Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

CƠ sở lý LUẬN về dự báo PHÁT TRIỂN đội NGŨ GIẢNG VIÊN dạy NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.74 KB, 43 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ GIẢNG VIÊN DẠY NGHỀ


Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề về dự báo giáo dục
Khoa học dự báo hình thành trên thế giới từ những năm 60
của thế kỷ XX. Với tư cách là một khoa học độc lập, khoa học dự
báo có hệ thống lý luận, phương pháp luận và hệ thống phương
pháp nghiên cứu riêng hướng tới nâng cao hiệu quả của công tác
dự báo. Nghiên cứu dự báo nói chung, dự báo giáo dục - đào tạo
nhân lực nói riêng là bước đầu tiên trong việc hoạch định các chủ
trương, đường lối chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển giáo dục và đào tạo; tham mưu cho công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành ở cấp quốc gia, cấp bộ, ngành, địa phương;
đồng thời, cung cấp thông tin định hướng cho hoạt động giáo dục
và phát triển nhân lực.
Các nghiên cứu trên thế giới
Thuật ngữ dự báo có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Pro”
(nghĩa là trước và “grosis” (có nghĩa là biết), “progrosis” nghĩa là
biết trước. Bản thân thuật ngữ dự báo đã nói lên thuộc tính không
thể thiếu được bộ não con người: Đó là sự phản ánh vượt trước.
Trong quá trình tồn tại và phát triển con người luôn hướng về phía
trước, cố gắng hướng tới một tương lai ngày một tốt đẹp hơn.
Những cố gắng ban đầu đó được thể hiện dưới hình thức là các
ước đoán, những hy vọng thiếu căn cứ, những ước muốn không có


thực, những tính toán ước lượng thiếu cơ sở khoa học và mang
nặng tính kinh nghiệm. Trải qua nhiều thế kỷ, đã có nhiều quan
niệm khác nhau về dự báo.
Theo M. Laurenn (1974), ‘‘dự báo là một quá trình (không


phải là hoạt động đơn nhất) dựa trên những cứ liệu khoa học cụ
thể để gợi ra những cái sẽ xảy ra trong tương lai’’ [27]. Trong định
nghĩa này, dự báo được hiểu như là sự tiên đoán có căn cứ khoa
học. Ngày này, phương pháp luận hiện đại của dự báo và dự báo
giáo dục khẳng định dự báo và dự báo giáo dục là cả hai quá trình
quy nạp và diễn dịch kết hợp với nhau.
P. Mollian (1981) quan niệm : “Dự báo là phân tích những
vấn đề có thể sẽ xảy ra bằng cách nhận biết được các chỉ báo biểu
diễn của các vấn đề đó trong thực tế’’ [28]. Định nghĩa này là sự
suy diễn theo quan hệ nhân quả giữa ba trạng thái phát triển của
đối tượng dự báo là quá khứ, hiện tại, tương lai. Sự thể hiện của
đối tượng dự báo trong hiện tại có liên quan đến diễn biến của nó
trong quá khứ và tương lai, biến đổi của nó có thể nhận biết được
thông qua các chỉ báo cụ thể ở hiện tại. Chỉ báo có thể biểu hiện
sai bản chất của đối tượng dự báo. Chỉ báo có thể chính xác,
nhưng do ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế - xã hội, sự biến
đổi trong tương lai của đối tượng khiến cho dự báo có thể theo


hướng khác. Như vậy, dự báo là sự tiên đoán và nó có thể đúng,
có thể sai, nói chung nó chỉ đúng với một xác suất nào đó.
Tổ chức UNESCO đã thành lập Trung Tâm Nghiên Cứu và
Dự Báo Giáo Dục (ERF - Education Research and Foresight), với
nhiệm vụ là lưu chuyển các ý tưởng, các kiến thức về giáo dục,
phân tích các khuynh hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong
các xã hội, đưa ra những câu trả lời, đề xướng các khuyến nghị
nhằm phát triển giáo dục. Cơ quan nghiên cứu này của UNESCO
thi hành ba chức năng chính: (1) làm đầu mối xúc tác cho tư duy
phản biện, tư duy sáng tạo, chia sẻ những sáng tạo và kiến thức về
giáo dục, làm lưu chuyển chúng trong và ngoài UNESCO; (2)

