Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Cơ cấu, hình thức và những đặc trưng cơ bản của các làng việt ở châu thổ bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 21 trang )

z

Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn



CHỦ ĐỀ:
Cơ cấu, hình thức và những đặc trưng cơ bản
của các làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ.
Môn học: Cơ sở văn hóa Việt Nam

Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2016.
1


CÁC PHẦN TÌM HIỂU:
A. Khái quát về làng Việt.
B. Cơ cấu, hình thức và những đặc trưng cơ bản
của làng Việt ở Châu thổ Bắc Bộ.
C. Giới thiệu một làng Việt Bắc Bộ cổ truyền
điển hình.
D. Một số câu hỏi quan trọng.

2


A. KHÁI QUÁT VỀ LÀNG VIỆT
I.

Khái niệm “Làng”



- Làng là một tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, là một đơn vị cộng cư có
một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp,một hình thức tổ chức xã hội
nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc.
- Làng là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông,
với gia đình tông tộc, gia trưởng, đảm bảo sự cân bằng bền vững của xã hội
nông nghiệp ấy.
- Làng là một đơn vị cơ sở và là không gian sinh hoạt văn hóa chính yếu của
người Việt, là một thiết chế phức hợp, vừa chứa những yếu tố khởi nguyên của
công xã, vừa chịu tác động của những thay đổi chế độ xã hội.

II. Cơ cấu chung của làng Việt
- Làng – một hệ thống riêng (kinh tế, xã hội,…) gồm những yếu tố hợp thành;
hệ thống này có những quan hệ nội tại, bên trong (đóng kín), song cũng có
những quan hệ bên ngoài ( mở, hở) : Liên làng và Siêu làng (theo GS. Hà Văn
Tấn)
 Liên làng: mối quan hệ giữa các hệ thống tương đương (giữa làng này
với làng khác).
 Siêu làng: mối quan hệ giữa làng với cộng đồng hay khu vực rộng lớn
hơn (giữa làng với vùng miền khác, xứ khác hay với dân tộc,đất nước).

NHÀ
NƯỚC

GIA ĐÌNH
LÀNG

Sơ đồ 1: Mối quan hệ “Nhà nước- Làng thôn- Gia đình” ở Việt Nam
- Làng được hình thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý: cội nguồn
và cùng chỗ.

- Làng là một cấu trúc động (không có làng bất biến) và có sức sống mãnh liệt.

III. Những đặc trưng cơ bản của làng Việt
 Tính cộng đồng

3


- Là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới
những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.
 Tính tự trị
- Làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc
lập với triều đình phong kiến.
- Mỗi làng là một “ vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng (hương ước)
và “tiểu triều đình” riêng (trong đó hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí
dịch là cơ quan hành pháp,…).
 Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống “Phép vua thua lệ làng”.
 Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ của làng Việt, chúng
tồn tại song song nhau như hai mặt của vấn đề và chúng cũng là nguồn
gốc sản sinh ra hàng loạt ưu điểm và nhược điểm về tính cách của người
Việt Nam. (Bảng 1)
Tính cộng đồng (+)
Tính tự trị (-)
Chức
Liên kết các thành viên trong Xác định sự độc lập của làng
năng
làng
Bản chất Dương tính, hướng ngoại
Âm tính, hướng nội
Biểu

Sân đình, bến nước, cây đa
Lũy tre
tượng
Hệ quả - Tinh thần đoàn kết, tương trợ - Tinh thần độc lập
tốt
- Tinh thần tập thể, hòa đồng
- Tính cần cù
- Nếp sống dân chủ bình đẳng
- Nếp sống tự cấp tự túc
Hệ quả - Sự thủ tiêu vai trò cá nhân
- Óc tư hữu, ích kỷ
xấu
- Thói dựa dẫm, ỷ lại
- Óc bè phái, địa phương
-Thói cào bằng, đố kỵ
- Óc gia trưởng tôn ti
Bảng 1: Tính cộng đồng và tính tự trị của làng Việt
 Tính đặc thù
- Mỗi làng đều có những đặc trưng về tự nhiên và xã hội khác nhau do đó mỗi
làng đều có những tập quán, nếp sống ,tín ngưỡng, tôn giáo, thậm chí giọng
nói và cả cách ứng xử cũng khác nhau.Đó là những nét độc đáo rất riêng của
mỗi làng Việt.

