeanJacques Rousseau – phát triển phương pháp dạy học dựa trên
thế giới tự nhiên và giác quan đã phát triển quan điểm dạy học
trực quan để đạt hiệu quả cao. Nội dung của quan điểm dạy
học trực quan này là thay lối dạy học cũ, nhồi nhét tri thức
bằng lối dạy học mới có căn cứ khoa học, thơng qua các sự
vật hoặc hình ảnh của chúng và được học viên chứng thực
trên cơ sở cảm nhận của các giác quan [28].
Tổ chức lao động quốc tế ADB/ILO (Evaluation Rating
criteria for the VTE Institution, ADB/ILO – Bangkok 1997)
đưa ra 9 tiêu chuẩn và điểm đánh giá cơ sở GD&ĐT để kiểm
định các nước thuộc tiểu vùng sông Mêkông. Trong đó các
điều kiện cơ sở hạ tầng của nhà trường: Khuôn viên, cơ sở vật
chất – kỹ thuật và thư viện chiếm 125/500 tổng điểm chung
[28].
Cùng với sự phát triển của giáo dục, người ta nhận thức
rằng vai trò của phương tiện, thiết bị dạy học là quan trọng
trong q trình dạy học, khơng chỉ giúp HS nhận biết hiện
tượng mà còn giúp học sinh nắm được bản chất cơ bản của
một vấn đề, bên cạnh đó sử dụng thiết bị dạy học có hiệu quả
giúp cho người học mở rộng kinh nghiệm, cảm tính và để
khám phá bản chất của đối tượng. Lênin đã từng đề cập đến
trong quy luật nhận thức của con người "Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn" [33]; trong thực tế người học tiếp thu kiến thức qua
nghe, nhìn thấy và cảm nhận khác, tuy nhiên khi nghe thì độ
ghi nhớ của người học không cao dễ quên đi sau đó, khi quan
sát, nhìn thấy trực quan thì người học dễ ghi nhớ, ấn tượng và
khắc sâu kiến thức lâu hơn. Việt Nam có câu: Trăm nghe
khơng bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm. Người
Ấn Độ đã tổng kết: Tơi nghe -Tơi qn; Tơi nhìn -Tơi nhớ;
Tơi làm -Tơi hiểu.
Có thể nói, trong lịch sử phát triển giáo dục của thế giới,
phương tiện, thiết bị dạy học giữ vai trị, vị trí hết sức quan
trọng nó được các nước phát hiện và nghiên cứu rất sớm; vì
thiết bị dạy học đã chứng minh được là khuyến khích học sinh
nhận thức được thế giới qua những giác quan của mình là
phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện thực tế, sự phát
triển tâm sinh lí của người học; đây là biện pháp hữu hiệu
giúp học sinh phát triển tư duy, nhận biết hiện tượng và tiến
tới nắm bắt bản chất của sự vật hiện tượng. Như vậy trong
quá trình lĩnh hội kiến thức, người học muốn đạt hiệu quả cao
thì phải thơng qua q trình nghe, nhìn và thực hành và đây là
con đường nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khánh quan.
Nghiên cứu trong nước
Nghị quyết 29/NQ-TW, ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện nền GD&ĐT
của nước ta "Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học, hài hịa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ
và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản,
hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành
nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú
trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật
và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của
văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến
thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và
tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử
dụng của người học”. Học đi đôi với hành; lý luận gắn liền
với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội" [14].
Ở nước ta trong những năm trở lại đây do q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và
công tác đối ngoại. Yêu cầu cấp thiết của giáo dục là đổi mới,
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới là nội dung, chương trình,
phương pháp dạy học để đáp ứng tinh thần đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Trong công tác đổi mới
quản lý giáo dục ở nhà trường hiện nay thì quản lý CSVC nói
chung và quản lý thiết bị dạy học nói riêng đang là một nhu
cầu cấp thiết. Thiết bị và đồ dùng dạy học là phương tiện vật
chất để phục vụ quá trình dạy học và đổi mới phương pháp
dạy học, giúp cho giáo viên và HS thực hiện có hiệu quả mục
tiêu dạy và học. Thiết bị dạy học cũng tạo điều kiện trực tiếp
cho HS phát huy tính chủ động, phát triển năng lực sáng tạo
trong tiếp thu kiến thức, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện. Ngày nay, kinh tế, văn hóa, xã hội càng phát
triển thì thiết bị dạy học trong giáo dục cũng đa dạng, phong
phú, nhiều chủng loại, thì vấn đề đặt ra làm sao quản lý thiết
bị dạy học có hiệu quả. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề của các
cấp quản lý giáo dục, trực tiếp là các Cán bộ quản lý các cơ sở
giáo dục.