Tìm hiểu những xu thế mới trong phát triển, dự đoán các tác động
của các chính sách, các thực hành trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo, đề nghị những hướng đi cải cách về mặt chính sách giáo dục;
(3) Đề xuất các mô hình mới nhằm hướng dẫn chương trình nghị
sự toàn cầu về phát triển giáo dục.
Các công trình nghiên cứu về dự báo giáo dục trên thế giới đã
đưa ra các quan niệm khác nhau về khái niệm “dự báo”, hình thành
khái niệm “dự báo giáo dục”.


Các nghiên cứu ở Việt Nam
Một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu
về dự báo giáo dục là đề tài: “Nghiên cứu chiến lược phát triển
giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp” do GS Lê Thạc Cán
làm chủ nhiệm từ 1986 đến 1987. Đề tài nghiên cứu một số vấn đề
phương pháp luận cho việc xây dựng chiến lược phát triển giáo
dục, bước đầu đưa ra một số kiến nghị về các giải pháp chiến lược
phát triển giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp. Đây là cơ
sở quan trọng để đưa ra dự báo, định hướng chiến lược phát triển
Giáo dục và Đào tạo đến năm 2000.
Năm 1988 - 1990, GS Hà Thế Ngữ đã đứng đầu nhóm
nghiên cứu về “dự báo phát triển giáo dục phổ thông”; đề tài đã đề
cập đến các vấn đề cơ bản của phương pháp luận và phương pháp
dự báo giáo dục, dự báo sư phạm…Đây là đề tài đặt nền móng
ban đầu về phương pháp luận dự báo các xu hướng giáo dục, dự
báo sư phạm, khi nhìn nhận giáo dục phát triển dựa trên các quy
luật nội tại.
Năm 2004, TS Đỗ Mạnh Hùng đã thực hiện công trình: “Một
số vấn đề lý luận về dự báo giáo dục”. Đề tài nghiên cứu đã tập
hơp một số vấn đề lý luận chung của dự báo giáo dục. Các định

nghĩa liên quan đến hướng nghiên cứu đã được đưa ra khá chính


xác bao gồm: khái niệm dự báo, dự báo giáo dục; hệ thống hóa
các nguyên tắc có tính phương pháp luận của dự báo giáo dục, xác
định hệ thống các thuộc tính bản chất của dự báo giáo dục.
Năm 2006, nhà nghiên cứu Nguyễn Đông Hanh đã thực hiện
công trình: “Một số vấn đề lý luận và phương pháp dự báo quy
mô phát triển Giáo dục - Đào tạo trong điều kiện kinh tế thị
trường Việt Nam” và đưa ra một số vấn đề lý thuyết về các
phương pháp dự báo trong GD & ĐT trong nền kinh tế thị trường.
Các nghiên cứu trên đã bước đầu tìm hiểu về một số khía
cạnh cơ bản mang tính lý luận của dự báo GD & ĐT. Tuy nhiên,
những công trình này chưa đưa ra phương pháp tính toán cụ thể,
chủ yếu dùng phương pháp chuyên gia và trình bày kết quả dự
báo gắn với bối cảnh cụ thể của giáo dục.
Tại Việt Nam, Trung tâm Phân tích và Dự báo nhu cầu đào
tạo nhân lực phụ trách lĩnh vực dự báo giáo dục được Bộ Giáo
dục và Đào tạo chính thức thành lập năm 2009.
Công tác dự báo giáo dục là một ngành còn khá non trẻ,
trong thời gian gần đây nó mới được các nhà làm giáo dục tìm
hiểu và nghiên cứu một cách bài bản có thể kể đến các công trình
như: tác giả Đỗ Văn Chấn về “Dự báo nhu cầu cán bộ chuyên
môn Việt Nam đến năm 2000” (Viện nghiên cứu đại học và