 Giữa ba đặc trưng trên có mối liên hệ hữu cơ, tạo cho làng một vị trí đặc
biệt, góp phần tạo nên những đặc trưng văn hóa làng, văn hóa dân tộc.
 Một số hình ảnh về Làng Việt cổ điển hình
4


 Làng cổ Đường Lâm ( Hà Nội-Bắc Bộ)

 Làng cổ Phước Tích (Thừa Thiên Huế-Trung Bộ)
 Làng cổ Long Tuyền ( Cần Thơ-Nam Bộ)

Hình 1: Làng cổ Đường Lâm ( Hà Nội)

Hình 2: Làng cổ Phước Tích (Thừa Thiên Huế)

5


Hình 3: Làng cổ Long Tuyền ( Cần Thơ)
KẾT LUẬN:
 Làng Việt xuất hiện cuối thời nguyên thuỷ, đầu thời dựng nước, là sản phẩm
của nông nghiệp lúa nước. Thời Bắc thuộc, làng xã là nơi giữ gìn bản sắc
văn hoá Việt Nam .
 Làng Việt là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam, làng của người Việt là
một môi trường văn hóa.Ở đó,mọi thành tố,mọi hiện tượng văn hóa được
sinh thành phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi cá thể.
 Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nước qua tác động của
những mối liên hệ làng và siêu làng.
 Do những đặc thù của tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung, miền Nam tuy
gốc gác cũng là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường
sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội đã thay đổi nhiều nên
không còn những đặc điểm như làng Bắc Bộ.

B. CƠ CẤU,HÌNH THỨC VÀ NHỮNG ĐẶC
TRƯNG CƠ BẢN CỦA LÀNG VIỆT Ở CHÂU
THỔ BẮC BỘ
I. Cơ cấu, hình thức chung của làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ
- Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn mang đầy đủ

những đặc trưng của Làng Việt (như phần A) nhưng nó vẫn có những đặc thù
riêng của mình (khác với làng ở miền Trung và Nam bộ).
- Làng Việt truyền thống ở Bắc Bộ được tổ chức theo cơ cấu “nửa
kín,nửa hở” (từ dùng của GS. Trần Quốc Vượng), là một cơ cấu tổ chức hết
sức linh hoạt và mềm dẻo:
6


 “Nửa kín”: mang tính chất “tự trị” tự quản của l à n g : Về hình thức có lũy
tre làm biểu tượng, có hương ước riêng có lệ làng riêng, hội làng riêng một
ngày, Thành Hoàng làng riêng (mỗi làng thờ riêng một ông Thành Hoàng)
“chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”.

Hình 4: Lũy tre làng
Việt Nam

 “Nửa hở’ là quan hệ liên làng, siêu làng: liên kết chống lũ lụt, chống
ngoại xâm, quan hệ hôn nhân ngoài làng, về kinh tế có sự giao lưu,buôn bán
giữa các làng, các vùng (chợ phiên) .Cổng làng có thể coi là biểu tượng cho
tính chất “nửa hở” (từ dùng của GS. Trần QuốcVượng) hay tính “cộng
đồng” (từ dùng của GS. Trần Ngọc Thêm).

Hình 5: Cổng làng
Việt Nam

II.Những đặc trưng cơ bản của làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ
- Những đặc thù riêng của làng Việt ở châu thổ Bắc bộ được thể hiện ở chế độ
ruộng đất ,chế độ công điền ,các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội, dân cư,
lệ ,luật tục, tín ngưỡng, lễ hội của làng và các biểu tượng đặc trưng:
 Chế độ ruộng đất, chế độ công điền:

+ Mỗi làng có một nét văn hóa riêng , có chế độ phân chia ruộng đất và chế độ
công điền riêng tùy thuộc vào khu vực địa lí của mỗi làng .
 Các loại hình làng
+ Các loại hình làng Việt gồm có làng thuần nông, chủ yếu làng Việt ở đồng
bằng châu thổ sông Hồng đều là làng thuần làm nông nghiệp trồng lúa nước.
+ Ngoài ra có một số làng nghề như làng Chuông (Thanh Oai -Hà Nội) làm
7


nón, làng Vân Chàng (Nam Trực - Nam Định) làm nghề rèn, làng Bát Tràng (Hà
Nội) làm gốm sứ, làng Vạn Phúc (Hà Nội) làm nghề dệt lụa….và một số làng
buôn như làng Phù Lưu (Ninh Hiệp - Bắc Ninh)….là những làng chuyên làm
một nghề, cha truyền con nối hết đời này qua đời khác.

