Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌ C VIỆ N KH O A HỌC XÃ
HỘI

LÊ HẢI YẾN

PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và hành chính
Mã số: 8380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Phú

ĐĂK LĂK - 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tác giả
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình
và người thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng trân trọng biết ơn đối với lãnh đạo Học viện
khoa học xã hội; cơ sở Học viện khoa học xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột; các
thầy, cô giáo giảng viên thuộc các ban, khoa, tổ bộ môn Học viện khoa học xã hội
và cơ sở Học viện khoa học xã hội tại thành phố Buôn Ma Thuột đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến Thầy TS. Nguyễn
Minh Phú đã dành nhiều thời gian, công sức và tâm huyết hướng dẫn và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Cũng qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo các Sở, Ban, ngành đã cung
cấp các số liệu, tài liệu cần thiết cũng như những kiến thực tế liên quan đến đề tài


luận văn.
Và cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã luôn bên
cạnh, tạo mọi điều kiện tốt nhất về tinh thần, vật chất, thời gian để tôi hoàn thành
khóa học này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Lê Hải Yến


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đề tài “Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân
tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân
tôi, các kết quả nghiên cứu chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Các thông
tin, số liệu trong luận văn là trung thực, nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Lê Hải Yến


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..........................................................5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu......................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...............................................................7
7. Bố cục của luận văn ................................................................................................7
Chương 1 .......................................................................................................................
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
NGƯỜI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ............................................................8
1.1. Những khái niệm cơ bản về phổ biến, giáo dục pháp luật...................................8
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các
dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk ..............................................................................21
Chương 2 .......................................................................................................................
THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC DTTS
TẠI TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY ...........................................................................28
2.1. Các điều kiện địa lý, tự nhiên, chính trị, kinh tế - xã hội và văn hoá ảnh hưởng đến
việc PBGDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Đắk Lắk ........................................28
2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk .......................................................................................................36


2.3. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Đắk Lắk
trong thời gian qua ....................................................................................................38
Chương 3 .......................................................................................................................
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨM BẢO THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DTTS TẠI
TỈNH ĐẮK
LẮK...........................................................................................................................55
3.1. Yêu cầu đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các DTTS tại tỉnh
Đắk Lắk .....................................................................................................................55
3.2. Phương hướng tăng cương phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các DTTS
tại tỉnh Đắk Lắk.........................................................................................................59

3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đồng bào các DTTS tại tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới .........................................64
KẾT LUẬN ...............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................75


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật

CHCN

Xã hội chủ nghĩa

DTTS

Dân tộc thiểu số

PBPL

Phổ biến pháp luật

CBCC

Cán bộ công chức

GDPL


Giáo dục pháp luật

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

MN

Miền núi


DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1

Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Lắk

35

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1:
Biểu đồ 2.2:

Phân bố dân cư của các dân tộc theo đơn vị hành chính cấp
huyện tỉnh Đắk Lắk

Phân bố dân cư của các dân tộc theo khu vực thành thị - nông
thôn tỉnh Đắk Lắk năm 2009

Biểu đồ 2.3:

Phân bố dân cư của các dân tộc theo giới tính

39
40
41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1


Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt
động quản lý của nhà nước, nó có tác động trực tiếp đến việc sống và làm việc theo
pháp luật của nhân dân; góp phần nâng cao ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật
trong nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng; là điều kiện tối quan
trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ
biến, giáo dục pháp luật có vai trò quyết định cho hiệu lực và hiệu quả của quá trình
quản lý và thực thi pháp luật vào trong đời sống, quản lý xã hội; bởi qua đó nó giúp
mỗi công dân hiểu biết và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của mình. Xuất phát từ
ý nghĩa và vai trò của công tác PBGDPL Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chú trọng tới công tác này và được thể
hiện cụ thể trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tại Đại hội lần
thứ VIII của đảng đã nếu rõ ''Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục

pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các
phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương
và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật
trong cơ quan nhà nước và trong xã hội''. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính tiếp tục khẳng định cần đẩy mạnh công tác PBGDPL với
nhiều hình thực khác nhau và đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử lưu dộng
để nâng cao ý thực pháp luật trong cán bộ và nhân dân. Thủ tướng chính phủ ban
hành định số 1163/QĐ-TTg, ngày
08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ V/v phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và
miền núi giai đoạn 2017-2021; đề án tăng cường ứng dụng công nghệ tông tin trong
công tác PBGDPL giai đoạn 2019-2021.
Cụ thể hóa những đường lối, chủ trương của đảng và chính sách, pháp luật
của nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Đắk Lắk là địa phương đã và
đang rất tích cực chỉ đạo và thực hiện tốt công tác PBGDPL trong nhân dân; các
2


hoạt động đó được triển khai một cách bài bản, khoa học, có trọng tâm và gắn liền
với nhiệm vụ phát triển kinh tế - chính trị; văn hóa - xã hội của từng ngành, từng địa
phương. Hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ; các văn bản pháp luật được phổ biến bằng nhiều hình thức và phương pháp
phù hợp với từng đồng bào DTTS và từng địa phương, từng bước nâng cao nhận
thức và đáp ứng tốt nhu cầu tìm hiểu pháp luật trong cán bộ, công chức và nhân dân,
góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, trật tự và an toàn xã
hội trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì công tác PBGDPL vẫn còn
những hạn chế nhất định về ý thức tự giác học tập, rèn luyện và tuân thủ pháp luật...
một số nơi, một số cán bộ, công chức, viên chức còn chưa thực sự gương mẫu và
thực hiện tốt tính nêu gương của các cấp ủy đảng, người đứng đầu... chưa thực sự có

sức lan tỏa và ảnh hưởng tích cực, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật bởi
những lý do sau:
Thứ nhất, nhận thức của các cấp chính quyền và cơ quan chưa thực sự đầy đủ;
chưa thấy rõ hết được vai trò của công tác này góp phần vào quá trình quản lý xã hội
của nhà nước.
Thứ hai, hệ thống văn bản hướng dẫn, triển khai công tác này trên địa bàn
tỉnh còn tản mạn; đặc biệt là thiếu cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm và cơ chế
phối hợp, huy động nguồn lực có hiệu quả giữa các cơ quan cũng như các tổ chức
chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh trong công tác PBGDPL;
Thứ ba, việc huy động nguồn lực cho công tác PBGDPL chưa được tiến hành
một cách đồng bộ và rộng khắp. Tổ chức, nhân lực làm công tác PBGDPL còn hạn
chế. Kinh phí và những điều kiện thực hiện tốt cho công tác PBGDPL còn chưa
được quan tâm đúng mức, còn hạn chế nhất là các tỉnh vùng sâu, vùng xa; vùng có
nhiều đồng bào DTTS như Đắk Lắk.

3


Với những lý do trên, tôi nhận thấy tầm quan trọng của công tác PBGDPL cho
đồng bào các DTTS nói chung và cho đồng bào các DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắknói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà
nước Pháp quyền XHCN. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
PBGDPL được coi là hoạt động đầu tiên của quá trình áp dùng pháp luật và
trong quản lý nhà nước; đó đó nội dung của nó luôn được các nhà quản lý và khoa
học quan tâm. Nội dung PBGDPL đã, đang và vẫn tiếp tục có những công trình
nghiên cứu về vấn đề này và có thể kể tới như:
- Đề tài khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý được thực

hiện và nghiệm thu thành công năm 1994 nghiên cứu về nội dung Một số vấn đề về
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay” đã chỉ ra những vấn đề cơ bản, cần
thiết trong việc PBGDPL trong giai đoạn nghiên cứu, để khắc phục những hạn chế
của nó trong công tác này;
- Đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công
cuộc đổi mới”, đã chỉ những vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn đó cần thực
hiện; các tác giải đã chỉ ra khái niệm, mục đích, nội dung và đối tượng cũng như hình
thứ PBGDPL;
- Đề tài: “Giáo dục pháp luật cho phụ nữ của nước ta hiện nay”, là luận văn
thạc sĩ được thực hiện năm 2012 của Học viên Phạm Thị Minh đã khái quát được vai
trò và tâm quan trọng việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta trong giai đoạn
hiện này;
- Đề tài luận văn thạc sĩ của học viên Phạm Kim Dung được thực hiện năm
2012 với nội dung “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ quan hành chính ở
thành phố Hà Nội hiện nay”, đã chỉ ra tầm quan trong của công tác giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chứ, góp phần nâng cao ý thực pháp luật, ý thức phục vụ và
thực thi công vụ của cán bộ, công chức trên địa bàn Thành phố Hà Nội;
4