THCN năm 1984); tác giả Hà Thế Ngữ: “ Việc dự báo giáo dục
với tư cách là một hướng hoạt động nghiên cứu chuyên biệt, mới
được bắt đầu ở Viện KHGD từ những năm 1985-1986...”. Trong
quá trình cải cách giáo dục đã có một số những công trình dự báo

giáo dục của các nhà khoa học góp phần quan trọng trong việc
xây dựng Chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển giáo dục
quốc dân. Như các công trình nghiên cứu của tác giả Hà Thế Ngữ
(chủ biên) “Dự báo giáo dục-Vấn đề và xu hướng” (Viện KHGD
Việt Nam 1989). Tác giả Đặng Quốc Bảo “Về phương hướng
phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông” (Tạp chí nghiên cứu
giáo dục số 10-1987). Tác giả Đỗ Văn Chấn “Dự báo phát triển”,
Hà Nội 2001. “Dự báo dân số, học sinh đến trường và lực lượng
lao động Việt Nam” của Tổng cục Thống kê (1995-2005).
Có thể nói công tác dự báo về phát triển giáo dục hiện nay đã
được hết sức trú trọng từ phía Nhà nước cũng như các nhà khoa
học, là điều kiện quan trọng để các nhà làm giáo dục hoạch định
các chính sách phát triển trung và dài hạn. Tuy nhiên nghiên cứu
để xây dựng cơ sở khoa học trong lĩnh vực dự báo phát triển đội
ngũ giảng viên dạy nghề nói chung hay khối trường cao đẳng
nghề nói riêng cần tiếp tục thực hiện.


Một số vấn đề lý luận về dự báo giáo dục
Khái niệm dự báo
Trong lịch sử khoa học, chúng ta đã biết có không ít những
lời tiên tri lỗi lạc của các nhà khoa học kinh điển, nhưng những lời
phán đoán, những lời tiên tri đó không phải là ngẫu nhiên, đoán
bừa mang tính may rủi mà hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học với
thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn. Như V.L. Lênin đã
nhận xét “Những lời tiên tri thần kỳ đều là những chuyện hoang
đường, nhưng những lời tiên tri khoa học thì lại là một sự thật”.
Dự báo là một thuộc tính của tư duy con người, bởi lẽ con người
khi sống luôn suy nghĩ về ngày mai, hướng đến tương lai sau này.
Dự báo là thuật ngữ gốc của Hy Lạp “πρόγνωσις”

(Prognosis) có nghĩa là dự đoán, nói trước. Dự báo - đó là mô
hình khoa học về các sự kiện, hiện tượng trong tương lai. Dự báo
là sự tiên đoán có căn cứ khoa học, mang tính xác suất về sự phát
triển của sự vật và hiện tượng có thể diễn ra trong tương lai, dự
báo không chỉ mang tính chất định tính mà còn mang tính định
lượng biểu hiện qua con số cụ thể. Như vậy chúng ta có thể hiểu
dự báo là khả năng tiên đoán các sự vật, hiện tượng sảy ra ở
tương lai trên cơ sở thực tiễn bằng các phương pháp khoa học.


Có thể nói dự báo là một môn khoa học và nghệ thuật tiên
đoán về những sự vật, hiện tượng có khả năng xảy ra trong tương
lai trên cơ sở phân tích khoa học các dữ liệu thu thập được.
Quá trình phân tích dự báo cần phải xét đến các yếu tố lịch
sử hình thành, hiện tại của sự vật hiện tượng để xác định xu
hướng phát triển trong tương lai. Dự báo được sử dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực có những yêu cầu dự báo
riêng nhằm phục vụ cho mục tiêu đưa ra. Trong thời đại toàn cầu
hóa hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã
làm xóa nhòa biên giới quốc gia, khoảng cách giữa con người với
con người, thì công tác dự báo đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối
với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Phân loại dự báo
Phân loại theo phạm vi đối tượng dự báo: Dự báo vĩ mô, dự
báo vi mô, dự báo liên ngành, dự báo khu vực, dự báo vùng, dự
báo đơn vị...
Phân loại theo thời gian của đối tượng dự báo: Dự báo dài
hạn, dự báo trung hạn, dự báo ngắn hạn.
Phân loại theo chức năng của đối tượng: dự báo tìm kiếm, dự báo
định chuẩn.



