Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.44 KB, 44 trang )

Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................
2. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................
5. Bố cục đề tài..................................................................................................
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ
THEO DI CHÚC CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo di chúc và quan hệ thừa kế theo di
chúc có yếu tố nước ngoài...................................................................................1
1.1.1.Khái niệm về quan hệ thứa kế theo di chúc..................................................1
1.1.2. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài..............2
1.2. Nguồn lực điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài......................................................................................................................5
1.2.1. Khái niệm....................................................................................................5
1.2.2.Các loại nguồn..............................................................................................6
1.2.2.1.Điều ước quốc tế..................................................................................6
1.2.2.2. Pháp luật quốc gia...............................................................................6
1.3. Phương pháp điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài......................................................................................................................7
1.3.1.Khái niệm.....................................................................................................7
1.3.2. Các phương pháp điều chỉnh.......................................................................8
1.3.2.1. Phương pháp trực tiếp.........................................................................8
1.3.2.2. Phương pháp gián tiếp.........................................................................8
1.4 Các nguyên tắc chung và nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về
quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài..........................................9
1.4.1. Các nguyên tắc chung về quan hệ thừa kế theo di chúc ở Việt Nam..........9
1.4.1.1 Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người lập di chúc................................9


1.4.1.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền thừa kế và tôn trọng ý chí của người thừa
kế theo di chúc.....................................................................................................10


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
1.4.1.3. Nguyên tắc cá nhân người thừa kế theo di chúc phải còn sống và cơ
quan, tổ chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế..........................................10
1.4.2. Các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ thừa kế theo di
chúc có yếu tố nước ngoài...................................................................................12
1.4.2.1. Nguyên tắc luật quốc tịch..................................................................12
1.4.2.2. Nguyên tắc luật nơi cư trú.................................................................14
1.4.2.3. Nguyên tắc luật nơi lập di chúc.........................................................14
1.4.2.4. Nguyên tắc luật toà án.......................................................................15
1.5. Sự cần thiết và vai trò của pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài...............................................................................................15
1.5.1. Sự cần thiết của pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài....................................................................................................................15
1.5.2. Vai trò của pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài....................................................................................................................16
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ THEO
DI CHÚC CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
2.1. Năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc....................................19
2.1.1. Năng lực lập di chúc..................................................................................20
2.1.2.Thay đổi và huỷ bỏ di chúc........................................................................23
2.1.2.1. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc của cá nhân....................23
2.1.2.2. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng.....24
2.2. Hình thức lập di chúc.................................................................................25
2.2.1. Di chúc bằng văn bản...........................................................................25
2.2.1.1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng............................26
2.2.1.2. Di chúc văn bản có người làm chứng................................................27

2.2.1.3. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực..........................................28
2.2.1.4. Những trường hợp khác di chúc được thể hiện dưới dạng văn bản. .29
2.2.2. Di chúc miệng............................................................................................31
2.3. Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các tranh chấp về quan hệ
thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài......................................................32
2.3.1. Những trường hợp mà Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về thứa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài....................................32
2.3.2. Những trường hợp mà Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về thứa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài...................35


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN VỀ QUAN HỆ
THỪA KẾ THEO DI CHÚC CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
3.1. Thực trạng về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài........37
3.1.1. Hình thức di chúc.................................................................................37
3.1.2. Năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc................................38
3.1.3. Người lập di chúc.................................................................................39
3.1.4. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng......42
3.1.5. Vấn đề hình thức di chúc miệng...........................................................42
3.2. Hướng hoàn thiện về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài....43
3.2.1. Hình thức lập di chúc...........................................................................43
3.2.2.Năng lực lập di chúc..............................................................................44
3.2.3.Người lập di chúc..................................................................................44
3.2.4. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ chồng.....45
3.2.5. Vấn đề về hình thức di chúc miệng......................................................45
KẾT LUẬN........................................................................................................47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................



Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Cùng với sự phát triển của xã hội và xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa ngày một
lớn mạnh tạo điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế. Trong bối cảnh đó, đã làm gia tăng
hết sức mạnh mẽ các giao lưu về dân sự có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải được pháp
luật điều chỉnh, trong đó có một số quan hệ thừa kế vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh
của hệ thống pháp luật một quốc gia, đó là những quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài nói chung và quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói riêng. Khi
vấn đề thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài phát sinh thì đặt ra vấn đề là có thể
có nhiều pháp luật của các nước khác nhau liên quan đến quan hệ đó đều có thể được
áp dụng để điều chỉnh quan hệ này, bởi vậy mà dẫn đến tình trạng xung đột pháp luật
giữa các nước cần được giải quyết.
Xuất phát từ những lý do trên đã tác động cho người viết chọn đề tài: “Pháp luật
Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài” để làm đề tài nghiên
cứu nhằm cung cấp những kiến thức pháp luật về thừa kế cho mọi người, đồng thời
người viết cũng mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào hoàn thiện các chế định và
thừa kế để điều chỉnh kịp thời những vấn đề về thừa kế thực tế phát sinh.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Đối với đề tài “Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố
nước ngoài”, người viết đi vào tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về quan hệ thừa
kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. Đặc biệt người việt đi sâu vào phân tích một số
vấn đề liên quan đến thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành. Qua đó đề cập đến một số thực trạng trong qui định về các
quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay, đồng thời đưa
ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện một số vấn đề về quan hệ thừa kế đó.
3. Mục đích nghiên cứu:
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà

nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong phú, các


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp.
Trong khi đó, về vấn đề này pháp luật của các nước lại có quan điểm, giải pháp rất
khác nhau, điều đó đã tạo ra hiện tượng xung đột pháp luật trong lĩnh vực này. Do đó
việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp để hoàn thiện hơn chế định này trong pháp luật
mỗi quốc gia là điều hết sức cần thiết.
Bởi vậy, nghiên cứu về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài có ý
nghĩa sâu sắc về lý luận và đời sống thực tế. Với ý nghĩa đó và xuất phát từ những nhu
cầu và thực tiễn của pháp luật hiện nay, đề tài này nhằm phân tích rõ các quy định của
pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài, qua đó đánh
giá thực trạng pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện
nay. Đồng thời nêu lên những quan điểm, và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về quan hệ thừa kế ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được hoàn thành dựa trên các phương pháp như: phân tích câu chữ của
luật viết, so sánh, diễn dịch, tổng hợp các vấn đề đồng thời đưa ra các ví dụ cụ thể, thu
thập thông tin dựa trên những qui định của pháp luật, các sách, tạp chí…, để làm sáng
tỏ các vấn đề được đặt ra và giải quyết trong tiểu luận.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài lời nói đầu và kết luận, tiểu luận được chia ra làm 03 chương:
Chương 1: Những lý luận về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài.
Chương 3: Thực trạng và hướng hoàn thiện về quan hệ thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài.



Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ THEO
DI CHÚC CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo di chúc và quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu
tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo di chúc
Theo pháp luật của Việt Nam thì chế định thừa kế hình thành từ rất sớm, thừa kế với ý
nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm móng và xuất hiện ngay trong thời kì sơ khai của xã
hội loài người. Ăng – ghen viết: “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc
chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những
người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị
lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những người cùng
huyết tộc với người mẹ1”.
Trong xã hội cộng xã nguyên thuỷ, dù chỉ là một nền sản xuất đơn giản nhưng cũng
nằm trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mác đã chỉ ra rằng: “Bất cứ một nền sản
xuất nào cũng là việc con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một
hình thái xã hội nhất định và thông qua hình thức đó”. Vì vậy, “Nơi nào, không có một hình
thái sở hữu nào cả thì nơi đó cũng không thể có sản xuất và do đó cũng không có một xã hội
nào cả2”. Và cũng chính vì thế mà sở hữu xuất hiện ngay từ khi có xã hội loài người và với
thừa kế chúng phát triển cùng với xã hội loài người. Ở khía cạnh khác thì quan hệ sở hữu là
một quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu của cải vật chất trong xã hội, sự chiếm
hữu vật chất này thể hiện giữa người này với người khác, giữa tập đoàn người này với tập
đoàn người khác, đó là tiền đề đầu tiên để làm xuất hiện quan hệ thừa kế.
Theo pháp luật của tất cả các nước trên thế giới thì đều thừa nhận quyền thừa kế theo di
chúc. Còn theo pháp luật ở Việt Nam, tại Điều 646 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết”. Từ định nghĩa về thừa kế và di chúc ta có thể hiểu thừa kế theo di chúc như sau:

Thừa kế theo di chúc là sự chuyển dịch tài sản (chuyển dịch di sản thừa kế) của người chết
cho những người khác theo sự định đoạt một cách tự nguyện (bằng di chúc) của người đó khi
còn sống.
1.1.2. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài là thừa kế được nghiên cứu trong phạm vi
Tư pháp quốc tế. Theo pháp luật Việt Nam, yếu tố nước ngoài trong quan hệ thừa kế được xác
định theo quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005: “Quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài lá quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ
quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan
hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài
sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Như vậy, theo định nghĩa này thì quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài gồm có 3 yếu tố sau: Yếu tố thứ nhất về mặt chủ thể: Có ít nhất một
trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài; Yếu tố thứ hai về mặt khach thể: Những căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; và Yếu tố thứ ba về sự kiện
pháp lý: Có tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Như vậy, có thể định nghĩa quan
hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài là: “Quan hệ thừa kế theo di chúc mà trong đó
1

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập II), NXB Công an nhân dân, 1997, tr.237.

2

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập II), NXB Công an nhân dân, 1997, tr.238


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
có ít nhất một trong các bên tham gia vào quan hệ đó là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc quan hệ thừa kế theo di chúc giữa các bên

tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó
(di sản thừa kế) ở nước ngoài”.
Từ định nghĩa trên thì quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài có những đặc
trưng sau đây:
- Về chủ thể
Thứ nhất, cá nhân. Cá nhân thì bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài. Công
dân Việt Nam tức là người có quốc tịch Việt Nam, cụ thể theo Điều 49 – Hiến pháp Việt Nam
năm 1992 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc
tịch Việt Nam”. Người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước nơi má họ đang cư
trú, như vậy có thể nói bất kỳ người nào sống trên lãnh thổ của một nước nhất định mà không
có quốc tịch của nước đó thì được gọi là người nước ngoài3. Người nước ngoài theo pháp luật
Việt Nam được giải thích cụ thể tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15
tháng 11 năm 2006, quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài4. Qua đây nói lên nếu cá nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam định
cư ở nước ngoài một khi có tham gia vào quan hệ thừa kế theo di chúc thì đây là một đặc
trưng để nhận biết rằng có yếu tố nước ngoài, tức đây là một quna hệ thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, pháp nhân. Pháp nhân là một tổ chức được thành lập theo pháp luật của một
nước nhất định, thông thường một tở chức được xem là một pháp nhân khi nó được thành lập
theo một trình tự nhất định và có đầy đủ các điều kiện của một pháp nhân theo pháp luật mỗi
nước. Pháp nhân bao gồm pháp nhân Việt Nam và pháp nhân nước ngoài, pháp nhân Việt
Nam là pháp nhân được thành lập theo Điều 85 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về “thành
lập pháp nhân” và phải đáp ứng đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân theo Điều 84
Bộ luật dân sự năm 20055; pháp nhân nước ngoài là một pháp nhân hoạt động ở một nước
khác nhưng không có quốc tịch ở nước đó thì pháp nhân này được gọi là pháp nhân nước
ngoài6. Pháp nhân nước ngoài theo pháp luật Việt Nam được giải thích cụ thể tại khoản 5
Điều 3 của Nghị định 138/2006/NĐ-CP7.
3


Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 56.

4

Khoản 2 Điều 3 Nghị định 138/2006 NĐ-CP quy định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt

Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch”.
5

Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”
Điều 85 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
6

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 65.

7

Khoản 5 Điều 3 Nghị định 138/2006 NĐ-CP quy định: “Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập

theo pháp luật nước ngoài”.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài

Thứ ba, Quốc gia là chủ thể đặc biệt trong quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài. Quốc gia là một thực thể được hình thành bởi các yếu tố tự nhiên và xã hội, tức gốm có
các thành phần như lãnh thổ, dân cư, chính phủ và chủ quyền quốc gia đã cấu thành một quốc
gia. Quốc gia khác với các chủ thể khác trong tư pháp quốc tế, biểu hiện là quốc gia được xem
là một chủ thể đặc biệt trong tư pháp quốc tế. Tính chất đặc biệt này được thể hiện ở chỗ quốc
gia luôn luôn có chủ quyền, chủ quyền là một thuộc tính chính trị và pháp lý không thể tách
rời khỏi một quốc gia độc lập. Cụ thể là khi quốc gia tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc
tế thì được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, tức khi quốc gia tham gia vào quan hệ thừa kế theo
di chúc có yếu tố nước ngoài thì cũng được hưởng quyền miễn trừ về tư pháp tuyệt đối.
Quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối này được thể hiện trước hết là về quyền miễn trừ xét xử, nội
dung của quyền này chủ yếu nói lên một quốc gia này sẽ không bị xét xử bởi Toà án của quốc
gia khác nếu chưa được sự đồng ý của quốc gia này; quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của
quốc gia còn thể hiện ở chỗ: Khi quốc gia đã đồng ý cho Toà án nước ngoài xét xử vụ tranh
chấp về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài mà quốc gia là bên bị đơn thì Toà án được
quyền xét xử vụ tranh chấp này, nhưng Toà án này bị hạn chế là không được quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế sơ bộ đối với đơn kiện hoặc bảo đảm thi hành phán quyết của Toà
án. Toà án nước ngoài chỉ được quyền cưỡng chế khi được quốc gia đó cho phép. Ngoài ra thì
quốc gia còn có quyền đứng tên trong vụ tranh chấp về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài với cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài với tư cách là bên nguyên đơn. Trong trường
hợp này, Toà án nước ngoài được quyền giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, bị đơn là cá
nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài chỉ được phép phản kiện khi được sự đồng ý của quốc gia
là bên nguyên đơn.
- Về mặt khách thể
Khách thể là một trong các yếu tố cơ bản để xác định một quan hệ thừa kế theo di chúc
có yếu tố nước ngoài hay không có yếu tố nước ngoài. Dựa theo định nghĩa quan hệ thừa kế
theo di chúc có yếu tố nước ngoài, thì khách thể của quan hệ này lá tài sản thừa kế (di sản)
theo di chúc đang tồn tại ở nước ngoài.
- Về sự kiện pháp lý
Tương tự như chủ thể và khách thể, thì sự kiện pháp lý cũng là một trong ba yếu tố đễ
nhận biết một quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. Sự kiện pháp lý trong định

nghĩa thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài là sự kiện pháp lý có căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ thừa kế theo di chúc theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài.
Và sự kiện pháp lý này phải phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài.
1.2. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
1.2.1. Khái niệm
Nguồn luật được hiểu là phương thức tạo ra quy tắc pháp lý, đồng thời là hình thành
chứa đựng quy tắc đó. Quy tắc được tạo ra, muốn được gọi là luật, phải mang đầy đủ tính chất
của chuẩn mực ứng xử được người nắm quyền luật công thừa nhận và bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh của bộ máy công lực8. Còn nguồn của tư pháp quốc tế, về mặt lý luận chung
nguồn là nơi xuất phát, là nơi chứa đựng, cụ thể nguồn của tư pháp quốc tế là hình thức chứa
đựng các quy phạm và nguyên tắc được áp dụng để điều chỉnh đối với các quan hệ thuộc đối
tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế9. Dựa vào nguồn của Tư pháp quốc tế ta có thể định
nghĩa nguồn luật điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ thừa
8
9

Luật gia Nguyễn Ngọc Điện, Bài giảng Các nguồn của luật, 2008, trang 2.
Diễn đàn sinh viên luật: Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế,

/>

Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói riêng, vì quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là
một bộ phận thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Vì vậy, nguồn luật điều chỉnh
quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài là các hình thức chứa đựng các quy phạm
và nguyên tắc được áp dụng để điều chỉnh đối với các quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố
nước ngoài.
1.2.2. Các loại nguồn luật
Do là một bộ phận của tư pháp quốc tế, nên nguồn quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu
tố nước ngoài hạn hẹp hơn so với nguồn của tư pháp quốc tế, chủ yếu gồm có hai loại nguồn

sau: Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.
1.2.2.1. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế thể hiện sự thoả thuận của các chủ thể pháp
luật quốc tế (trước hết là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm quy định, thay
đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các bên ký kết trong quan hệ quốc tế, phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế10.
1.2.2.2. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia nhất định, bao gồm
tất cả các hình thức nguồn chứa đựng bên trong hệ thống: văn bản, tập quán và án lệ. Pháp
luật quốc gia được coi là loại nguồn khá phổ biến của tư pháp quốc tế so với các loại nguồn
khác nói chung và cũng lá nguồn luật điều chỉnh cơ bản của quan hệ thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài nói riêng và được quy định rõ ràng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Theo
pháp luật Việt Nam, tại khoản 1 Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định: “Các quy
định của pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan
hệ dân sự có yếu nước ngoài, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Ở Việt Nam các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài không
nằm ở một văn bản mà nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Cụ thể như
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật dân sự năm
2005 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, …. Trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã
dành một số điều để quy định các nguyên tắc để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài, cụ thể các nguyên tắc đó là: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 75),
Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam,
được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt
Nam (Điều 81).
1.3. Phương pháp điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
1.3.1. Khái niệm
Phương pháp điều chỉnh là cách thức ngành luật tác động lên các đối tượng thuộc phạm
vi điều chỉnh nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Mỗi ngành luật có phương pháp điều
chỉnh đặc thù khác nhau. Ví dụ: ngành luật dân sự: thoả thuận; ngành luật hành chính: mệnh

lệnh; ngành luật hình sự: quyền uy phục tùng, …11.
Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu
tố nước ngoài nói riêng đều là một bộ phận của tư pháp quốc tế nên ta có thể dựa vào các
phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế mà định nghĩa phương pháp điều chỉnh của quan
10

Thông tin hướng dẫn nghiệp vụ: Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia

nhập có phải căn cứ pháp lý không ?, />11

Diễn đàn sinh viên luật: Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế,

/>

Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, phương pháp điều chỉnh của tư pháp
quốc tế là tổng hợp các biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các quan
hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài (gọi là quan hệ tư pháp quốc tế) làm cho các
quan hệ này phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị12. Tương tự, phương pháp điều
chỉnh của quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài là tổng hợp các biện pháp, cách
thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài làm cho quan hệ này phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị.
1.3.2. Các phương pháp điều chỉnh
Các phương pháp điều chỉnh là các biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác
động lên các quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài được biểu hiện ở hai phương
pháp cụ thể là: Phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
1.3.2.1. Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp thực chất)
Đây là phương pháp dùng các quy phạm pháp luật thực chất nhằm giải quyết nội dung
của các quan hệ pháp luật (quyền và nghĩa vụ của các bên) theo một hệ thống pháp luật nhất
định13. Hay nhằm tác động trực tiếp lên quan hệ tư pháp quốc tế nói chung, quan hệ thừa kế

theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói riêng. Cụ thể, phương pháp này quy định một cách cụ
thể cách thức hành xử của các chủ thể liên quan (trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ
ràng giữa các bên chủ thể), được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực
tiếp giải quyết các quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài.
Các quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế người ta gọi
là các quy phạm thực chất thống nhất, còn các quy phạm thực chất xây dựng trong các văn
bản pháp quy của mỗi nước gọi là quy phạm thực chất trong nước14. Các quy phạm thực chất
thống nhất tồn tại dưới dạng các tập quán quốc tế như: FOB (free on board), CIP (Cost
Inssurance freight), CAF (Cost and freight)15.
1.3.2.2. Phương pháp gián tiếp (còn gọi là phương pháp xung đột)
Đây là phương pháp dùng các quy phạm xung đột để giải quyết vấn đề. Các uy phạm
xung đột không trực tiếp giải quyết cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ
nhất định mà nó chỉ làm động tác dẫn chiếu (chọn luật) đến một hệ thống pháp luật của một
nước nào đó nhằm để giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vị của các bên16. Qua trên cho thấy
quy phạm xung đột dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật mà các quy phạm thực chất giải
quyết quan hệ một cách dứt điểm. Điều này chứng minh rằng giữa quy phạm thực chất và quy
phạm xung đột có mối quan hệ mật thiết với nhau, cùng nhau phối hợp sẽ mang lại hiệu quả
cao trong thực tế.
- Quy phạm xung đột một bên (hay còn gọi là quy phạm xung đột một chiều): là quy
phạm chỉ quy định những trường hợp phải áp dụng pháp luật của nước đã ban hành ra quy
phạm này17. Thông thường, đối với quy phạm loại này ở Việt Nam, pháp luật được quy định
là pháp luật Việt Nam.

12

Luật học: Nhận thức chung về Tư pháp quốc tế, .

13

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 3.


14

Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Tư pháp, 2004, tr.34.

15

Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1997, tr.40.

16

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 3.

17

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 19.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
- Quy phạm xung đột hai bên (hay còn gọi là quy phạm xung đột hai chiều): quy phạm
không quy định phải áp dụng pháp luật của nước đã ban hành ra quy phạm này (hoặc tham gia
xây dựng quy phạm này) hay của nước khác một cách cụ thể, mà chỉ vạch ra nguyên tắc
chung xác định pháp luật nước nào sẽ phải được áp dụng. Như vậy có nghĩa là quy phạm
xung đột quy định không những áp dụng pháp luật của nước mình, mà cả những trường hợp
áp dụng pháp luật của các nước khác18.
1.4. Các nguyên tắc chung và nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ thừa
kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
1.4.1. Các nguyên tắc chung về quan hệ thừa kế theo di chúc ở Việt Nam
Nguyên tắc pháp luật thừa kế theo di chúc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật để điều

chỉnh các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế theo di chúc nói riêng trong các văn
bản pháp luật sau này. Thông qua đó góp phần thể hiện rõ bản chất và những đặc trưng pháp
luật về thừa kế theo di chúc ở nước ta. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế theo di chúc ở
Việt Nam có thể kể đến các nguyên tắc như sau:
1.4.1.1. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người lập di chúc
Nguyên tắc này thể hiện quyền tự do lập di chúc của cá nhân, được quy định tại Điều
631 Bộ luật dân sự năm 2005: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình;
để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc
theo pháp luật”.
Mặc dù ý chí của người có tài sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng nhưng quyền định
đoạt của người có di sản không phải là tuyệt đối. Trong một số trường hợp, pháp luật có quy
định quyền của những người thừa kế có liên quan tới người lập di chúc, đó là quyền của
những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cụ thể tại Điều 669 Bộ luật
dân sự năm 200519.
1.4.1.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền thừa kế và tôn trọng ý chí của người thừa kế theo di
chúc
Nguyên tắc này thể hiện pháp luật đảm bảo quyền thừa kế của người thừa kế theo di
chúc, dù họ là một người khác không có một trong ba mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống
hay quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản khi còn sống, tức là người này có thể không
thuộc hàng thừa kế theo pháp luật (trừ trường hợp người này không có quyền hưởng di sản).
Và người thừa kế này có thể là cá nhân (phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế), cơ quan
18

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 19.

19

Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo

pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di
sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều
643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
hay tổ chức (cơ quan và tổ chức thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế) nhưng pháp
luật vẫn đảm bảo quyền thừa kế của họ theo di chúc nếu di chúc này hợp pháp.
1.4.1.3. Nguyên tắc cá nhân người thừa kế theo di chúc phải còn sống và cơ quan, tổ
chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
Quan hệ thừa kế hình thành với những đặc thù riêng của nó. Đặc thù đó được ghi nhận
ngay trong các quy định của pháp luật như là một nguyên tắc. Nguyên tắc này đã được quy
định tại Điều 11 Sắc lệnh số 97-SL: “Trong lúc sinh thời, người chồng goá hay người vợ goá,
các con đã thành niên quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã
thanh toán tài sản chung”20.
Người thừa kế theo di chúc căn cứ theo quy định tại Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và
còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Bởi vì, theo quy định của pháp luật tại khoản 3 Điều 14 Bộ
luật dân sự năm 2005 thì: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra
và chấm dứt khi người đó chết”. Pháp luật còn quy định bảo vệ quyền thừa kế của người đã
hình thành thai nhưng chưa ra đời cũng là người thừa kế theo di chúc21. Vì người có tài sản có
quyền định đoạt tài sản của mình cho người đã thành chưa ra đời được hưởng di sản và bào
thai ra đời mà còn sống thì được hưởng thừa kế theo di chúc và pháp luật còn quy định trong
trường hợp đứa trẻ sinh ra được 24 giờ trở lên rồi sau đó chết thì đứa trẻ đó vẫn là người thừa
kế. Nhưng nếu bào thai được sinh ra mà chết ngay thì không được hưởng di sản22.

Nguyên tắc này đã loại trừ những người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng đều
chết (đối với cá nhân), chấm dứt hoạt động (đối với cơ quan, tổ chức) trong cùng một thời
điểm hoặc được coi là chết, chấm dứt hoạt động trong cùng một thời điểm do không thể xác
định được người nào chết trước đối với cá nhân hay sự chấm dứt hoạt động của cơ quan, tổ
chức thì cái nào xảy ra trước thì họ không được thừa kế di sản của nhau23. Người thừa kế theo
di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 không thể nhường quyền hưởng di sản
cho người thừa kế khác, như đã từng được quy định tại khoản 1 Điều Pháp lệnh thừa kế24.
20

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 12.