- “Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay”, đăng
trên tạp chí Tạp chí Khoa học pháp lý, năm 2011 của tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã
chỉ ra những yêu cầu và tính hiệu quả trong công tác giáo dục pháp luật ở Việt Nam
hiện nay;
- “Ý thức hiến pháp trong nhà nước pháp quyền - nhận thức và những đặc
trưng cơ bản”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, năm 2012; Hoàng Thị Kim Quế cũng
đã bàn tới ý thức hiến pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam...
Các công trình nghiên cứu cơ bản đã liệt kê trên đã bàn về những vấn đề lý
luận và thực tiễn trong công tác truyền truyền, PBGDPL ở một ngành hay lĩnh vực
nào đó; chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp đến nội dung và vấn đề mà luận

văn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh; do đó nội dung PBGDPL cho đồng bào DTTS trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk mà tác giải nghiên cứu là vấn đề có tính cấp thiết. Điều này sẽ
được đề cập một cách thấu đáo ở các chương của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tổng hợp và xây những vấn đề lý luận PBGDPL cho đồng bào các
DTTS; đánh giá thực trạng công tác PBGDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Đắk
Lắk, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác PBGDPL cho đồng
bào các DTTS tại tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu

5


sau:
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về PBGDPL, phân tích những
quan niệm và vai trò của PBGDPL, làm rõ cơ sở lý luận của PBGDPL cho đồng bào
các DTTS ở tỉnh Đắk Lắk.
- Làm rõ mục đích, vai trò và đặc điểm chủ yếu của PBGDPL cho đồng bào
các DTTS.

6


- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về PBGDPL cho đồng bào các
DTTS ở tỉnh Đắk Lắk. Từ đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn của việc PBGDPL
cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.
- Từ công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh tác giả đề xuất một số giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng PBGDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Đắk Lắk trong

thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân
tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu về PBGDPL cho
đồng bào các DTTS số ở tỉnh Đắk Lắk với các nội dung: cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn và đề xuất các giải pháp nhầm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL
cho đồng bào các DTTS ở tỉnh Đắk Lắk.
Địa điểm nghiên cứu: tỉnh Đắk Lắk, là tỉnh miền núi Tây Nguyên có 47 dân
tộc cùng sinh sống, dân tộc thiểu số (bao gồm các dân tộc: Êđê, Mnông, Gia Rai,
Hoa, Mường, Xơ Đăng, Bru - Vân Kiều, Ba Na, Khơ me, Chăm, Raglai… Tày, Thái,
Nùng, Dao, Mông..).
Thời điểm nghiên cứu: Căn cứ Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 04/5/2009
của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật cho
người dân nông thôn và đồng bào các DTTS, tác giải cũng sẽ đề cập đến những nội
dung liên quan; tuy nhiên thời gian nghiên cứu trong luận văn chủ yếu đề cập và phân
tích giai đoạn 5 năm gần đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn của học viên được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng
và duy vật lịch sử; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở lý
luận về Nhà nước và Pháp luật.


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Việc nghiên cứu đề

tài dựa trên kết quả phân tích tài liệu thứ cấp là các công trình nghiên cứu có liên
quan đến PBGDPL. Phương pháp nghiên cứu này sẽ cho tác giả thu được kết quả
sau:

+ Thấy được kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước về những nội dung liên
quan trực tiếp và gián tiếp đến vấn đề PBGDPL cả ở góc độ lý luận và thực tiễn,
những điểm có thể kế thừa, những điểm cần bổ sung, bàn luận thêm từ các nghiên
cứu của họ;
+ Phân tích, tổng hợp tài liệu nhằm hình thành các luận điểm, luận cứ phân tích,
đánh giá việc nghiên cứu của đề tài. Cụ thể, luận văn được thực hiện dựa trên sự
nghiên cứu, phân tích các khối tài liệu sau: Tài liệu về PBGDPL nói chung, PBGDPL
cho người đồng bào DTTS nói riêng. Đặc biệt, để thực hiện đề tài luận văn, tác giả
phân tích kỹ các tài liệu trực tiếp và gián tiếp liên quan đến công tác PBGDPL của
cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan nhà nước và
ngành tư pháp trong PBGDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh. Từ những khối
tài liệu này, tác giả có sự phân tích, tổng hợp và đưa ra những luận giải riêng về vấn
đề PBGDPL đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh.
- Bên cạnh đó Luận văn sử dụng một số phương pháp như: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, liên ngành và đa ngành khoa học... Cụ thể như:
Trong chương 1, để làm rõ những vấn đề lý luận PBGDPL luận văn sử dụng
phương pháp liệt kê, hệ thống hóa các văn bản... qua đó làm rõ các quan niệm về
PBGDPL nói chung, PBGDPL cho đồng bào DTTS nói riêng.
Tại chương 2, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích và so sánh,
tổng hợp... trên cơ sở đó đánh giá thực trạng công tác PBGDPL cho đồng bào DTTS
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra
những kiến nghị và giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu lực, hiệu quả công tác
PBGDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh hiện nay và giai đoạn tiếp theo.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu có hệ thống những vấn đề
lý luận về PBGDPL cho người các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho

việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả tuyên
truyền, PBGDPL cho người dân nói chung, người đồng bào DTTS nói riêng; cho
công tác quản lý nhà nước về PBGDPL của các cơ quan quản lý nhà nước và tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên, giảng dạy và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại
các cơ quan bảo vệ pháp luật...
Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp một phần
nhỏ công sức của mình vào công tác tuyên truyền PBGDPL trong thời kỳ đẩy mạnh
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn được bố cục gồm lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Nội dung của luận được cấu kết bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số.
Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho bào dân tộc thiểu số tại
tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu quả phổ
biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
NGƯỜI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Những khái niệm cơ bản về phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật là là nội dung quan trọng để cụ thể hóa hoạt động
quản lý xã hội của nhà nước bằng pháp luật, nó không chỉ mang ý nghĩa pháp lý mà
nó còn có ý nghĩa xã hội, văn hóa và nhân văn để hoạt động quản lý của nhà nước có
hiệu lực và hiệu quả trong đời sống xã hội. Qua hoạt động đó sẽ giúp chủ thể và
khách thể của hoạt động PBGDPL hiểu và biết được những quy định của pháp luật để
họ thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình khi tham gia vào công tác

PBGDPL cũng như các quan hệ pháp luật.
Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất Đà Nẵng năm 1997 thì: "Phổ biến là làm cho
đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp
hay thông qua hình thức nào đó” [41, tr. 3].
Từ điển từ và ngữ Hán - Việt thì "Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm
chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt
của đời sống xã hội" [44, tr. 3].
Các tài liệu khác nghiên cứu về giáo dục, pháp luật thì quan niệm “Giáo dục
pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho
đối tượng và bằng nhiều cách (thuyết phục, nêu gương, ám thị...) hình thành tình
cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng” [43, tr. 7];
Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật nhằm mục đích nâng cao nhận
thức của nhân dân; tuy nhiên hoạt động đó cần phải được tiến hành một cách rộng
khắp và cần phải được tổ chức và tiến hành một cách có hệ thống và chặt chẽ hướng
tới những đối tượng và phạm vi nhất định. Quan niệm về PBGDPL được đa phần các
nhà nghiên cứu và các tác giả đồng nhất trong các tài liệu khoa học pháp lý như sau:


PBGDPL là hoạt động có định hướng của cơ quan, tổ chức, có chủ chương và kế
hoạch của chủ thể thông qua những hình thức và phương pháp để tác động lên khách
thể là đối tượng tác động; qua đó hình thành cho khách thể những tri thức pháp lý, có
ý thức và tình cảm, tạo niềm tin để có những hành vi phù hợp với những quy định của
pháp luật mà khách thể đó tham gia trong xã hội.
1.1.2. Mục đích, yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.2.1. Mục đích của việc phổ biến, giáo dục pháp luật
- Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất trong đời sống quản lý xã hội của mỗi
quốc gia. Muốn quản lý xã hội bằng pháp luật thì đòi hỏi khi xây dựng và ban hành

những văn bản luật đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã
hội có liên quan cần phải tổ chức tuyền truyền, PBGDPL cho nhân dân hiểu được ý
nghĩa và vai trò của của những quy định pháp luật đó, để họ biết, hiểu và hình thành ý
thức ủng hộ và tuân thủ pháp luật trong đời sống. Bản chất của pháp luật là thể hiện ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, nhằm quản lý xã hội và phục vụ nhân dân, tuy nhiên
dù mục đích tốt đẹp của bất kỳ pháp luật của quốc gia nào thì khi tiến hành xây dựng
và ban hành phải xuất phát từ mục đích và quyền lợi của nhân dân, phải tuyên truyền,
PBGDPL rộng trong nhân dân để dân biết, dân làm và thực hiện.
Khi xây dựng một văn bản pháp luật mới nào đó, theo quy định của pháp luật
các cơ quan ban hành văn bản cần phải thông tin và lấy ý kiến của các cơ quan tổ
chức có liên quan và những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của pháp luật; được
những chủ thể chịu sự tác động trực tiếp quan tâm, tìm hiểu do nhu cầu công việc và
học tập, hay nghiên cứu, hoặc sản xuất kinh doanh; nhưng số lượng tác động trực tiếp
này không nhiều và trình độ dân trí, hiểu biết và tự ý thức tìm hiểu pháp luật chưa cao
và không đồng đều giữa các tầng lớp dân cư và đặc biệt đối với đồng bào DTTS. Do
đó các cơ quan nhà nước có trách nhiệm và thẩm quyền, các tổ chức xã hội và toàn
bộ hệ thống chính trị cần phải tích cực tham gia và quá trình PBGDPL, thông qua
hoạt động này những yêu cầu, nội dung và những quy định của pháp luật mới đến
được với nhân dân và đặc biệt đối với đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa đó là cách
9


thức và phương pháp hữu hiệu nhất để nâng cao hiểu biết về pháp luật cho nhân dân
và là điều kiện, tiền đề của xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là quản lý xã hội trên cơ sở những quy định của pháp luật và bằng pháp luật.
- Hình thành lòng tin vào pháp luật cho đối tượng
Không có một pháp luật của quốc gia nào khi ban hành ra đã đảm bảo hiệu lực
pháp lý và quản lý tuyệt đối; pháp luật chỉ có thể được thực hiện khi nhân dân hiểu,
tin tưởng và phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ và đảm bảo
cho họ những quyền đó, thì khi đó nhân dân mới tin tưởng và tự giác tuân thủ, chấp

hành pháp luật, khi đó không cần đến sự cưỡng chế của nhà nước thì đối tượng chịu
sự điều chỉnh của pháp luật sẽ tự giác và có ý thức thực hiện.
Tạo lập niềm tin vào pháp luật và cho mỗi người và cả cộng đồng đòi hỏi sự
kết hợp của nhiều yếu tố. Trong đó PBGDPL là yếu tố quan trọng và đầu tiên của quá
trình thực hiện áp dụng pháp luật, qua đó sẽ biết được sự đồng tình ủng hộ hay phản
ứng của nhân dân đối với những nội dung và vấn đề pháp luật đó muốn hướng tới và
điều chỉnh.
Pháp luật cũng là những quy định và cũng như bất kỳ hiện tượng xảy ra trong
xã hội thực tại nó cũng có tính hai mặt của nó, pháp luật không thể phản ánh và thỏa
mãn cũng như đáp ứng hết mọi yêu cầu và mong muốn của các tầng lớp nhân dân. Do
đó trong quá trình áp dụng, điều chỉnh và thực hiện quản lý pháp luật vào trong đời
sống xã hội nếu được đông đảo và phù hợp với những nguyện vọng chính đáng của
nhân dân thì đó chính là thước đo sự phù hợp của pháp luật đó với đời sống xã hội;
tuy nhiên bên cạnh đó sẽ có những bộ phận, hay một số ít những người sẽ chưa thực
sự đồng tình hay phản đối nó, do đó mới cần đến hoạt động PBGDPL để tất cả các
đối tượng điều chỉnh của pháp luật và nhân dân hiểu đúng và tự nguyện thực hiện,
qua đó mới hình thành ý thức và niềm tin của xã hội và nhân dân đối với pháp luật
của nhà nước.
- Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng
Trong khoa học pháp lý thì ý thức pháp luật chính là bộ phận không thể thiếu
của đời sống pháp luật. Bởi tất cả những hoạt động của con người đều là những hoạt
10