Định hướng cơ bản của công cuộc đổi mới giáo dục đã
được chỉ rõ trong Nghị quyết của Trung ương Đảng - Khóa
VIII, đó là: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD&ĐT, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều
kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, nhất là
sinh viên Đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào
tạo thường xun và rộng khắp trong tồn dân”[16].
Năm 2005, Ngơ Quang Sơn đã bảo vệ thành công đề tài
cấp Bộ về: “Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng thiết bị giáo dục, ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông tại các trung tâm GDTX và trung tâm học tập
cộng đồng” mã số: B 2004-53-17; tác giả khẳng định vai trò
quan trọng của TBDH trong các hoạt động giảng dạy, giáo
dục và học tập, đó là: “….Thiết bị dạy học là một bộ phận, là
một thành tố khơng thể thiếu được của q trình dạy, học tích
cực. TBDH vừa là một thành tố, vừa là một phương tiện, một
phương hướng, vừa hàm chứa nội dung của quá trình dạy,
học, đồng thời tạo hứng thú nhận thức cho học viên. TBDH là
một trong những điều kiện giúp GV và học viên thực hiện tốt
phương châm dạy học phát huy tính tích cực của học viên,
tích cực hố quá trình nhận thức, quá trình tư duy của học
viên lớn tuổi…”, đồng thời tác giả đã đưa ra hệ thống 8 biện
pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của việc trang bị, sử
dụng và bảo quản Thiết bị dạy học.
Theo tác giả Tơ Xn Giáp trong cơng trình “Phương
tiện dạy học hướng dẫn chế tạo và sử dụng”. Tác giả Tô Xuân
Giáp đã đưa ra những cơ sở phân loại và phân loại phương
tiện dạy học, cách thức lựa chọn, thiết kế chế tạo, sử dụng
phương tiện dạy học và một số điều kiện để đảm bảo việc sử
dụng có hiệu quả phương tiện dạy học. Như vậy tác giả Tô
Xuân Giáp đã cho rằng “Phương tiện dạy học được sử dụng
đúng, có tác dụng làm tăng hiệu quả sư phạm của nội dung và
phương tiện dạy học lên rất nhiều” [18].
Trần Quốc Bảo với đề tài: “Các biện pháp quản lý của
Hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC – kỹ
thuật phục vụ cho việc dạy và học ở trường THPT cơng lập
Thành phố Hồ Chí Minh” [1], qua đề tài tác giả khảo sát và
phân tích thực trạng quản lý CSVC – kỹ thuật ở một số trường
ở thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các biện pháp quản
lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC –
kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học ở trường THPT công lập
ở thành phố Hồ Chí Minh.
Một số nghiên cứu về quản lý thiết bị dạy học, đó là luận
văn thạc sỹ khoa học giáo dục nhằm tìm ra biện pháp quản lý
hiệu quả Thiết bị dạy học như một số đề tài sau:
Tác giả Đinh Thị Vân Hồng với đề tài “ Quản lý TBDH
tại trường THCS Đống đa theo định hướng trường chuẩn quốc
gia”, tác giả đưa ra một số biện pháp quản lý thiết bị dạy học
phù hợp với nhà trường và bám sát với tiêu chuẩn của trường
chuẩn quốc gia.
Tác giả Nguyễn Thị Trang Nhung với đề tài "Quản lý
TBDH ở các trường THPT huyện An Dương thành phố Hải
Phòng”. Tác giả đã đưa ra một biện pháp quản lý TBDH phù
hợp với địa bàn huyện An Dương, Hải Phòng.