Phân loại theo đặc trưng đối tượng: dự báo sự vận động phát
triển quan hệ sản xuất, sự báo sự tiến bộ khoa học công nghệ, dự báo
tiến bộ xã hội...
Cách tiếp cận khi lập dự báo
Cách tiếp cận lịch sử
Bất kể một sự vật hiện tượng nào cũng đều phải trải qua quá
trình phát triển từ thấp lên cao, từ quá khứ đến hiện tại, có nghĩa
là nó mang tính quy luật khách quan của nó. Lênin đã nói “trong
bất cứ hiện tượng xã hội nào, nếu xem xét trong quá trình phát
triển của nó đều có tàn dư của quá khứ, cơ sở của hiện tại và mầm
mống của tương lai”. Như vậy để đưa ra cơ sở khoa học khi dự
báo trong tương lai của sự vật, hiện tượng thì không thể nào
không xét đến mối liên hệ giữa các yếu tố lịch sử, hiện tại của
hiện tượng đó.
Cách tiếp cận phức hợp.
Dựa trên cơ sở triết học của phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác Lênin về “nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” của các
sự vật hiện tượng. cách tiếp cận phức hợp dựa trên xem xét mốt
liên hệ, ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau của các sự vật hiện
tượng. Trong nghiên cứu dự báo giáo dục, cách tiếp cận phức hợp


được thể hiện đậm nét, do quá trình nghiên cứu liên quan đến
nhiều ngành khoa học khác nhau như triết học, toán học, giáo dục
học, xã hội, khoa học công nghệ...
Cách tiếp cận cấu trúc - hệ thống.
Cách tiếp cận này dựa trên nguyên lý: Một mặt, ta phải xem
xét đối tượng dự báo như một hệ thống trong sự vận động phát

triển của nó, mặt khác ta lại phải xem nó như một thành tố trong
một hệ thống toàn vẹn khác, trên cơ sở đó phát hiện các tính quy
luật vận động, phát triển của mỗi thành tố, của các quan hệ cũng
như của toàn bộ đối tượng với tư cách là một hệ thống trọn vẹn.
Trong dự báo giáo dục, cách tiếp cận cấu trúc hệ thống đóng vai
trò quan trọng, cho phép tiến hành những dự báo cục bộ cũng như
toàn cục sự phát triển của hệ thống giáo dục làm tiền đề cho việc
hoạch định chính sách phát triển đội ngũ giảng viên trên cơ sở
khoa học.
Các nguyên tắc khi lập dự báo
Nguyên tắc thống nhất về chính trị, kinh tế và khoa học.
Giáo dục là ngành có tác động sâu rộng đến đời sống, kinh
tế, chính trị của xã hội đó. Vì vậy mọi chính sách phát triển giáo


dục cần phải thống nhất với các chính sách phát triển kinh tế xã
hội, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ.
Nguyên tắc về tính hệ thống của dự báo.
Việc dự báo cần xây dựng trên một hệ thống hoàn chỉnh với
đầy đủ các phần tử trong hệ thống có sự gắn kết chặt chẽ với
nhau. Tính hệ thống của dự báo đòi hỏi phải xây dựng một nguyên
tắc chặt chẽ việc hình thành và sử dụng các mô hình dự báo cho
một dự báo có tính phức hợp đối tượng.
Nguyên tắc tính khoa học của dự báo.
Các dự báo được xây dựng trên các lý luận khoa học và thực
tiễn, xét đến những quy luật vận động và phát triển của đối tượng
dự báo, việc tính toán dựa trên những số liệu tin cậy, khách quan.
Nguyên tắc tính thích hợp của dự báo.
Sản phẩm của dự báo trong tương lai phù hợp với bản chất
của đối tượng dự báo trong hiện tại hoặc đáp ứng được mục tiêu

phát triển của đối tượng dự báo.
Nguyên tắc tính đa phương án của dự báo.


