Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.12 KB, 16 trang )

1


MỞ BÀI
Thừa kế là một trong những chế định quan trọng trong hệ thống
pháp luật dân sự Việt Nam, là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi và chế độ
sở hữu của công dân. quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản
của công dân. Về nguyên tắc, các quan hệ nảy sinh trong phạm vi quốc
gia nào thì do pháp luật của quốc gia đó điều chỉnh. Tuy nhiên trong điều
kiện giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển thì nhiều quan hệ về
thừa kế đã vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một
nước, đó là những quan hệ có yếu tố nước ngoài. Quan hệ thừa kế nói
chung và quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói riêng
phát sinh trong đời sống quốc tế ngày càng phát triển đa dạng, phong phú,
phức tạp. Giải quyết tốt các vụ việc này có tầm quan trọng trong việc bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân các nước khác nhau, đồng thời
góp phần vào sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. Để hiểu rõ
hơn về vấn đề này, em xin chọn đề số 3 làm bài tập lớn của mình, đề bài
như sau: “Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015)
trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố
nước ngoài”.
NỘI DUNG
I. Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
1) Các khái niệm chung
Theo pháp Luật Việt Nam, tại điều 624 Bộ luật dân sự 2015 quy
định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản

2


của mình cho người khác sau khi chết”. Theo quy định bày thì di chúc


phải có các yếu tố như: sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là
của bất cứ chủ thể nào khác; mục đihcs của việc lập di chúc là chuyển
tài sản là di sản của mình cho người khác; và chỉ có hiệu lực khi người
đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do
đó di chúc cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế
theo di chúc.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người
đã chết cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước
khi chết và được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế
theo di chúc là chỉ định người thừa kế và phân định tài sản, giao quyền
tài sản cho họ, giao cho học nghĩa vụ tài sản….
Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài là quan hệ thừa
kế có yếu tố nước ngoài, được điều chỉnh theo các nguyên tắc và các
quy phạm của tư pháp quốc tế. Về yếu tố nước ngoài tại khoản 2 Điều
663 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “2. Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a)
Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt
Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ
đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân Việt
Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở
nước ngoài”. Như vậy nếu quan hệ pháp luật về thừa kế theo di chúc

3


có chứa đựng một trong các dấu hiệu trên thì quan hệ pháp luật thừa
kế đó là quan hệ pháp luật thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài.
Mọi vấn đề phát sinh từ quan hệ này sẽ được điều chỉnh, giải quyết

theo các nguyên tắc và quy phạm của tư pháp quốc tế.
Xung đột pháp luật về thừa kế: Khi điều chỉnh các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài, bao giờ cũng xuất hiện một tình huống
mà người ta gọi là xung đột pháp luật. Tức là, một quan hệ pháp luật
có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.
Như vậy, ta có thể hiểu xung đột pháp luật về thừa kế là hiện tượng
hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều
chỉnh một quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế
2) Cơ sở pháp lý trong việc giải quyết xung đột pháp luật thừa
kế có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật thừa kế có yếu tố nước ngoài là một bộ phận của
tư pháp quốc tế. Bộ phận này được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật quốc gia khác nhau, trong các điều ước quốc tế liên
quan mà quốc gia là thành viên, trong các án lệ liên quan của các
nước, trong các nguồn luật khác.
Ở Việt Nam, quan hệ pháp luật về thừa kế có yếu tố nước
ngoài được quy định, trước tiên là Bộ luật dân sự 2015 và trong các
văn bản pháp luật khác liên quan như Luật đất đai, Luật doanh nghiệp,
Luật nhà ở… Việt Nam cũng đã kí kết nhiều điều ước quốc tế song
phương liên quan trực tiếp đến vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài ví
dụ như các Hiệp định tương trợ tư pháp và các hiệp định lãnh sự.