Tác giả Đỗ Hoàng Hiệp với đề tài "Một số biện pháp xây
dựng và quản lý CSVC và thiết bị trường học của Hiệu trưởng
trường THPT Sóc Sơn-Hà Nội". Đề tài trên cơ sở thực trạng
quản lý CSVC và thiết bị của Hiệu trưởng, tác giả đã đề ra
những biện pháp quản lý. Tuy nhiên tác giả đề cập vấn đề quá
rộng là quản lý cả CSVC và thiết bị trường học, thực tế cho
thấy quản lý CSVC là bao hàm cả quản lý thiết bị, hay nói
cách khác là thiết bị là nội hàm của CSVC.
Tác giả Trần Thị Thanh Trang với đề tài "Quản lý TBDH
trong các trường THPT thành phố Hịa Bình, tỉnh Hịa Bình",
tác giả đã đề ra 5 biện pháp quản lý thiết bị có tính khả thi với
thành phố Hịa Bình và biện pháp chỉ dừng lại việc xây dựng
kế hoạch trang bị, chú trọng công tác chỉ đạo, xây dựng quy
chế quản lý và kiểm tra, đánh giá.
TBDH là điều kiện quan trọng trong q trình dạy học,
nó vừa là nội dung vừa là phương tiện chuyển tải thông tin,
giúp GV tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của HS,
giúp HS hứng thú học tập, rèn luyện tác phong và kỷ luật lao
động, kỹ năng thực hành, hình thành phương pháp học tập
chủ động tích cực, sáng tạo; Thiết bị dạy học trở thành công
cụ nhận thức, là một bộ phận hữu cơ của cả phương pháp và
nội dung dạy học.
Có thể nói rằng cho đến nay công các nghiên cứu về
quản lý Thiết bị dạy học đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều
tác giả quan tâm, các cơng trình đều đánh giá được thực trạng
quản lý TB, công tác bảo quản, tiếp nhận, khai thác, bảo trì
sửa chữa ở các địa phương, vùng miền khác nhau; qua đó đề
ra những biện pháp quản lý phù hợp của từng địa phương.
Tuy nhiên các vấn đề nghiên cứu trên ở các cơ sở giáo dục, ở
địa phương, vùng miền trong cả nước là không giống nhau.
Thực tế quản lý thiết bị dạy học ở địa phương huyện An Lão,
thành phố Hải Phòng còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn;
cơng tác quản lý của những nhà giáo dục chưa khoa học, chưa
thường xuyên, thiếu đồng bộ, trang bị thiết bị lạc hậu, đội ngũ
thì khơng thích ứng với sử dụng, khai thác tốt những trang
thiết bị mới đầu tư. Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện
nay, để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, tồn diện, trong đó
thành tố thiết bị dạy học khơng thể tách rời khỏi hoạt động
dạy học để góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học.
Đặc biệt hơn nữa tại địa phương huyện An Lão chưa có cơng
trình, tài liệu nào nghiên cứu về vấn đề "Quản lý thiết bị dạy
học đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới ở các
trường THCS huyện An Lão, thành phố Hải Phịng. Đó là lý
do để tác giả chọn và nghiên cứu đề tài này.
Các khái niệm cơ bản
Quản lý
Ngày nay, thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến, nhưng
chưa có một định nghĩa nào là thống nhất. Khái niệm quản lý
là một khái niệm rất quan trọng, phong phú và có nhiều dấu
hiệu đặc trưng, có nhiều đối tượng. Đồng thời nó cũng thay
đổi theo từng giai đoạn lịch sử, bởi vậy khơng có khái niệm
quản lý chung nào cho mọi lĩnh vực. Chúng ta có thể nêu một
số khái niệm quản lý như sau:
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ
tính chất xã hội có lao động. Quản lý ra đời từ rất sớm, nó gắn
chặt với sự xuất hiện và sự phát triển của loài người. Thực tế
cho thấy xã hội loài người càng phát triển thì u cầu địi hỏi
quản lý ngày cao, bởi lẽ muốn có hiệu quả, năng suất lao động
thì phải có sự chỉ huy, cơng tác điều hành quản lý phải có
người thủ lĩnh, người đứng đầu.
Quản lý theo từ điển Tiếng Việt thông dụng (Nxb Giáo
dục, 1998) cho rằng: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một
đơn vị, cơ quan”. Taylor thì cho rằng: Quản lý là biết chính
xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã
hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và chi phí thấp nhất.