21

Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm

mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế”.
22

Điều 23 Nghị định 158/2005 NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định: “Trẻ em sinh ra sống được từ 24

giờ trở lên rồi mới chết cũng phải đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử. Nếu cha, mẹ không đi khai sinh và khai
tử, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch tự xác định nội dung để ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử. Trong
cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử phải ghi rõ "Trẻ chết sơ sinh"”.
23

Điều 641 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của

nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết

trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người
do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật
này”.
24

Khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định: “Người thừa kế có thể khước từ quyền hưởng di sản,

trừ trường hợp việc khước từ đó nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của bản thân về tài sản. Người thừa kế
có thể nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác”.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
1.4.2. Các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài
Trong tư pháp quốc tế, khi chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài, chúng ta sẽ chọn hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần giải
quyết.
1.4.2.1. Nguyên tắc luật quốc tịch
Về nguyên tắc, mỗi cá nhân đều có mối quan hệ pháp lý mật thiết với một nhà nước, sẽ
được hưởng những quyền và sự bảo hộ của quốc gia, cũng như phải chịu những nghĩa vụ
pháp lý mà quốc gia quy định. Cụ thể theo Điều 1 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy
định: “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với
Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với
công dân Việt Nam”. Tương tự tại khoản 2 Điều 5 Luật này cũng quy định: “Công dân Việt
Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và
phải làm tròn các nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp
luật”. Nguyên tắc luật quốc tịch là luật của nước mà đương sự là công dân. Nguyên tắc này
được áp dụng dựa vào dấu hiệu quốc tịch, tức cá nhân mang quốc tịch của quốc gia nào thì sẽ
chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật quốc gia đó. Nguyên tắc luật quốc tịch là nguyên

tắc được áp dụng phổ biến trong quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. Theo
nguyên tắc này, khi trong quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài xảy ra sự xung
đột pháp luật trong hướng giải quyết (tức nội dung xung đột ở đây là về năng lực lập di chúc,
thay đổi và huỷ bỏ di chúc) giữa pháp luật của nhà nước có liên quan thì pháp luật được áp
dụng là pháp luật của người lập di chúc là công dân. Nguyên tắc luật quốc tịch này được thừa
nhận ở một số nước sau: An-ba-ni (trừ trường hợp khi di sản là bất động sản ở An-ba-ni), Angiê-ri, Đức (nhưng luật Đức có thể được chọn để áp dụng khi di sản là bất động sản ở Đức),
Andora, Áo, Bun-ga-ri, Cuba, Ai Cập, Tây ban nha, Phần Lan, Gha-na, Hung-ga-ri, In-đô-nêxi-a, I-ran, Ý, Nhật, Gioóc-đa-ni, Li-băng, Ma-li, Ma-rốc, Mô-ri-ta-ni, Ni-giê-ri-a, Phi-líp-pin,
Ba Lan, Bồ Đào Nha, Xê-nê-gan, Xlo-va-ki, Thuỷ Điển, Xi-ri, Tiệp Khắc, Thổ Nhĩ Kỳ (trừ
trường hợp d sản là bất động sản ở Thổ Nhĩ Kỳ), Va-ti-căng, Nam Tư (cũ), …25.
Pháp luật Việt Nam cũng áp dụng nguyên tắc này. Cụ thể, quy định việc áp dụng
nguyên tắc luật quốc tịch này như sau, tại khoản 1 Điều 768 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định: “Năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà
người lập di chúc là công dân”. Đây là quy phạm được áp dụng đối với việc thiết lập các giao
dịch như hợp đồng. Việc xác định quốc tịch của người lập di chúc được tiến hành như trong
lĩnh vực hợp đồng. Mặc dù điều luật không nêu rõ, thiết nghĩa nếu có sự thay đổi quốc tịch thì
quốc tịch được xác định vào thời điểm lập, thay đổi hay huỷ bỏ di chúc26.
Theo ông Thái Công Khanh: “Năng lực của cá nhân lập di chúc cũng là năng lực hành
vi dân sự. Theo Điều 762 Bộ luật dân sự, người nước ngoài xác lập giao dịch dân sự tại Việt
Nam được coi là có năng lực hành vi dân sự như công dân Việt Nam. Vì vậy, pháp luật nước
ta cũng nên cho phép người nước ngoài có năng lực lập di chúc như công dân Việt Nam”27.
1.4.2.2. Nguyên tắc luật nơi cư trú
25

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong

Tư pháp quốc tế, />26

TS. Đỗ Văn Đại – PGS.TS. Mai Hồng Quỳ, Sách chuyên khảo Tư pháp quốc tế Việt Nam, NXB Chính trị quốc

gia Hà Nội, 2010, trang 624.

27

Thái Công Khanh, Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế, tạp chí Toà án nhân dân tháng

10/2006 (số 20), trang 2 và 3.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Bên cạnh nguyên tắc luật quốc tịch thì nguyên tắc luật nơi cư trú cũng được áp dụng để
giải quyết các vấn đề quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài (cụ thể là giải quyết
vấn đề về năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc). Theo nguyên tắc luật nơi cư trú
thì sẽ áp dụng pháp luật của nhà nước mà đương sự cư trú. Cụ thể, nguyên tắc này được áp
dụng trong trường hợp đương sự không có quốc tịch hoặc có hai hay nhiều quốc tịch. Tức khi
các vấn đề về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài phát sinh mà nguyên tắc luật
quốc tịch không thể xác định được hệ thống pháp luật nào được áp dụng để giải quyết vấn đề
này thì ta sẽ áp dụng nguyên tắc luật nơi cư trú để xác định pháp luật nào được áp dụng để
giải quyết quan hệ đó (giải quyết các vấn đề về năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di
chúc). thì cơ bản áp dụng hệ thuộc luật nơi cư trú28.
Như vậy, theo quy định này thì pháp luật áp dụng để xác định năng lực pháp luật dân sự
của người không quốc tịch lập di chúc là pháp luật của nước nơi người đó cư trú, còn nếu
người đó không có nơi cư trú thì pháp luật của Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định. Còn
đối với người có hai hay nhiều quốc tịch thì pháp luật được áp dụng là pháp luật của nước mà
người đó mang quốc tịch và cư trú vời thời điểm phát sinh quan hệ dân sự, trong trường hợp
người đó không cư trú tại một trong các nước mà người đó có quốc tịch thì pháp luật của
nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân sẽ
được áp dụng để xác định năng lực pháp luật dân sự của người có hai hay nhiều quốc tịch lập
di chúc.
1.4.2.3. Nguyên tắc luật nơi lập di chúc
Theo nguyên tắc này có nghĩa là di chúc được lập ở đâu thì luật của nước đó sẽ được áp
dụng để điều chỉnh. Đồng thời cho thấy nguyên tắc luật nơi lập di chúc này được áp dụng dựa