Hình 6: Làng Chuông
(Thanh Oai -Hà Nội)

Hình 7: Làng lụa Vạn Phúc
(Hà Nội )

 Nguyên tắc tổ chức xã hội
+ Làng Việt được tổ chức rất chặt chẽ, không phải theo một mà nhiều cách,
nhiều nguyên tắc khác nhau, tạo nên nhiều loại hình, nhiều cách tập hợp người
khác nhau, khác nhau nhưng lại hoà đồng trong phạm vi làng. Về cơ bản, cơ
cấu làng Việt (cổ truyền và hiện đại) được biểu hiện dưới những hình thức tổ
chức (liên kết, tập hợp người) sau đây:
* Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú) với mô thức phổ biến: Làng phân
thành nhiều xóm, xóm phân thành nhiều ngõ, mỗi ngõ gồm một hay nhiều
nhà… thành những khối dài dọc đường cái, bờ sông, chân đê, những khối
chặt kiểu ô bàn cờ, theo hình Vành khăn từ chân đồi lên lưng chừng đồi và

phân bố lẻ tẻ, tản mát, xen kẽ với ruộng đồng… Mỗi làng, xóm, ngõ có cuộc
sống tương đối riêng.
* Tổ chức làng theo huyết thống (gia đình), dòng họ. Ngoài các gia đình
nhỏ, gia đình hạt nhân, dòng họ có vị trí và vai trò quan trọng trong làng
Việt, là chỗ dựa vật chất, và chủ yếu là tinh thần cho gia đình; có tác dụng
trong định canh và xây dựng làng mới, như là trung tâm của sự cộng cảm
8


trong các gia đình đồng huyết… Có làng gồm nhiều dòng họ, có làng chỉ
một dòng họ và khi ấy làng và dòng họ (gia tộc) đồng nhất với nhau. Điều
đáng lưu ý là mức độ liên kết huyết thống trong phạm vi làng Việt là hết sức
rạch ròi, chi li với những tên gọi cụ thể (cố - cụ - ông - cha - bản thân - con cháu - chắt - chút…)
* Tổ chức làng theo nghề nghiệp, theo sở thích và lòng tự nguyện (Phe-Hội,
Phường nghề…). Mỗi làng có thể có nhiều Phe (một tổ chức tự quản dưới
nhiều hình thức câu lạc bộ): Phe tư văn quan trọng hơn; nhiều Hội: hiếu hỷ,
mua bán, luyện võ, tập chèo, đấu vật… các Phường nghề: mộc, nề, sơn,
thêu, chèo, rối…
* Tổ chức làng theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp, hiện rất
mờ nhạt. Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho
nam giới, phụ nữ không được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay,
được lên đinh, ngôì chiếu giữa làng, được nâng dần địa vị, được lên lão…
Nói chung, giáp gắn chặt với làng.
* Tổ chức làng theo cơ cấu hành chính: Về mặt hành chính, làng còn được
gọi là XÃ (đôi khi một xã cũng có thể gồm vài làng), xóm còn được gọi là
THÔN (đôi khi một thôn cũng có thể gồm vài xóm).
 Dân cư
+ Có hai bộ phận chính là dân chính cư và dân ngụ cư (nội tịch và ngoại tịch)
được phân ra một cách rất rành mạch, nhiều khi cực đoan. Tuy nhiên, có một
điều mở là dân ngụ cư có thể chuyển thành chính cư khi có điền có điền sản và