Ngày nay, quản lý rất được coi trọng, quản lý là một
trong những nhân tố phát triển kinh tế - xã hội đó là: Vốn,
nguồn lao động, khoa học kỹ thuật, tài nguyên và quản lý.
Trong đó quản lý đóng vai trị quan trọng nhất trong sự thành
công hay thất bại của một tổ chức, ảnh hưởng đến vận mệnh
của một quốc gia, dân tộc.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo và tập thể tác giả thì cho
rằng: “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục
tiêu chung”. [14, tr.176]
Theo tác giả Bùi Minh Hiền: “Quản lý là sự tác động có
tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản
lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”[14, tr.10].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của
chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử
dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực,
tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách
tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”
[16, tr 15].
Theo các thuyết quản lý hiện đại thì: “Quản lý là q
trình làm việc với và thơng qua những người khác để thực
hiện các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường luôn biến
động”.[15,tr.36]
Tuy từng tác giả trình bày khác nhau, song các khái niệm
trên đã vạch rõ bản chất hoạt động quản lý, đó là: Cách thức
tổ chức, điều khiển ( tác động) của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chung
của tổ chức đã đề ra. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý rất đa dạng và phong phú, nhưng trong các
mối quan hệ đó thì cần quan tâm nhất là mối quan hệ giữa con
người với con người và coi đó là cốt lõi của hoạt động quản
lý. Đó là mối quan hệ tác động qua lại, tương hỗ với nhau tạo
thành một hệ gọi là quản lý.
Như vậy khái niệm quản lý có thể được hiểu như sau:
Quản lý là cách thức, phương thức nhằm giúp một tổ
chức, một đơn vị cụ thể đạt được các mục tiêu, kế hoạch đề
ra, thông qua các hoạt động nhờ chủ thể quản lý tác động
đến đối tượng quản lý (các nguồn lực khác nhau trong một tổ
chức) để đạt đến mục tiêu chung của tổ chức mong muốn..
Quá trình quản lý là quá trình hoạt động của chủ thể
quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Để đến đích đó thì
nhà quản lý phải trải qua các chức năng quản lý sau:
Chức năng kế hoạch hóa
Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản
lý, là yếu tố quyết định sự phát triển hay thành bại của một
nhà trường. Nhiệm vụ cốt yếu của người quản lý là làm thế
nào để mọi người biết nhiệm vụ của mình, quá trình lập kế
hoạch phải dự tính đến tính khoa học, mục tiêu, nội dung,
phương pháp, trình tự, thời gian tiến hành các công việc,
chuẩn bị huy động các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực…)
nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục. Lập kế hoạch
bao gồm các giai đoạn: Thiết lập các mục tiêu cho phát triển
của nhà trường, bao gồm mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể;
được giới hạn về thời gian và mang tính khả thi. Nhận diện
các nguồn lực của nhà trường như nhân lực, tài lực, vật lực,
…Quyết định về các cách thức, phương thức hoạt động để đạt
mục tiêu. Đấy là chức năng kế hoạch hóa của nhà quản lý.
Chức năng này bao gồm kế hoạch chiến lược phát triển nhà
trường và kế hoạch tác nghiệp; tùy thuộc vào thời gian, mức
độ thì kế hoạch quản lý nhà trường có thể chia thành kế hoạch
dài hạn và kế hoạch ngắn hạn.
Chức năng tổ chức
Để giúp cho các cá nhân cùng làm việc với nhau nhằm
thực hiện có hiệu quả mục tiêu cần phải xây dựng và duy trì
một cơ cấu nhất định về vai trị, nhiệm vụ và vị trí cơng tác.
Thể hiện qua các mối quan hệ giữa các thành viên, giữa các
bộ phận trong nhà trường khi thực hiện phân công lao động,
phân cơng nhân sự ở các vị trí. Cho nên, cần phát huy vai trò
của các bộ phận nhằm hiểu mục đích hoặc mục tiêu của tổ
chức.