vào dấu hiệu là nơi lập di chúc (tức hành vi lập di chúc này xảy ra ở đâu) thì pháp luật của
nước đó sẽ được áp dụng. Như vậy, nguyên tắc pháp luật luật nơi lập di chúc chỉ được áp
dụng trong trường hợp xác định được nơi lập di chúc của người để lại di sản.
1.4.2.4. Nguyên tắc luật toà án
Theo nguyên tắc này, để được áp dụng phải dựa vào nơi có Toà án và cơ quan có thẩm
quyền giải quyết vụ việc. Đồng thời theo nguyên tắc cơ bản của tố tụng, thì Toà án quốc gia
nào xét xử thì sẽ áp dụng pháp luật tố tụng (thông thường luật Toà án được áp dụng để giải
quyết các vấn đề tố tụng, tức về hình thức) của quốc gia đó để giải quyết. Nguyên tắc luật Toà
án được áp dụng rất phổ biến trong quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài như là
nguyên tắc phụ, thay thế. Khi các nguyên tắc khác để xác định hệ thống pháp luật cho quan
hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài không áp dụng được thì nguyên tắc luật Toà án
sẽ được áp dụng.
Toà án cũng như các bên trong tranh chấp phải thuê chuyên gia về luật nước ngoài, đây
là một việc khó và tốn kém. Chính vì hai lý do căn bản trên mà các nước sử dụng tiêu chí
chọn luật khác nhau để làm sao pháp luật của Toà án có nhiều cơ hội áp dụng hơn pháp luật
nước ngoài29.
1.5. Sự cần thiết và vai trò của pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài
1.5.1. Sự cần thiết của pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Cùng với sự phát triển của xã hội và xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá ngày một lớn
mạnh đòi hỏi sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực và ở các cấp
độ khác nhau là rất cần thiết. Sự hợp tác này làm phát sinh ngày một nhiều các vấn đề dân sự,
28

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 3.

29

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong


Tư pháp quốc tế, />

Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
hình sự, hành chính, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Bên
cạnh đó, trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay, số lượng đội ngũ chuyên gia, cán bộ, nhân viên
của các công ty, chi nhánh, văn phòng đại diện nước ngoài vào Việt Nam thực hiện các
chương trình, dự án đầu tư, kinh doanh sản xuất, làm ăn với các đối tác Việt Nam ngày càng
tăng lên. Số lượng công dân Việt Nam được gửi đi lao động hợp tác ở nước ngoài cũng tăng
lên đáng kể, trong đó phải kể đến số lao động được gửi đi Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Malayxia và một số nước khác. Cùng với đó, số lượng khách du lịch nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh Việt Nam càng ngày càng nhiều30.
Trước bối cảnh đó, đã làm gia tăng hết sức mạnh mẽ các giao lưu về dân sự có yếu tố
nước ngoài đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh. Trong đó có quan hệ thừa kế nói chung và
quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói riêng. Khi vấn đề thừa kế theo di chúc
có yếu tố nước ngoài phát sinh thì đặt ra vấn đề là có thể nhiều pháp luật của các nước khác
nhau liên quan đến quan hệ đó đều có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này, bởi vậy
mà dẫn đến tình trạng xung đột pháp luật giữa các nước31.
Ở Việt Nam, tuy quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài đã được quy định
cụ thể ở phần thứ bảy về “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” trong Bộ luật dân sự năm
2005 của Việt Nam và ở Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2006, quy định
chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
1.5.2. Vai trò của pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, hội nhập quốc tế, ở nước ta hiện nay hệ thống pháp luật về quan hệ dân sự có yêu tố
nước ngoài nói chung và pháp luật về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói
riêng, ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn đối với đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị của đất
nước.
Xuất phát từ nguyên tắc hiến định trên Bộ luật dân sự năm 1995, 2005 đảm bảo cho
“Chủ sở hữu có quyền bán, tặng, cho để thừa kế tài sản”32, “công dân có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất”. Đặc biệt Bộ luật

dân sự đã còn đảm bảo cho mọi công dân đều có quyền “lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình” và có quyền “hưởng di sản theo di chúc”33, thậm chí là quyền là chối nhận di sản thừa
kế34.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời
sơ khai của xã hội loài người35. Cũng chính từ thời sơ khai đó, sở hữu và thừa kế đã xuất hiện
như một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh tế, giữa chúng có mối
liên quan qua lại ràng buộc với nhau.
30

/>
to-nuoc-ngoai.html.
31

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Bài giảng Tư pháp quốc tế, 2002, trang 15: “Xung đột pháp luật là hiện

tượng pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật”.
32

Điều 197 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa

kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.
33

Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để

lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
34

Xem Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005.


35

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập II), NXB Công an nhân dân, 1997, tr.237.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Mặt khác, Nhà nước khuyến khích công dân bằng sức lao động của mình tạo ra nhiều
của cải cho xã hội, làm giàu cho gia đình, làm cho đất nước văn minh và phồn vinh36.

36

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập II), NXB Công an nhân dân, 1997, tr.240.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài

CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ THEO
DI CHÚC CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Qua những gì đã trình bày cũng như phân tích ở trên, đã cho chúng ta thấy trong
việc giải quyết quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài thì theo pháp luật
Việt Nam chúng ta áp dụng hai nguyên tắc cơ bản và chủ yếu nhất để giải quyết quan
hệ đó là nguyên tắc luật quốc tịch và nguyên tắc pháp luật nơi lập di chúc. Đối với
nguyên tắc luật quốc tịch thì nguyên tắc này giúp chúng ta giải quyết xung đột pháp
luật trong việc xác định được năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc phải


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
tuân theo pháp luật nước nào. Theo nguyên tắc này thì năng lực lập di chúc, thay đổi

và huỷ bỏ di chúc thì phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công
dân. Tức nếu người lập di chúc có quốc tịch nước ngoài thì phải dựa vào pháp luật của
nước ngoài để giải quyết, còn nếu người lập di chúc mang quốc tịch Việt Nam thì phải
dực theo pháp luật Việt Nam để giải quyết.
2.1. Năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc
Tại điều 768 khoản 1 BLDS 2005 “ Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di
chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân, để giải
quyết xung đột pháp luật về năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc, Việt
Nam áp dụng pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân.
Pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định năng lực chủ thể khi công dân
Việt Nam lập, định đoạt tài sản thừa kế, bất kể di sản thừa kế là động sản hay bất động
sản.
Trong trường hợp một cá nhân không mang quốc tịch hoặc người nước ngoài có
hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài thì việc xác định pháp luật áp dụng về thừa kế theo
di chúc phải tuân theo Điều 760 Bộ luật dân sự năm 2005 37. Theo đó, trong trường hợp
pháp luật Việt Nam dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật của nước mà người nước ngoài là
công dân thì pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch là pháp luật của nước
nơi mà người đó cư trú, còn nếu người này không có nơi cư trú thì pháp luật áp dụng là
pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 38. các nước mà người đó có quốc tịch
thi áp dụng pháp luật của nước mà người này có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất
về quyền và nghĩa vụ công dân39.
2.1.1. Năng lực lập di chúc
Một cá nhân khi còn sống có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho
bất kì ai. Người lập di chúc bao giờ cũng là cá nhân, không thể là tổ chức. Pháp luật
37