sống (cư trú) ở làng 3 đời trở lên. Dân cư trong làng được phân thành nhiều
hạng, cơ bản là các hạng: chức sắc (đỗ đạt hoặc có phâm hàm vua ban); chức
dịch (có chức vụ trong bộ máy hành chính); lão, đinh, ty ấu, người già, trai đinh,
trẻ con (trong các giáp),…
 Lệ, luật tục
+ Làng Việt Bắc Bộ có sự tồn tại song hành của các tổ chức quan phương và phi
quan phương giữ vai trò quan trọng để điều hòa chung làm cho các làng Việt
Bắc Bộ dù phức tạp, vẫn là một tế bào xã hội vận hành như một đơn vị thống
nhất là hương ước. Hầu hết các làng Việt Bắc Bộ đều có hương ước. Làng nào
có hương ước ấy, tùy truyền thống của từng làng mà hương ước đề cập đến
những vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, nội dung của hương ước của các làng lại có nội
dung tương đối giống nhau. Vì hương ước không phải là bộ luật chung cho các
làng, nên hình thức thể hiện những vấn đề cần đề cập tới của từng làng là khác
nhau. Những nội dung mà hương ước các làng thường đề cập đến bao gồm:
1. Những trường hợp thưởng công (như thưởng cho người bắt được trộm
cướp)
2. Những trường hợp phạt tội, thường là các tội nhẹ mà pháp lý của Nhà
nước quân chủ chính thức không giải quyết (trộm cắp vặt, ẩu đả thông
thường, bất kính đối với bề trên)
9


3. Những trường hợp đền bù cho người vì quyền lợi chung của cả làng chịu
hy sinh (như bị thương, hay bỏ mình trong khi chống lại quân cướp)
4. Những trường hợp suy tôn người đã bỏ của, bỏ sức để làm việc ích
chung cho cả làng ( như tu bổ chùa làng, xây cầu, đắp cống)
5 . Những trường hợp cấm đoán hoặc nhằm bảo vệ đạo lý (như cấm cờ bạc,
trai gái).

 Và “dù không phải là bộ luật hoàn chỉnh, hương ước với những điều quy

định về một số nét sinh hoạt riêng biệt của làng xã, vẫn đóng vai trò một
cương lĩnh. Có thể còn khá chung chung , nhưng dù sao vẫn đáng được xem
là một cương lĩnh về nếp sống hàng ngày của làng xã, mà mọi cá nhân, mọi tổ
chức, trong làng, trong xã phải tuân thủ”. Các hương ước của từng làng tác
động trực tiếp đến các thành viên của làng. Các thành viên trong làng dù
thuộc tổ chức phi quan phương nào cũng đều có trách nhiệm thực hiện hương
ước. Mỗi thành viên trong làng với trách nhiệm của mình đối với làng, đối
với một tổ chức nào đó mà họ là một thành viên, vì danh dự của làng, của gia
đình và của chính cá nhân mà tuân thủ tự giác, thực hiện những điều đã được
ghi trong hương ước.
 Tín ngưỡng
+ Làng là một đơn vị lãnh thổ khép kín được bao bọc bởi lũy tre
làng,do vậy giữa các làng dường như rất ít có mối quan hệ với nhau về
mặt tín ngưỡng văn hóa. Người xưa từng nói: “trống làng nào làng ấy
đánh,thánh làng nào làng ấy thờ”.
+ Ở Việt Nam, các làng thường thờ thần Thành Hoàng làng mang đặc trưng của
yếu tố dân gian thờ đủ mọi loại thần như thiên thần (Phù Đổng Thiên
Vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh,…) là những nhân vật bất tử trong huyền
thoại dân gian. Các nhân thần (Hưng Đạo Vương, Lý Thường Kiệt,…) họ là
những người có công t r ạ n g t o l ớ n v ớ i đ ấ t n ư ớ c , n h â n d â n , đ ư ợ c
n h â n d â n t ư ở n g nh ớ c ô n g đức mà thờ, họ được xếp vào loại thượng đẳng
thần. Còn các vị thần có c ô n g v ớ i d â n l à n g h ọ t h ư ờ n g l à n h ữ n g
n g ư ờ i đ ỗ đ ạ t , n h ữ n g v ă n v õ quan có tên họ và công trạng của
l à n g h ay n h ữ n g ô n g t ổ s á n g l ậ p r a làng được xếp vào loại trung
đẳng thần. Đôi khi cũng có một số Thành Hoàng được thờ như những
người ăn mày, người chết trôi dạt qua làng, n g ư ờ i c h ế t v à o n h ữ n g gi ờ
t h i ê n g , h o ặ c l à c á c t à t h ầ n , y ê u t h ầ n , t h ầ n rắn, thần rết, thần giết
lợn,…họ là những người không tên tuổi, hoặc là n h ữ n g vị t h ầ n b ản
đ ị a đ ư ợ c x ế p v à o h ạ đ ẳn g t h ầ n . N h ữ n g v ị T h à nh H o à n g l à n g
này có nhiệm vụ là phải che chở, phù trợ cho dân làng