Sản phẩm dự báo giúp các nhà hoạch định chính sách có
điều kiện đánh giá, lựa chọn phương án tối ưu cho sự phát triển
của đối tượng dự báo trong tương lai.
Dự báo giáo dục
Từ khái niệm dự báo nói chung thì khái niêm về dự báo giáo
dục nó mang những đặc trưng của dự báo: Là những kiến giải có
căn cứ khoa học và thực tiễn về các trạng thái và xu hướng phát
triển tương lai của giáo dục cũng như những con đường, cách thức
để đạt tới những trạng thái và xu hướng đó. Ở đây xu hướng phát
triển GD là một quá trình diễn ra những thay đổi quan trọng về
lượng và chất trong mỗi thành tố riêng biệt của hệ thống. Không
phải mọi thay đổi trong hệ thống đều là sự phát triển, mà chỉ có
những thay đổi khi có một số sự vật, hiện tượng này được thay thế
bằng một số sự vật hiện tượng khác có trình độ cao hơn, ưu việt
hơn như: Đào tạo theo chỉ tiêu được thay thế bằng đào tạo theo
nhu cầu xã hội, đào tạo theo môn học, niên chế được thay thế
bằng đào tạo theo hệ thống tín chỉ, đào tạo theo môn học được
thay thế bằng đào tạo theo mô đun và năng lực thực hiện. Theo tác
giả Hà Thế ngữ dự báo GD là “Xây dựng phán đoán có thể về tình
trạng của nền giáo dục trong tương lai, nghiên cứu những triển
vọng phát triển của nền giáo dục, chỉ ra những thời hạn ít nhiều


xác định của những biến đổi sẽ xảy ra - đó là dự báo giáo dục một dạng của tiên đoán khoa học trong lĩnh vực xã hội”. Theo tác
giả Đặng Quốc Bảo “Dự báo giáo dục và một số vấn đề liên quan
đến dự báo giáo dục” đã nêu “Cái lạc hậu trong kế hoạch hóa giáo

dục của chúng ta trong một thời gian dài”.
Như vậy có thể hiểu: dự báo giáo dục là việc xác định triển
vọng phát triển của nền giáo dục trong tương lai xác định, dựa
trên bối cảnh lịch sử, điều kiện xã hội và sự phát triển khoa học
công nghệ.
Xét về mặt phản ánh luận, dự báo là sự phản ảnh trước hiện
thực. Dự báo dựa trên cơ sở nhận thức những quy luật vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tác giả Hà Thế Ngữ (1989) xem đối tượng của dự báo giáo
dục là hệ thống giáo dục quốc dân của một nước, một địa phương
với những đặc trưng về quy mô phát triển, cơ cấu, loại hình, chất
lượng đào tạo, tổ chức sư phạm.
Tổng hợp các quan niệm đã nêu ở trên có thể rút ra định
nghĩa về dự báo giáo dục như sau: Dự báo giáo dục là tiên đoán
khoa học xác định trạng thái tương lai của hệ thống giáo dục
quốc dân hoặc các thành tố của hệ thống giáo dục đó với một
xác suất nào đó.


Xuất phát từ quan điểm hệ thống, chúng ta thấy hệ thống
giáo dục là một hệ thống con trong hệ thống kinh tế xã hội vì nó
sinh ra, tồn tại và phát triển song hành cùng với xã hội đó. Vì vậy
dự báo giáo dục không thể tách rời sự phát triển kinh tế xã hội. Dự
báo giáo dục là khái niệm có ý nghĩa bao chùm lên toàn bộ các
khái niệm dự báo trong hệ thống của nó, như vậy có thể thấy khái
niệm dự báo giảng viên nó mang đầy đủ nội hàm của việc dự báo
giáo dục, chỉ khác nhau ở phạm vi và đối tượng dự báo.
Dự báo phát triển đội ngũ giảng viên dạy nghề
Nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Dân tộc ta từ trước đến nay vốn có truyền thống hiếu học