4


II. Quy định của pháp luật Việt nam (BLDS năm 2015) trong
việc giải quyết xung đột pháp luật thừa kế theo di chúc có yếu tố
nước ngoài.
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế xuất hiện rất nhiều vấn đề về
xung đột pháp luật liên quan đến chế định pháp luật thừa kế theo di

chúc. Trong số những vấn đề xung đột đó, vấn đề xung đột pháp luật
về năng lực hành vi lập di chúc, thay đổi, hủy bỏ di chúc và vấn đề
xung đột về hình thức của di chúc luôn được quan tâm chú ý giải
quyết.
Việc xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo
theo di chúc có yếu tố nước ngoài về cơ bản, trước hết phải dựa vào
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài trong đó
quy định điều chỉnh về vấn đề thừa kế. Vấn đề thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước nước ngoài được quy định khá rõ trong các HDTTTP mà
Việt Nam ký kết (như Điều 36 hiệp định với Tiệp khắc, Điều 36 hiệp
định với CuBa, Điều 45 hiệp định với Hungary,…).
Trường hợp không có điều ước quốc tế điều chỉnh, thì vấn đề
giải quyết xung đột pháp luật thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài sẽ căn cứ vào Pháp luật Việt Nam. Việc thừa kế theo di chúc
được quy định trong nhiều văn bản quy phạm khác luật khác nhau, cụ
thể trong Bộ luật dân sự 2015.
1)

Năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc.

Về năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc, tại Khoản
1 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

5


“1. Năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được xác
định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại
thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc”.
Theo đó, về năng lực lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được

xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại
thời điểm lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc. Tức áp dụng hệ thuộc luật
quốc tịch để điều chỉnh vấn đề này. Như vậy, nếu một người là công
dân nước ngoài lập di chúc tại Việt Nam thì năng lực lập, thay đổi,
hủy bỏ di chúc của người đó sẽ được xác định theo pháp luật của nước
nơi người đó mang quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi, hủy bỏ di
chúc. Và ngược lại pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định
năng lực chủ thể khi công dân Việt Nam lập thay đổi, hủy bỏ di chúc,
định đoạt di sản thừa kế, bất kể di sản thừa kế là động sản hay bất
động sản
Sở dĩ quy định như vậy vì hành vi lập di chúc là hành vi đặc
biệt, thiêng liêng đặt trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật gắn bó
nhất với họ, khi đó hệ thống pháp luật của nước họ là công dân là phù
hợp nhất. Quy định này cũng phù hợp với việc xác định pháp luật áp
dụng đối với năng lực hành vi dân sự của các cá nhân 1 và phù hợp với
các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã kí kết.
Ví dụ, A 15 tuổi là công dân X lập di chúc ở Việt Nam. Giữa
Việt Nam và X không có HĐTTTP. Như vậy áp dụng khoản 1 Điều
681 BLDS 2015 thì Năng lực của lập di chúc của A sẽ xác định theo
pháp luật nước X. Theo luật nước X thì không quy định độ tuổi lập di
1

Khoản 1 Điều 674 BLDS 2015.

6


chúc trong khi đó theo pháp luật Việt Nam thì năng lực chủ thể đối với
người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 thì họ chỉ được lập di chúc nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý 2, như vậy trong trường hợp

này thì di chúc của A vẫn được coi là hợp pháp.
Với quy định này, Bộ luật dân sự 2015 đã áp dụng hoàn thiện
hơn nguyên tắc luật quốc tịch trong việc giải quyết xung đột pháp luật
về xác định năng lực lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc trong quan hệ thừa
kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. Quy định này đã khắc phục
được hạn chế của Bộ luật dân sự 2005. Theo khoản 1 Điều 768 BLDS
2005: “Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân
theo pháp luật của nước mà người đó là công dân” quy định này
không cho thấy rõ ràng về thời điểm để xác định pháp luật của nước
mà người lập di chúc mang quốc tịch. Vì thế, nếu thời điểm lập di
chúc và thời điểm người để lại di chúc chết không trùng nhau thì theo
khoản này chúng ta có thể hiểu theo hai hướng đó là pháp luật của
nước mà người để lại di chúc là công dân vào thời điểm người đó lập
di chúc hoặc pháp luật của nước mà người đó là công dân vào thời
điểm người đó chết đều có thể được áp dụng.
Bên cạnh đó còn có một số hạn chế như quy định tại Khoản
1 Điều 681 BLDS 2015 này vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với quy định
về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong quan hệ quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài tại khoản 2 Điều 674 BLDS 2015: “Trường hợp
người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt
Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác
2

khoản 2 Điều 630 BLDS 2015.