không bị mất mùa, trộm cướp, bệnh dịch….và được thờ ở một nơi trang trọng
nhất của làng là đình làng.
+ Ngoài ra, ở các làng còn có chùa (thờ Phật) và sau này còn có nhà thờ (thờ
chúa Jesu) của những làng có dân theo Đạo giáo. Cũng có nhiều làng cả chùa và
10


nhà thờ đều nằm chung một làng. Đó cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của cả dân
làng .

Hình 9: Tục thờ Thành Hoàng làng
Hình 8: Thành Hoàng làng
 Lễ hội của làng
+ Hằng năm dân làng chọn ra một ngày nào đó làm ngày kỵ làng,
thường là những ngày sinh, ngày mất, ngày t h ă n g q u a n h oặ c n g à y
m à v ị T h à nh H o à n g n à y l à m n h ữ n g v i ệ c g i ú p dân, giúp nước hoặc
giúp làng việc gì đó là ngày kỵ làng. Vào ngày này thường diễn ra những lễ
hội gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ thì cúng lễ thần Thành Hoàng, đôi
khi có cả tế lễ, rước thần…Phần hội là những trò chơi dân gian như đánh đu ,
chọi gà, đua thuyền, chơi cờ người,…Ngày nay còn ít làng giữ được những
phong tục văn hóa đặc sắc đó của người Việt.

Hình 10: Hình thức tế lễ

Hình 11: Hình thức rước thần

11


Hình 12: Lễ hội đánh đu


Hình 13: Lễ hội chơi cờ người

 Các biểu tượng đặc trưng
+ Làng Việt Bắc Bộ thường có “cây đa, bến nước (giếng nước), sân đình”,
làng nào không có dòng sông chảy qua thì thường có một giếng nước ở giữa
làng, đây là những biểu tượng đặc trưng nhất của làng quê đồng bằng Bắc Bộ
Việt Nam. Đình làng là nơi sinh hoạt văn hóa của dân làng. “Do ảnh hưởng
của Trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi người dần dần chỉ
còn là chón lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ tại nơi
bến nước (ở những làng không cósông chảy qua thì có ghiếng nước) – chỗ
hàng ngày chị em gặp nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò”
(GS.Trần Ngọc Thêm). Đình làng cũng là nơi trung tâm chính trị, văn hóa
của làng. Đó là nơi họp làng, nơi xử lý những công việc chung của làng, nơi
diễn ra hội làng, tế lễ, thờ cúng Thành Hoàng làng (vị thần phù trợ cho làng).

Hình 14: Cây đa cổ thụ

12


Hình 15: Giếng làng

Hình 16: Đình làng

KẾT LUẬN:
 L à n g q u ê B ắ c B ộ Vi ệ t N a m m a n g nh ữ n g đ ặ c s ắ c v ă n h ó a
r i ê n g c ủ a n g ư ờ i Việt, với tính chất “nửa kín nửa hở” đó đã làm cho làng
đứng vững được trong bão táp của lịch sử dân tộc. Chính những sự cố
kết rất tự nhiên mang đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước đó