trọng lễ nghi “tiên học lễ, hậu học văn”, với tinh thần tôn sư trọng
đạo, luôn đề cao vai trò của người thày “muốn sang thì bắc cầu
kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thày” điều đó vẫn còn nguyên
giá trị đến ngày nay. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi
trọng đến nền giáo dục nước nhà “Nhiệm vụ của giáo dục rất quan
trọng và vẻ vang”, Bác luôn đề cao vị trí vai trò của nhà giáo đối
với xã hội, người từng nhấn mạnh “Nếu không có thày giáo thì
không có giáo dục” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.8, tr.184). Ngày
nay đội ngũ giảng viên là nhân tố quan trọng của quá trình phát
triển Giáo dục- Đào tạo, thông qua các hoạt động giạy học, giáo


dục cùng với các hoạt động khác trong và ngoài trường, đội ngũ
giảng viên hàng ngày là người trực tiếp thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ, chiến lược phát triển nền Giáo dục-Đào tạo quốc dân.
Ngày nay khi đất nước ngày càng mở cửa rộng rãi về chính
sách kinh tế xã hội, quá trình hội nhập về văn hóa, giáo dục, khoa
học công nghệ ngày càng sâu rộng thì vị trí vai trò của nhà giáo
trong quá trình dạy học đang có sự phát triển để phù hợp với xu
hướng chung của xã hội. Đó là việc chuyển từ mô hình dạy học
trong đó người thày đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình
dạy học sang mô hình lấy người học làm trung tâm, nghĩa là vai
trò của người thày từ việc truyền thụ kiến thức trực tiếp chuyển
sang vai trò hướng dẫn, người hỗ trợ, người cố vấn. Suy cho cùng
đây là sự thay đổi nhiệm vụ của người thày trong quá trình dạy
học chứ không làm mất đi vai trò, sứ mệnh của người thày trong
quá trình dạy học.
Trong quá trình đổi mới của đất nước thì Giáo dục-Đào tạo
nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng có phát triển mạnh mẽ
đáp ứng yêu cầu xã hội đặt ra. Vị trí, vai trò của đội ngũ giảng

viên đã được xác định rõ ràng và cụ thể hóa trong Luật Giáo dục
nghề nghiệp.


Tại điều 53 Luật giáo dục nghề nghiệp xác định Vai trò, vị trí
nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp như sau: Về vị trí “Nhà
giáo trong cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp bao gồm nhà giáo
dạy lý thuyết, nhà giáo dạy thực hành hoặc nhà giáo vừa dạy lý
thuyết vừa dạy thực hành”. “Nhà giáo trong trung tâm giáo dục
nghề nghiệp, trong trường trung cấp được gọi là giáo viên; nhà
giáo trong trường cao đẳng được gọi là giảng viên” [15]. Chức
danh của nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm giáo
viên, giáo viên chính, giáo viên cao cấp; giảng viên, giảng viên
chính, giảng viên cao cấp.
Nhà giáo trong cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp phải đáp
ứng các tiêu chuẩn sau đây: “có phẩm chất đạo đức tốt, đạt trình độ
chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có đủ sức khỏe theo yêu
cầu nghề nghiệp, có lý lịch rõ ràng”.
Khái niệm dự báo phát triển đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên dạy nghề nói
riêng là một trong những lực lượng nòng cốt bên trong đáp ứng
nhu cầu phát triển giáo dục nghề nghiệp. Nếu thực hiện tốt công
tác dự báo giảng viên thì sẽ giúp cơ sở giáo dục nghề nghiệp xây
dựng kế hoạch chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp từ đó
chủ động trong việc phát triển đội ngũ, đào tạo bồi dưỡng nâng


cao trình độ giảng viên hay chủ động trong việc tinh giản đội ngũ.
Có thể thấy nhu cầu dự báo giảng viên là một trong những nhu
cầu hết sức cần thiết cho hoạt động đào tạo của nhà trường.