7


định theo pháp luật Việt Nam”. Bởi lẽ Năng lực chủ thể trong quan hệ
thừa kế theo di chúc là một phần của năng lực chủ thể trong lĩnh vực

dân sự. Như vậy, năng lực của cá nhân lập, thay đổi và hủy bỏ di chúc
cũng chính là năng lực hành vi dân sự. Hạn chế này tồn tại từ Bộ luật
dận sự 2005 nhưng vẫn chưa được nhà làm luật nhìn nhận lại và sửa
đổi cho phù hợp. Theo ông Nguyễn Công Khanh “Năng lực của cá
nhân lập di chúc cũng là năng lực hành vi dân sự. Điều 762 BLDS
2005 quy định người nước ngoài xác lập giao dịch tại Việt Nam được
coi là có năng lực hành vi dân sự như công dân Việt Nam. Vì vậy,
pháp luật nước ta nên cho phép người nước ngoài có năng lực lập di
chúc như công dân Việt Nam”3.
2)

Hình thức của di chúc
Về hình thức của di chúc, quy định tại khoản 2 Điều 681 Bộ

luật dân sự 2015:
“Hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước
nơi di chúc được lập. Hình thức của di chúc cũng được công nhận tại
Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước sau đây:
Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để công nhận tính hợp
thức của di chúc cũng cần chú ý đến các quy định của phần thứ năm
Bộ luật dân sự 2015 về áp dụng hay không áp dụng pháp luật nước
ngoài
b) Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di
chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết;
3

Nguyễn Công Khanh, “phương hướng xây dựng chế định thừa kế có yếu tố nước ngoài trong phần thứ 7 của
Bộ luật dân sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Hà nội – 2002.

8



c) Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản”.
Hình thức của di chúc là phương tiện thể hiện nội dung của
di chúc cho nên rất đa dạng như văn bản, miệng, ghi âm, ghi hình,..
Pháp luật mỗi nước có quy định khác nhau nên khi lập di chúc cần
phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc.
Khác với nguyên tắc áp dụng luật đối với việc xác định năng
lực lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc, hình thức của di chúc trong trường
hợp có yếu tố nước ngoài ưu tiên áp dụng hệ thuộc luật nơi lập di
chúc. Như vậy, giả sử công dân Việt Nam lập di chúc tại Trung Quốc
thì phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật Trung Quốc về
hình thức, ngược lại nếu công dân Trung Quốc lập di chúc tại Việt
Nam thì hình thức của di chúc cũng cần phải tuân theo các quy định
về hình thức theo pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên hình thức của di chúc cũng được công nhận là hợp
pháp tại Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước:
- Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc
tại thời điểm người lập di chúc chết (hệ thuộc luật nơi cư trú - lex
domicilii);
- Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di
chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết (hệ thuộc luật quốc tịch
– lex patriae/nationalis);
- Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản (hệ
thuộc luật nơi có tài sản – lex reisiae).

9


Ví dụ: A là công dân Việt Nam lập di chúc miệng tại Pháp. Trong

HĐTTTP giữa Việt Nam và Pháp không điều chỉnh quan hệ này, do đó
luật Việt Nam sẽ được áp dụng trong trường hợp này. Theo đó thì hình
thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước nơi di chúc
được lập tức là nước Pháp. Về hình thức của di chúc thì ở Pháp không
công nhận di di chúc miệng. Tuy nhiên theo theo điểm b khoản 2 Điều
681 BLDS 2015 thì di chúc của A sẽ được công nhận là hợp pháp tại
Việt Nam vì nó phù hợp với pháp luật của nước nơi người lập di chúc
có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc.
Quy định này là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ nhiều quốc gia quy
định di chúc có hiệu lực khi được công chứng tại cơ quan có thẩm
quyền, do đó cần phải tuân thủ theo hình thức của quốc gia lập di chúc
thì mới có thể thực hiện thủ tục công chứng tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nước đó. Khi đó, di chúc mới hợp pháp không chỉ về hình
thức, mà còn cả nội dung, tránh trường hợp di chúc không hợp pháp.
Đây là một quy định mền dẻo hơn so với Bộ luật dân sự
2005 khi xem xét tính hợp pháp của hình thức di chúc theo duy nhất
một hệ thuộc là luật nước nơi lập di chúc[1]. Khoản 2 Điều 687 BLDS
năm 2015 đã mở rộng đáng kể các trường hợp mà theo đó di chúc
được coi là hợp pháp về mặt hình thức. Nói cách khác, quy định này
đã mở rộng khả năng di chúc hợp pháp về mặt hình thức, qua đó mở
rộng sự tôn trọng ý chí, ý nguyện của người đã chết trong việc định
đoạt di sản của họ được ghi nhận trong di chúc. Đây là mộ điểm tiến
[1]