đã làm cho làng Việt Bắc Bộ i n đ ậ m t r o n g t â m t h ứ c nh ữ n g n g ư ờ i
d â n Vi ệ t N a m , kh ô n g t h ể d ứ t b ỏ đ ư ợ c t ì n h q u ê h ư ơ n g th a t h i ế t
m à “ a i đ i x a c ũ n g nh ớ v ề ” c â y đ a , b ế n nước, sân đình, lũy tre
xanh, cổng làng in vết thời gian gắn bó với tuổi thơ mỗi người từng
sinh ra và lớn lên bên trong lũy tre xanh ấy. Những ngôi làng được coi là
truyền thống văn hóa lại là những làng đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy giờ đây chỉ còn sót lại
những dấu vết của một nền văn hóa bản sắc của dân tộc như đình làng, gia
phả, tục thờ cúng…. Nhưng làng Việt Bắc Bộ vẫn luôn là điểm tựa
cho những ai đi xa luôn có ý thức hướng về quê hương nơi chôn rau cắt rốn
của mình.

C. GIỚI THIỆU MỘT LÀNG VIỆT BẮC BỘ CỔ
TRUYỀN ĐIỂN HÌNH
13


 Đối tượng:
- Làng Nôm, xã Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên.

Hình 17: Làng Nôm, xã Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên.
 Vị trí địa lý
- Cách Hà Nội khoảng 30 km về hướng đông,từ Hà Nội, đi theo Quốc lộ 5 chừng
20km, rẽ trái khoảng mươi cây số nữa là đến làng Nôm - ngôi làng cổ thuộc xã
Đại Đồng ,huyện Văn Lâm, Hưng Yên vẫn còn giữ những nét đẹp xưa. Trung tâm
của làng là quần thể kiến trúc đẹp gồm đình, giếng cổ và cây đa cổ thụ, đặc trưng
của làng quê Bắc bộ.
 Khái quát về làng
- Làng Nôm là một làng nhỏ (hiện có diện tích tự nhiên là 43,7ha, hơn 175
gia đình, với trên 600 nhân khẩu).

+ Ông Đỗ Ngọc Vượng, phát thanh viên của làng cho biết: “Làng Nôm
hiện nay có hơn 600 nhân khẩu. Làng có từ những năm đầu Công nguyên,
nhưng phải đến cuối thế kỷ XV, dân cư mới tập trung đông đúc. Trước đây,
người dân trong làng có nghề buôn đồng nát. Bà con ở đây đi mua đồng nát
về bán lại cho các lò đúc đồng ở địa phương và các vùng lân cận. Nhờ chịu
thương, chịu khó, sáng tạo trong làm ăn buôn bán, nên làng Nôm nhờ đó
mà ngày càng hưng thịnh, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát
triển”.
- Làng những nét đặc trưng cơ bản của một làng Việt cổ Bắc Bộ : cây đa ,
giếng nước , sân đình ,...
14


- Làng có một cổng chính được xây dựng bề thế cách đây 200 năm, có 8 trục
vuông, trên vòm cổng đắp một đại tự, với 3 chữ nổi “Đồng Cầu Môn”
( Hình 18)

Hình 18: Cổng chính Làng Nôm
- Cách cổng làng vài trăm mét có một cầu đá, với 9 nhịp đầu rồng bắc qua con
sông Nguyệt Đức, nối đường làng với chợ Cầu Nôm và chùa Đại Đồng (chùa
Nôm) ( Hình 19: Cầu đá của Làng Nôm)

- Giữa làng có một hồ lớn, dài trên 300m, rộng khoảng 80m, ở giữa hồ có một
chiếc cầu đá bắc qua. Quanh hồ là những ngôi nhà mái ngói cổ; đặc biệt có 7 nhà
15


thờ của 7 dòng họ xây liền nhau, kiến trúc theo kiểu dáng cổ vùng đồng bằng Bắc
Bộ ( Hình 20)


 Cơ cấu,hình thức và đặc trưng của làng
- Làng có những nét đặc trưng nổi bật của một làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ.
 Loại hình của làng
- Lúc đầu là làng thuần nông do khi mới hình thành nghề chính của làng Nôm
là làm nông nghiệp, sau này dân trong làng đi mua đồng phế liệu (đồng nát) bán
cho các làng nghề đúc đồng trong vùng, mua đồ đồng gia dụng bán lại cho các
địa phương trong cả nước; và câu nói: “Đồng nát thì về Cầu Nôm” là như vậy.
- Xác định được nghề, tích lũy được vốn, người làng Nôm tỏa đi khắp nơi để
phát triển nghề; bây giờ Làng Nôm là làng nghề với nghề chính là đúc đồng và
buôn bán đồ đồng.