Chức năng của dự báo giảng viên.
Muốn dự báo đúng đắn sự phát triển tương lai của sự vật
hiện tượng, thì cần phải chỉ ra một thế giới quan và phương pháp
luận đúng đắn đối với quá trình phát triển sự vật hiện tượng đó.
Đó là quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Dự báo là việc nghiên cứu cơ chế tác động qua lại của các sự vật
hiện tượng và tìm ra mối liên hệ nhân quả, từ đó xác định khuynh
hướng phát triển hay hình thái biến đổi của sự vật, hiện tượng
trong tương lai. Như vậy chức năng của dự báo là nghiên cứu quy
luật phát triển của sự vật hiện tượng trên quan điểm duy vật biện
chứng, xác định các khuynh hướng phát triển hay hình thái biến
đổi của sự vật hiện tượng đó.
Chức năng của dự báo giảng viên nhằm chỉ ra nhu cầu, xu
thế phát triển hay hình thái biến đổi của đội ngũ giảng viên trong
tương lai.
Một số những chức năng cơ bản của dự báo giảng viên:


Giúp phân tích, đánh giá đúng đắn khuynh hướng khoa học
trong lĩnh vực giáo dục đã hình thành và phát triển trong nước,
trên thế giới, tiên đoán sự phát triển trong tương lai trên cơ sở phù
hợp với quy luật phát triển khoa học công nghệ.
Phân tích, đánh giá đúng đắn khuynh hướng giáo dục đã
hình thành và chỉ ra những vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại và phát
triển của khuynh hướng đó trong tương lai.
Xây dựng các phương án tối ưu, các giải pháp thực hiện hiệu
quả nhất để đạt được mục tiêu nhất định.
Tất cả tài liệu, số liệu dự báo nhằm cung cấp đầy đủ thông
tin trong việc lập kế hoạch, chiến lược phát triển trong việc phát
triển của đối tượng dự báo trong tương lai.

Như vậy chức năng của dự báo trong giáo dục nói chung và
giảng viên nói riêng là phác họa bức tranh phát triển của giáo dục
trong tương lai và chỉ ra con đường hình thành và phát triển đến
tương lai đó.
Vai trò của dự báo giảng viên
Bất kể một sự vật hiện tượng nào được sinh ra cũng đều giữ
những vai trò nhất định trong sự phát triển của nó. Trong quản lý
giáo dục, dự báo giảng viên giúp nhà quản lý hoạch định chính


sách, lập kế hoạch đào tạo, định hướng phát triển của tổ chức. Có
thể nói vai trò của dự báo giảng viên được thể hiện ở một số khía
cạnh sau:
Tạo sự chủ động trong lập kế hoạch đào tạo, thông qua dự
báo đơn vị xác định rõ các nguồn lực nội tại cũng như xu hướng
phát triển của xã hội từ đó chủ động trong việc xây dựng kế hoạch
chi tiết trong đào tạo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của đơn vị.
Giảm thiểu rủi do, những yếu tố bất lợi trong việc quy hoạch
và phát triển đội ngũ nhà giáo.
Tạo ra lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút tuyển sinh, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo.
Trong mỗi một cơ sở giáo dục thì đội ngũ giảng viên đóng
vai trò quyết định đối với chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Vì
vậy công tác dự báo phát triển đội ngũ giảng viên sẽ giúp cho các
cơ sở giáo dục chủ động được kế hoạch đào tạo của mình đồng
thời lường trước những bất lợi sảy ra trong tương lai. Nếu coi
công tác dự báo giảng viên là một bước đầu tiên của quá trình lập
kế hoạch đào tạo cho nhà trường thì ta xây dựng được mối quan
hệ giữa dự báo và lập kế hoạch được thể hiện qua sơ đồ sau:



Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa công tác dự báo và lập kế
hoạch
Như vậy để đảm bảo sự phát triển bền vững quá trình phát
triển giáo dục của các đơn vị, tổ chức cũng như các đơn vị quản lý
giáo dục thì công tác dự báo giảng viên đóng vai trò hết sức quan
trọng.
Đối tượng của dự báo giảng viên
Có thể nói việc xác định rõ đối tượng trong nghiên cứu
khoa học giúp cho quá trình thực hiện nghiên cứu không bị chệch
hướng so với mục tiêu đề ra. Đối tượng của quá trình nghiên cứu
khoa học cần phải xác định cụ thể, chi tiết.