Vì vậy, ta có thể hiểu rằng, chức năng tổ chức trong
quản lý là việc thiết kế cơ cấu các bộ phận cho phù hợp với
mục tiêu của tổ chức. Song, không phải chỉ có vậy, mà việc
thực hiện chức năng tổ chức trong quản lý còn phải chú ý đến
phương thức hoạt động, đến quyền hạn của từng bộ phận và
đặc biệt chú ý đến việc bố trí cán bộ là người vận hành các bộ
phận của tổ chức.
Chức năng chỉ đạo thực hiện
Đây là chức năng thể hiện năng lực của người quản lý.
Việc chỉ đạo thể hiện ở việc chủ thể quản lý nhà trường định
ra chủ trương, kế hoạch, nguyên tắc hoạt động và triển khai
thực hiện của nhà trường. Hoạch định kế hoạch chú ý đến
việc sắp xếp tổ chức con người nhằm thực hiện mục tiêu đã đề
ra. Đây là quá trình sử dụng quyền lực của người quản lý để
tác động đến các đối tượng bị quản lý (con người, các bộ
phận) một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của
họ hướng vào việc đạt mục tiêu chung của hệ thống. Người
điều khiển hệ thống phải là người có tri thức và kỹ năng ra
quyết định và tổ chức thực hiện quyết định; sử dụng các
phương pháp quản lý một cách khoa học, hợp lí, xây dựng tốt
các mối quan hệ trong đơn vị nhằm tạo động lực làm việc cho
mọi người.
Chức năng kiểm tra
Đây là chức năng quan trọng của nhà quản lý, có thể nói,
chức năng này xuyên suốt quá trình quản lý và là chức năng
của mọi cấp quản lý. Vì trong quá trình thực hiện các hoạt
động thì kiểm tra một cách chủ động đối với các hoạt động
của nhà trường, giúp nhà quản lý xác định được hệ thống
quản lý của mình đang ở tình trạng nào; tìm ra ưu điểm, hạn
chế, để kịp thời đề ra biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Trong quá trình vận hành các hoạt động của nhà trường, nếu
khơng đạt kết quả như mong muốn, thì nhà quản lý cần có
biện pháp điều chỉnh hợp lí. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra
còn giúp nhà quản lý xác nhận kết quả, động viên, khích lệ
người thực hiện nhiệm vụ một cách kịp thời.
Các chức năng quản lý cơ bản trên đây tạo thành một
chỉnh thể thống nhất, trong đó từng chức năng vừa có tính độc
lập tương đối vừa có mối quan hệ khăng khít và tác động qua
lại lẫn nhau tạo thành một chu trình khép kín để thực hiện
hiệu quả mục tiêu quản đề lý ra. Khi nhà quản lý ra quyết
định quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo
một trình tự nhất định. Chuỗi các chức năng tạo thành một
chu trình quản lý của mọi hệ thống. Nếu bỏ qua hoặc coi nhẹ
một trong các chức năng thì tác động đến hiệu quả quản lý.
Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc biệt của con người, là
hoạt động có mục đích, có nội dung, có tổ chức, có định
hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục đạt đến
mục tiêu nhất định.
Quản lý giáo dục theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt
động giáo dục của xã hội; mỗi xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể thì bao giờ cũng có một nền giáo dục tương ứng với nó và
phù hợp với mục tiêu, nội dung, chương trình, cách thức
giảng dạy khác nhau.
Quản lý giáo dục theo nghĩa hẹp là quản lý các hoạt
động giáo dục và đào tạo diễn ra trong một địa phương, một
đơn vị hành chính và quản lý nhà trường là quản lý các hoạt
động giáo dục và đào tạo của một cơ sở giáo dục. Do mỗi
phương thức xã hội khác nhau nên cách thức quản lý cũng
khác nhau, vì vậy khái niệm về quản lý cũng được nhiều tác
giả đề cập, khai thác trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là hệ
thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của
chủ thể quản lý (hệ thống giáo dục) nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên tắc giáo dục của Đảng thực
hiện được những tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam,
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ,
đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về
chất”. [17,tr.89]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo
nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành phối hợp của các lực
lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu xã hội” [1, tr.14]
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là những tác
động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của
chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả mắt xích của
tồn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục
về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em” [16, tr.341]
Từ những khái niệm trên ta có thể khái quát rằng: Quản
lý giáo dục được hiểu là một hệ thống những tác động có tổ
chức, có mục đích, có định hướng của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành có
hiệu quả và đạt mục tiêu đề ra trên cơ sở phù hợp với quy
luật khách quan.