16


Hình 21: Đồ đồng ở làng Nôm

 Nguyên tắc tổ chức xã hội
- Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú) với mô thức phổ biến.
 Lễ hội của làng
- Theo Ông Đỗ Danh Phương Trưởng phòng Văn hoá, Thông tin huyện Văn
Lâm cho biết: “… Các lễ hội truyền thống vẫn được duy trì như: Hội làng vào
ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm tất cả các dòng họ trong làng đều làm
giỗ, trong ngày hội làng con cháu các dòng họ dù ở bất kỳ nơi đâu, xa hay gần,
trong nước hay nước ngoài đều được hội tụ đông đủ. Trong ngày hội làng đàn
ông đến tuổi 55 được khao lão, những người được khao lão phải làm một mâm
cỗ mang ra đình lễ thánh để các ngài chứng giám đã được lên lão và mở tiệc
linh đình khao cả dòng họ. Hội làng thật độc đáo, hiếm có một làng nào có
được một ngày trong năm tưng bừng, hội tụ đông đúc như thế. Lễ Tế xuân 13
tháng giêng, 15 tháng giêng lễ Thượng nguyên, 15 tháng tư lễ Trung nguyên,
17 tháng 7 lễ Hạ nguyên, 21 tháng chạp lễ Tất niên. Lễ hội có múa rối nước,

rước rắn, rước sắc phong và rước thánh….”
- Con gái làng đi lấy chồng phải cung tiến vào đình 20 mâm đồng hoặc xây
dựng vài chục mét đường làng bằng gạch (ngày nay, tập tục này đã được bãi
bỏ).
- Du khách thập phương khi đến làng Nôm xem hội có thể thưởng thức khung
cảnh hữu tình hát Quan họ du thuyền trên ao làng, rồi cùng nhau đi vãn cảnh
Chùa Nôm, thỉnh Phật, Thánh cầu bình an, xin quẻ may mắn đầu năm, ai ai
cũng với tâm thái hồ hởi, phấn chấn, nét mặt rạng ngời như rất tự hào về Quê
hương và Tổ tiên.

17


Hình 22:Đám rước kiệu đi
qua cầu Nôm

Hình 23: Tiết mục múa
rồng điêu luyện tại lễ hội
làng Nôm

 Tín ngưỡng
- Người làng Nôm có đời sống tín ngưỡng, tâm linh phong phú. Người dân làng
Nôm thờ Thành hoàng làng là Tam Giang - người đã có công giúp Hai Bà Trưng
đánh giặc Tây Hán và hiển linh giúp Lê Đại Hành đánh thắng giặc Tống, được
vua phong “Hộ Quốc Phúc Thần”.
- Chùa Nôm thuộc thiền phái Lâm Tế, thờ Phật. Không còn ai nhớ chính xác
ngày tháng ra đời của ngôi chùa. Chỉ biết rằng, trên hai tấm bia lớn còn lưu lại
tại đây, chùa được xây dựng lại vào năm 1680 và trùng tu nhiều lần sau đó.
Chùa trước đây là ngôi đại tự có tiếng của Hưng Yên. Theo truyền thuyết, xưa
kia chùa Nôm được xây giữa rừng thông cổ thụ. Có lẽ vì vậy mà chùa còn có tên

“Linh thông cổ tự”.
+ Điều đặc biệt là tại chùa Nôm hiện có đến hơn 100 pho tượng cổ bằng đất
như Tam thánh, Tam thế, A Di Đà, Phật bà, Bát bộ kim cương, Thập bát la hán...
ước tính có hàng trăm năm tuổi.