Khoản 1 Điều 13 Nghị định 138/2006 NĐ-CP quy định: “Năng lực lập, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di

chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch. Trong trường hợp người lập di
chúc không có quốc tịch hoặc có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài thì việc xác định pháp luật áp dụng về thừa

kế theo di chúc tuân theo quy định tại Điều 760 của Bộ luật dân sự và Nghị định này”.
38

Xem Khoản 1 Điều 760 Bộ luật dân sự năm 2005.

39

Xem Khoản 2 Điều 760 Bộ luật dân sự năm 2005.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
không quy định cá nhân có thể lập bao nhiêu bản di chúc. Vì di chúc chỉ phát sinh hiệu
lực pháp luật kể từ khi người lập di chúc chết vè nếu một người để lại nhiều bản di
chúc thì bản di chúc cuối cùng có hiệu lực thi hành40.
Theo quy định của pháp luật thừa kế của nước ta thì người đã thành niên có
quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác
mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình 41. Như vậy, theo quy định
này của pháp luật thì người lập di chúc không phân biệt là nam hay nữ, thành phần, tôn
giáo, … chỉ cần cá nhân đủ từ 18 tuổi trở lên 42, không tâm thần hoặc mắc bệnh khác
không thể làm chủ hành vi của mình có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình cho người thừa kế.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005 thì
“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”. Như vậy, người tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ
15 tuổi cũng có thể được lập di chúc với điều kiện phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc
người giám hộ vào việc lập di chúc 43. Trong cuộc sống người từ đủ 15 tuổi trở lên có
thể có tài sản riêng, bởi vậy họ có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình
Tuy nhiên, việc lập di chúc của đối tượng này phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban
xã, phường, thị trấn44.

Năng lực lập di chúc của một cá nhân cũng chính là năng lực hành vi dân sự của
cá nhân đó. Theo ông Thái Công Khanh: “Năng lực của cá nhân lập di chúc cũng là
năng lực hành vi dân sự …”45. Theo quy định của pháp luật tại Điều 17 Bộ luật dân sự

40

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 49.

41

Khoản 1 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường
hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình”.
42
Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người
chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”.
43

Khoản 1 Điều 58 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là

người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám
hộ)”.
44

Xem Khoản 3 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
năm 2005 thì: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng

hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Vì vậy, về nguyên tắc, chỉ những người đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền lập di
chúc. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “ Người đã
thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình”. Theo quy định
này thì cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên không tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình có quyền lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình cho người thừa kế. Người trưởng thành và có đủ năng lực hành vi dân sự
phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình đồng thời có quyền thực hiện các hành
vi dân sự hợp pháp, một trong các hành vi đó là hành vi lập di chúc. Khác với người từ
đủ 15 tuổi đến 18 tuổi, người tử đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
có quyền lập di chúc, không cần bất kì sự đồng ý của cha, mẹ hoặc của người giám hộ
hợp pháp46.
Tuy nhiên, nhận thức của những người ở độ tuổi này chưa thật sự hoàn hảo, chưa
chủ động để kiểm soát được sự định đoạt trong di chúc của mình nên họ chỉ được lập
di chúc trong điều kiện khi có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ47.
Một vấn đề đặt ra cần được làm rõ là trường hợp cá nhân dưới 15 tuổi, thông
minh, có tài sản riêng và làm chủ hành vi của mình trong việc lập di chúc và cũng
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý thì di chúc do người này lập ra có hiệu lực
pháp luật hay không ? Câu trả lời là di chúc do người trong độ tuổi dưới 15 tuổi lập ra,
cho dù người lập di chúc làm chủ hành vi của mình thì di chúc này cũng không có giá
trị pháp lý. Vi pháp luật không cho phép người ở độ tuổi này lập di chúc48.
Tuy nhiên, một người trên 18 tuổi vẫn bị coi là mất năng lực hành vi dân sự nếu
họ không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình49.
45

Thái Công Khanh, Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế, tạp chí Toà án nhân dân tháng

10/2006 (số 20), trang 2 và 3.
46


TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 49.

47

Khoản 2 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi

có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”.
48

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 50.

49

Khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Người
lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc …”, nên di chúc sẽ không được
coi là hợp pháp khi rơi vào một trong các trường hợp sau đây:
Di chúc được lập ra trong khi người đó đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình được nữa 50. Một
người lập di chúc sau khi bị Toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự mà di
chúc đó không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật51.
2.1.2. Thay đổi và huỷ bỏ di chúc
2.1.2.1. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc cá nhân
Thông thường di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế do đó lúc
còn sống người có tài sản có quyền lập nhiều di chúc. Ý chí của cá nhân có thể thay
đổi do sự biến động của nhiều yếu tố khác nhau, vì vậy khi còn sống, một cá nhân dù

đã lập di chúc nhưng vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc đã lập52.
Thứ nhất, sửa đổi di chúc: Việc sửa đổi di chúc là việc người lập di chúc bằng ý
chí tự nguyện của mình làm thay đổi một phần di chúc đã lập. Những phần di chúc
không bị sửa đổi vẫn có hiệu lực; phần di chúc đã bị sửa đổi sẽ không còn hiệu lực mà
thay vào đó pháp luật sẽ căn cứ vào ý chí thể hiện trong sự sửa đổi sau cùng 53. Hay,
việc sửa đổi di chúc liên quan tới việc thay đổi nội dung của di chúc đã lập, theo đó số
“Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người
đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự”.
50

Khoản 1 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường

hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình”.
51

Khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác

dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức
hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”.
52

Khoản 1 Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế,

hủy bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào”
53


Phương Dung – Hà Giang, Thông tin pháp luật dân sự: Một số vấn đề về quyền thừa kế,