Quản lý nhà trường
Trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong nền
kinh tế hội nhập thì nhà trường khơng chỉ là một thiết chế sư
phạm đơn thuần mà công việc hoạt động của nhà trường diễn
ra có mục tiêu cao nhất là hình thành nhân cách, sức lao động
để đáp ứng yêu cầu xã hội, đồng thời làm đúc kết thêm vốn tri
thức, kinh nghiệm tổ chức và giá trị xã hội cho con người.
Cũng có thể hiểu rằng “Nhà trường là vầng trán của
cộng đồng” và đến lượt mình “Cộng đồng là trái tim của nhà
trường”. Với chủ trương xã hội học tập, học tập suốt đời tạo
nên sự đồng thuận trong dư luận xã hội là đưa giáo dục đến
với mọi nhà và mọi người được tham gia học tập nhằm mục
tiêu nâng cao dân trí góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước.
Chủ trương của Đảng ta coi “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”, vì vậy mục tiêu, chất lượng giáo dục luôn được quan
tâm; thước đo của quản lý xã hội là lấy tiêu điểm từ quản lý
giáo dục; quản lý giáo dục phải coi nhà trường là nền tảng,
điểm nhấn; quản lý nhà trường phải lấy quản lý dạy học là
khâu then chốt và dạy học phải xuất phát từ nhiệm vụ, nhu
cầu người học.
Trường học là một bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo
dục của hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó hoạt động dạy
và học là nhiệm vụ trung tâm của nhà trường, đối tượng giáo
dục là con người nên thể hiện trong tính đa dạng, phức tạp.
Thực chất của quản lý nhà trường là: Quản lý hoạt động dạy
và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang
trạng thái khác để hướng tới mục tiêu giáo dục.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên
lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”[12, tr.6]
Luật Giáo dục quy định: “Nhà trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch
của nhà nước, nhằm phát triển sự nghiệp GD và được tổ chức
theo các loại hình trường cơng lập, trường bán cơng, trường tư
thục…”.
Như vậy, nhà trường là hoạt động có tổ chức của các cơ
quan và cá nhân nhằm tập hợp và tổ chức hoạt động dạy học, rèn luyện của giáo viên và học sinh trên cơ sở quản lý
của cơ quan chủ quản cấp trên bằng quy định pháp lí về
GD&ĐT cùng với mối quan hệ của các lực lượng giáo dục
khác.
Thiết bị dạy học
Trong quá trình dạy học ngồi chương trình, sách giáo
khoa, trường lớp thì khơng thể thiếu phương tiện, thiết bị dạy
học. Vậy Thiết bị dạy học là gì? Vị trí của thiết bị dạy học.
Theo Vũ Trọng Rỹ: TBDH là thuật ngữ chỉ một vật thể
hoặc một tập hợp đối tượng vật chất mà người giáo viên sử
dụng với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận
thức của học sinh, còn đối với học sinh thì đó là nguồn tri
thức giúp học sinh lĩnh hội các khái niệm, định luật, thuyết
khoa học,… hình thành ở học sinh các kỹ năng, kỹ xảo, đảm
bảo việc giáo dục, phục vụ mục đích dạy học và giáo dục [38,
tr 4].
Trong cuốn “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng sử dụng CSVC và TBDH ở trường phổ thông Việt
Nam”, các tác giả đã phân tích : “ TBDH là tất cả những
phương tiện vật chất cần thiết giúp cho GV và HS tổ chức và
tiến hành hợp lý có hiệu quả q trình giáo dưỡng và giáo dục
ở các mơn học, cấp học”[21]
Theo bách khoa toàn thư Việt Nam: “Thiết bị dạy học là
một vật thể hoặc một tập hợp các vật thể mà giáo viên và học
sinh sử dụng trong quá trình dạy học để nâng cao hiệu quả của
quá trình này, giúp HS lĩnh hội khái niệm, định luật, … hình
thành các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết”.
Theo tác giả Bùi Minh Hiền: Thiết bị dạy học là một bộ