Khoản 2 Điều 768 BLDS 2005

10


bộ, nó đã khắc phục được hạn chế của luật dân sự 2005 và góp phần

vào việc việc giải quyết xung đột pháp luật được hiệu quả hơn và bảo
đảm quyền được để lại di sản của công dân.
Quy định này cũng phù hợp với quy định của quốc tế, cụ thể là
công ước La Haye 1961 về xung dột pháp luật liên quan đến hình thức
định đoạt tài sản bằng di chúc.
Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để công nhận
tính hợp thức của di chúc cũng cần chú ý đến các quy định của phần
thứ năm Bộ luật dân sự 2015 về áp dụng hay không áp dụng pháp luật
nước ngoài.
3)

Nội dung của di chúc

Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa ra nguyên tắc xác định
pháp luật áp dụng đối với nội dung di chúc. Tuy nhiên, một trong
những nội dung có thể xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật trong
quan hệ thừa kế theo di chúc chính là về nội dung của di chúc. Ví dụ,
pháp luật của Việt Nam có quy định về trường hợp thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc4, trong khi đó pháp luật nhiều nước không
quy định về vấn đề này. Hoặc một ví dụ khác, pháp luật Việt Nam hiện
hành không quy định về việc các thú vật nuôi có thể được hưởng di
sản thừa kế theo ý chí của người để lại di sản thừa kế trong di chúc
nhưng pháp luật một số nước thừa nhận vấn đề này. Thiết nghĩ, pháp
luật Việt Nam nên bổ sung quy phạm xung đột về xác định pháp luật
áp dụng đối với nội dung của di chúc. Theo quan điểm em, nội dung
di chúc nên được điều chỉnh bởi chính hệ thống pháp luật điều chỉnh
4

Điều 644 BLDS 2015


11


năng lực lập, hủy bỏ, thay đổi di chúc nhưng phải đảm bảo điều kiện
không vi phạm các quy phạm pháp luật bắt buộc trong pháp luật quốc
gia mà người để lại di sản có quốc tịch vào thời điểm lập, hủy bỏ, thay
đổi di chúc.
III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp hoàn thiện
Việc đưa ra các quy phạm pháp luật về quan hệ thừa kế theo
di chúc có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt
trong tình hình hiện nay khi Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ với thế
giới không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả những mối quan hệ
xung quanh đời sống giữa người Việt Nam với bạn bè quốc tế. Do
quốc gia khác nhau dẫn tới chế độ sở hữu khác nhau, cùng với sự ảnh
hưởng của các yếu tố khác như chế độ chính trị – xã hội, kinh tế, văn
hóa, tôn giáo, phong tục tập quán,… nên pháp luật về thừa kế theo di
chúc của các nước có sự khác nhau. Điều đó làm phát sinh yêu cầu
cần có các quy phạm pháp luật giải quyết mối quan hệ thừa kế này khi
nó vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của pháp luật trong nước, sao cho
thật thỏa đáng và đảm bảo được công bằng cho các bên.
Sự không trùng nhau giữa nơi người để lại di sản chết và nơi
có tài sản, hoặc giữa nơi có tài sản và nơi cư trú cuối cùng của người
để lại di sản, là những yếu tố chính làm phát sinh quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngoài. Người hoạt động thực tiễn về pháp luật sẽ gặp phải
tình huống có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng được áp dụng.
Đối với một vụ thừa kế theo di chúc, nếu như cơ quan tư pháp của hai
hay nhiều nước được yêu cầu can thiệp trong việc kiểm tra di chúc,