.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
người được thừa kế và số di sản họ được chỉ định hưởng cũng thay đổi bằng việc
người lập di chúc sửa đổi nội dung của di chúc54.
Thứ hai, bổ sung di chúc: Việc bổ sung di chúc tức là trường hợp khi còn sống,
người lập di chúc có quyền bổ sung nội dung của di chúc đã lập trước đó, theo quy
định tại khoản 2 Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Trong trường hợp người lập
di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như
nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần
bổ sung có hiệu lực pháp luật”. Bổ sung được hiểu là bổ sung nội dung của di chúc, là
phần nội dung được thêm vào nội dung của di chúc đã lập55.
Như vậy, bổ sung di chúc là việc người lập di chúc quy định thêm một số vấn đề
mà trong di chúc đã lập chưa nói đến nhằm làm cho di chúc cụ thể, chi tiết hơn, rõ hơn.
Vì vậy, khi người lập di chúc bổ sung di chúc thì cả di chúc đã lập và cả phần bổ sung
đều có hiệu lực như nhau. Trong trường hợp di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn
nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật (lúc này việc bổ sung di chúc đã
chuyển hoá thành sự sửa đổi di chúc)56.
Thứ ba, thay thế di chúc: Thay thế di chúc là việc một người tuy đã lập di chúc
định đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng sau đó nếu họ thấy việc định đoạt
của mình chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp) thì có quyền lập một di chúc khác
để thay di chúc đã lập trước. Khoản 2 Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc
trước bị huỷ bỏ”57.
Thứ tư, huỷ bỏ di chúc: Là người đã lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình
truất bỏ di chúc đã lập. Khoản 3 Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005 xác định một

trường hợp được coi là huỷ bỉ di chúc: khi người lập di chúc thay thế di chúc đã lập.
Tuy nhiên, thực tế việc huỷ bỏ di chúc còn có thể được người lập di chúc thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau. Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định về hình thức huỷ
54

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 66.

55

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 67.

56

Phương Dung – Hà Giang, Thông tin pháp luật dân sự: Một số vấn đề về quyền thừa kế,


57

Phương Dung – Hà Giang, Thông tin pháp luật dân sự: Một số vấn đề về quyền thừa kế,




Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
bỏ di chúc, tuy nhiên, theo nhiều ý kiến, dù thực hiện bằng cách nào chăng nữa, nhưng
nếu đó là ý chí tự nguyện của người lập di chúc thì đều được coi là huỷ bỏ di chúc 58.
2.1.2.2. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng
Trước hết, pháp luật đã thừa nhận việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
là quyền của người lập di chúc. Theo khoản 1 Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định: “Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc

nào”.
Vợ, chồng có quyền lập chung di chúc định đoạt tài sản chung hợp nhất có được
trong thời kì hôn nhân hợp pháp cho những người thừa kế được chỉ định. Nhưng sau
đó vợ hoặc chồng chết trước, người vợ hoặc chồng còn sống có quyền sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình, còn phần di
sản cảu người vợ hoặc chồng chết trước vẫn giữ nguyên như đã định đoạt trong di chúc
chung. Qua quy định này cho thấy, pháp luật quy định cho người vợ hoặc người chồng
còn sống, có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc liên quan đến phần tài
sản của mình59.
2.2. Hình thức lập di chúc
Tại khoản 2 điều 768 BLDS 2005, luật xác định để áp dụng tính hợp pháp của
hình thức di chúc là luật nơi lập di chúc. Như vậy nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở
nước ngoài thì phải tuân theo pháp luật nước ngoài về hình thức di chúc và nếu công
dân nước ngoài lập di chúc ở Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam về hình
thức di chúc và dĩ nhiên, không có trường hợp ngoại lệ.
Như vậy, qua quy định trên cho thấy di chúc được công nhận trong luật dân sự
Việt Nam là hình thức di chúc văn bản hay còn gọi là di chúc viết và hình thức di chúc
miệng. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền
58

Phương Dung – Hà Giang, Thông tin pháp luật dân sự: Một số vấn đề về quyền thừa kế,


59

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 73.



Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi
mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu
số”.
2.2.1. Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản theo quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2005 bao
gồm: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có
người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có công chứng và Di chúc bằng văn bản có
chứng thực. Việc chứng thực hay công chứng hay có người làm chứng là căn cứ để
xác định di chúc do chính người có tài sản lập ra, là cơ sở để xác định tính khách
quan của di chức, là bằng chứng để bảo vệ lợi ích của người thừa kế theo di chúc và
là chứng cứ chứng minh di chúc do chính người có tài sản tự nguyện lập ra 60.
2.2.1.1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Trước hết, nội dung của di chúc bằng văn bản không có người làm chứng cũng
phải tuân thủ theo đúng những quy định trong Điều 653 Bộ luật dân sự năm 200561.
Thứ nhất, di chúc phải do tự tay người lập di chúc viết:
Tức là bản di chúc này phải là bàn di chúc viết tay. Do đó, “di chúc đánh máy
sẽ không có giá trị pháp lý, dù rằng người lập di chúc biết đánh máy chữ và tự tay
đánh máy di chúc”62. Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 2005 cũng không có quy định là
phải viết tay bằng chất liệu gì nên có thể chấp nhận di chúc viết bằng mực, bút bi

60

TS. Phùng Trung Lập, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008, trang 56.

61

Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:


“1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ
quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được
đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.
Điều 655 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải
tuân theo quy định tại Ðiều 653 của Bộ luật này”.
62

TS.Hoàng Thế Liên – Nguyễn Đức Giao (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, NXB Chính

trị quốc gia Hà Nội, 2001, tập 3, trang 45.


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
hay chất liệu khác, thậm chí bằng bút chì hay bằng máu cũng được nên chấp nhận
nếu có cơ sở xác định chữ viết đó là của người để lại di sản 63.
Thứ hai, di chúc phải có chữ ký của người lập di chúc:
Đối với loại di chúc này, Điều 655 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định rằng
người lập di chúc phải tự tay ký vào bản di chúc, mà không đề cập việc điểm chỉ trong
bản di chúc có giá trị pháp lý không. Để thật sự đảm bảo quyền định đoạt tài sản của
người lập di chúc, pháp luật vẫn thừa nhận di chúc lập ra trong những trường hợp đó
vẫn có giá trị pháp lý nếu “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép; Nội dung di chúc không trái pháp luật,
đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”64.

2.2.1.2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Tương tự như di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì di chúc bằng
văn bản có người làm chứng cũng cần phải có đầy đủ nội dung tại Điều 653 và người
làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy
định65.
Thứ nhất, di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải do người khác viết:

63

TS. Đỗ Văn Đại, Sách chuyên khảo luật thừa kế Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009, trang 229.

64

Xem Khoản 1 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005.

65

Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

“1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ
quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được
đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.
Điều 654 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự”


×