Đối tượng của dự báo giảng viên là trạng thái phát triển đội
ngũ giảng viên trong tương lai về số lượng, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, cụ thể như sau: (1) Dự báo nhu cầu phát triển số lượng
giảng viên đáp giai đoạn phát triển trong tương lai; (2) Dự báo
nhu cầu cần đào tạo nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ cho giảng
viên nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo cho giai đoạn tiếp theo; (3)
Dự báo số lượng giảng viên đến tuổi nghỉ hưu theo chế độ, hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động.
Quá trình dự báo và một số phương pháp trong dự báo giá
o dục
Quá trình dự báo
Các cách tiếp cận phổ biến để xây dựng các mô hình dự báo
giáo dục trong các công trình nghiên cứu bao gồm: Tiếp cận duy
vật biện chứng, tiếp cận lịch sử, tiếp cận hệ thống. Việc sử dụng
và thừa nhận các cách tiếp cận trên phụ thuộc vào trình độ nhận
thức của chủ thể dự báo, dựa vào quy luật nội tại và các mối quan

hệ tương quan của đối tượng dự báo với các yếu tố của môi
trường.
Các công trình đã kế thừa các tính chất của dự báo nói chung
và bổ sung một số tính chất cho phù hợp với đặc thù của giáo dục.
Các tính chất của dự báo giáo dục bao gồm:


Dự báo giáo dục là một chức năng của khoa học giáo dục;
Dự báo giáo dục có tính sư phạm;
Dự báo giáo dục có tính hệ thống;
Dự báo là phát hiện, phóng chiếu quy luật vận động, phát
triển của đối tượng dự báo từ quá khứ và hiện tại sang tương lai;
Dự báo có tính xác suất và đa phương án.
Quá trình dự báo này có thể phác họa theo sơ đồ sau:

- Phác họa quá trình dự báo


-. Mô tả quá trình dự báo
Trong đó: f(x) là hàm xu thế với n biến số: Xi là nhân tố ảnh
hưởng thứ i.
Trên quan điểm hệ thống chúng ta biết rằng GD-ĐT là một
hệ thống con trong hệ thống lớn kinh tế xã hội. Hệ thống GD-ĐT
được xem xét dưới góc độ khác nhau như theo số lượng, chất
lượng bậc học, mạng lưới phân bố, sở hữu, ngành nghề đào tạo ...
Do đó, dự báo nhu cầu giảng viên không thể tách rời dự báo qui
mô GD-ĐT nói riêng và dự báo GD-ĐT nói chung. Dự báo giáo
dục có ý nghĩa định hướng, làm cơ sở khoa học cho việc xác định
các phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu lớn của GD-ĐT. Dự báo
GD-ĐT bao gồm một số dự báo chủ yếu sau:



Về những điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội trong đó hệ
thống giáo dục quốc dân sẽ vận hành và phát triển.
Về những yêu cầu mới của xã hội đối với người lao động,
đối với độ phát triển nhân cách của con người.
Về những biến đổi trong tính chất, mục tiêu và cấu trúc của
hệ thống giáo dục do các tác động của quá trình xã hội.
Về những thay đổi trong nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học và giáo dục do đòi hỏi của tiến bộ khoa học
công nghệ và của tăng trưởng, phát triển kinh tế -xã hội.
Về những biến đổi dân số và sự biến động về số lượng, cơ cấu
ngành học.
Về những biến đổi của đội ngũ giảng viên (số lượng, cơ cấu,
trình độ), cơ sở vật chất trường học, thiết bị kỹ thuật dạy học và tổ
chức quản lý hệ thống GD-ĐT.
Như vậy, đối tượng của dự báo GD -ĐT là hệ thống giáo dục
quốc dân của một nước, một địa phương với những đặc trưng về
quy mô phát triển, cơ cấu loại hình, mạng lưới trường lớp, đội ngũ
giảng viên, chất lượng đào tạo, tổ chức sư phạm.


×