12



xác định phạm vi quyền của người thực hiện di chúc là người nước
ngoài, v.v., thì chắc chắn sẽ có nhiều hệ thống pháp luật có thể được
áp dụng. Bởi vì không chỉ các yếu tố làm căn cứ xác định thẩm quyền
xét xử có thể khác nhau (nơi có bất động sản, nơi cư trú, của người để
lại di sản,…) mà các yếu tố được sử dụng để xác định luật áp dụng
cũng khác nhau: quốc tịch của người để lại di sản, nơi cư trú của
người để lại di sản, nơi có tài sản. Trong trường hợp cho phép áp dụng
nhiều hệ thống pháp luật đối với cùng một quan hệ thừa kế, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến việc dự kiến và ý nguyện của người để lại di sản
không được tôn trọng và từ đó nảy sinh sự bất bình đẳng.
Em xin đưa ra một số biện pháp hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, xây dựng, thực thi phù hợp chế độ đãi ngộ như công
dân với người nước ngoài tại việt nam. Trong quan hệ thừa kế, người
nước ngoài có quyền thừa kế bình đẳng như công dân Việt Nam.Việc
áp dụng cho người nước ngoài chế độ đãi ngộ như công dân tạo cơ hội
bình đẳng cho họ trong các giao lưu dân sự tại Việt Nam với nhau
hoặc với công dân Việt Nam. Đồng thời hạn chế đc việc các nước có
thể áp dụng sự phân biệt đối xử với công dân Việt Nam khi tham gia
quan hệ dân sự với nhau hoặc với người nước ngoài tại nước đó.
Thứ hai, đơn giản hóa nhằm đảm bảo việc dễ dàng thực hiện
pháp luật.
Chúng ta phải đẩy mạnh việc tạo ra một hành lang pháp lý năng
động, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm ổn định hóa và hỗ trợ,
khuyến khích các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát triển, tạo

13


cơ sở để Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải

quyết các vụ việc về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài phát
sinh. Để đáp ứng yêu cầu này, cần tiến hành rà soát một cách tổng thể
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài, tìm ra những tồn tại, bất cập trong cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Thứ ba, nâng các hiệu quả của việc áp dụng các quy định của
Điều ước quốc tế, Tập quán quốc tế và pháp luật nước ngoài. Trình độ
năng lực áp dụng pháp luật nước ngoài của thẩm phán Tòa án còn
nhiều hạn chế khi xét xử các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.
Do không am hiểu về pháp luât, nhất là về xung đột pháp luật, cũng
như không hiểu được nội dung pháp luật nước ngoài, cho nên thẩm
phán không thể áp dụng pháp luật nước ngoài trong khi xét xử. Điều
này vô hình chung đã làm cho các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến
việc áp dụng pháp luật nước ngoài trở nên hình thức, không được thực
hiện được trong thực tiễn.
Thứ tư, tăng cường ký kết các Điều ước quốc tế, tham gia đàm
phán, trao đổi, thương lượng để ký kết các điều ước song phương và
đa phương.Việc ký kết các điều ước quốc tế tạo điều kiện thuận lợi
trong việc giải quyết tranh chấp dễ dàng và không tốn kém về thời
gian.
KẾT LUẬN
Với những phân tích, bình luận đã trình bày ở trên, có thể thấy
các quy định giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ thừa kế theo

14


di chúc có yếu tố nước ngoài đã ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng
việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực này một cách hiệu
quả hơn và đảm bảo quyền để lại di sản tốt hơn cho các cá nhân trong
quan hệ này. Qua đây cũng thấy rằng, kĩ thuật lập pháp của nước ta đã

có những tiến bộ, nhìn nhận tốt hơn và đáp ứng thực tiễn ngày càng
hội nhập quốc tế sâu rộng của nước ta. Trên đây là phần trình bày,
bình luận của em về việc giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ
thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. Mặc dù đã có sự tìm hiểu
nhưng cũng không tránh khỏi những sai sót, mong quý thầy cô xem
xét, đóng góp để bài viết hoàn thiện hơn, em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ luật dân sự 2015.

2.

Bộ luật dân sự 2005.

3.

Trường đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình Tư pháp quốc

tế”, Nxb Tư pháp 2017
4.

Trường đại học Luật Hà Nội, Bộ môn Tư pháp quốc tế,

Ts.Vũ Thị Phương Lan – Ts.Nguyễn Thái Mai, “Hướng dẫn học Tư
pháp quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia sự thật 2017.
5.

Trường đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình Luật Dân sự Việt


Nam. Tập 1”, Nxb Công an Nhân dân, 2017.
6.

TS. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) “Bình luận khoa học

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2015”, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2016

15


7.

PGS.TS Nguyễn Văn Cừ-PGS.TS Trần Thị Huệ “Bình

luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội 2017.
8.

Nguyễn Công Khanh, “phương hướng xây dựng chế định

thừa kế có yếu tố nước ngoài trong phần thứ 7 của Bộ luật dân sự”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, Hà nội – 2002.
9.

/>
cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-37512/.
10.

/>

option=com_content&view=article&id=240:giai-quyet-xung-dotphap-luat-thua-ke-eu vietnam&catid=55&Itemid=178
11.

/>
etail.aspx?ItemID=112

16



×