18


Hình 23:Quang cảnh
chùa Nôm

Hình 24: Những pho
tượng trong chùa Nôm

 Nét đặc sắc của chợ Nôm
- Qua cầu đá là đến chợ Nôm, chợ Nôm vẫn lưu giữ được những nét văn hoá
truyền thống, ngày nào cũng tấp lập kẻ bán người mua. Những ai chưa mấy khi
đi chợ quê, hẳn sẽ phải cả buổi say sưa ở đây. Chợ bán đủ mọi thứ, từ rau cỏ,
thịt cá, còn có cả đồ rèn, quần áo, vật dụng gia đình. Những ngày phiên, vào các
ngày có số cuối là 1, 4, 6, 9, chợ càng đông vui hơn. Xưa kia, nơi đây là một
trong những trung tâm buôn bán sầm uất nhất vùng Văn Lâm.
 Một số hình ảnh Chợ Nôm (Hình 25,26)

19


KẾT LUẬN:
 Không chỉ dừng lại ở giá trị lịch sử, làng Nôm còn có một không gian độc
đáo nhưng hài hòa, êm đềm mang đậm nét của làng quê Bắc bộ Việt
Nam. Điều ấn tượng và đáng trân trọng nhất ở làng Nôm là nếp sống thôn

quê, mộc mạc và chân thành. Chính vì những giá trị trên mà năm 1994,
làng Nôm đã được nhà nước công nhận là quần thể di tích. Và đến năm
2007, Sở VH,TT&DL Hưng Yên đã đề nghị Bộ VH,TT&DL công nhận
làng Nôm là di sản quốc gia.

D. MỘT SỐ CÂU HỎI QUAN TRỌNG
Câu 1: Tại sao nói làng Việt Bắc Bộ là sản phẩm của nông nghiệp lúa nước ?
Trả lời: Khí hậu nhiệt đới gió mùa tương đối rõ nét cùng một mạng lưới
sông ngòi dày đặc tạo nên một sắc thái riêng trong tập quán canh tác, cư
trú, tâm lý ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của nền văn minh nông
nghiệp lúa nước. Ở Đồng bằng Bắc Bộ, người dân sống quần tụ thành
Làng, một hình thái cộng cư với những thiết chế phù hợp với điều kiện tự
nhiên ở đây. Làng là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thuỷ chuyển
sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công
xã nông thôn ấy tổ chức hành chính và nó trở thành các làng quê. Có thể
nói, làng là một đơn vị quần cư chủ yếu do nền văn minh nông nghiệp lúa
nước và tổ chức xã hội truyền thống Việt Nam hình thành.
Câu 2: Tại sao lấy lũy tre làm biểu tượng của hình thức của làng ?
Trả lời: “Rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành lũy kiên
cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được, đào đường hầm
thì vướng rễ không qua (chính vì vậy mà tiếng Việt gọi rặng tre là lũy,
thành lũy).Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm
phương nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất bao
20


bọc” (GS.Trần Ngọc Thêm). Bởi vậy lũy tre có thể coi là bức tường rào
kiên cố để ngăn cách làng với thế giới bên ngoài. Là nơi lưu trữ những
giá trị văn hóa vật chất, tinh thần của người Việt.
Câu 3: Tại sao nói cổng làng là biểu tượng cho tính chất nửa hở ?

Trả lời: Vì để vào được trong làng thì phải đi qua cổng làng, cổng làng là
cầu nối giữa làng với bên ngoài, một số làng để ra được bên ngoài làng
khôngchỉ bằng cổng làng mà còn bằng thuyền qua sông với những làng
Việt giáp sông. Nhưng cổng làng vẫn là con đường chính, làng không chỉ
có một cổng mà đôi khi còn có nhiều cổng: cổng tiền, cổng hậu hay cổng
chính, cổng phụ để thuận tiện cho việc đi làm đồng .

Tài liệu tham khảo.
 Tr ầ n Q u ố c V ư ợ n g ( c h ủ b i ê n ) , C ơ s ở v ă n h ó a Vi ệ t N a m ,
N X B G i á o dục, 1998, 228tr
 Tr ầ n N g ọ c T h ê m , C ơ s ở v ă n h ó a Vi ệ t N a m , N X B G i á o d ụ c ,
19 9 9 , 334tr.
 Tài liệu tham khảo môn Cơ sở văn hóa Việt Nam, Khoa Lịch sử, Bộ môn
Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội2009,190tr.

*****HẾT*****

21



×