động có ý thức, được rèn luyện và nâng cao trong quá trình học tập và tìm hiểu và
tâm lý của con người. Do đó, văn bản pháp luật luôn luôn thể hiện trong tâm lý pháp
luật và chính là tư tưởng, quan niệm của nhà nước và chế độ xã hội đó hình thành
nên; sự tồn tài của pháp luật trong hoạt động quản lý xã hội của nhà nước luôn gắn
chặt với tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật của xã hội đó.
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó tâm lý pháp

luật và hệ tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật là các cảm xúc, tâm trạng, xúc cảm,
thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác. Tâm lý pháp luật
được hình thành một cách tự phát, thiếu tính hệ thống, ví dụ: tình cảm đối với vấn đề
công bằng, nỗi sợ hãi trước hình phạt, sự đồng tình hay phản đối với bản án mà Tòa
án đã tuyên cho bị cáo. Thái độ quan tâm, phẫn nộ hay trung lập lãnh đạm, thờ ơ đối
với các hành vi vi phạm pháp luật… đều là những biểu hiện đa dạng, nhạy cảm về
tâm lý pháp luật của các cá nhân. Tâm lý pháp luật chịu sự tác động mạnh mẽ,
thường xuyên từ các yếu tố khách quan và chủ quan như môi trường tự nhiên, xã hội,
văn hóa, tôn giáo, tâm lý, tình trạng sức khỏe. học vấn, tài chính, các mối quan hệ gia
đình, xã hội…
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể các tư tưởng, học thuyết, trường phái lý luận,
quan điểm khoa học về pháp luật. Đó là sự phản ánh, luận giải trong tư tưởng pháp
luật bao quát hầu hết các lĩnh vực cơ bản của đời sống nhà nước và pháp luật như: vai
trò, vị trí, chức năng pháp luật, cách thức xây dựng, kỹ thuật xây dựng pháp luật và áp
dụng pháp luật; quan điểm về các loại nguồn pháp luật; các quyền và nghĩa vụ pháp
lý…
Giữa tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật có mối quan hệ biện chứng, phụ
thuộc, tác động lẫn nhau. So với tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật là bộ phận bền
vững hơn, bảo thủ hơn. Đồng thời tâm lý pháp luật dưới sự tác động của đời sống xã
hội cũng dao động, trong nhiều trường hợp lại thay đổi dễ dàng, nhanh chóng, chỉ có
điều thay đổi theo hướng nào, tích cực hay tiêu cực.

11


Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục văn bản pháp luật là hoạt động phổ biến và
tuyên truyền những văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý đã và đang được áp dụng
trong thực tế, mà còn phổ biến những văn bản pháp luật đã hết hiệu lực, hoặc không

12



phù hợp với thực tiễn đã được sửa đổi giúp nhân dân sớm tiếp cận và hiểu được
những quy định của pháp luật ấy, đồng thời lên án những hành vị sai trái với những
quy định của pháp luật, khuyến khích động viên nhân dân sống và tuân thủ pháp luật
của nhà nước và đặc biệt với đồng bào DTTS hiện nay; trong thực tế đời sống xã hội
đồng bào vẫn còn có những phong tục, tập quán trái hoặc chưa phù hợp với những
quy định của pháp luật thì trong quá trình PBGDPL chúng ta phải giúp nhân dân hiểu
và thực hiện đúng những quy định của pháp luật và loại bỏ những phong tục, tập
quán không còn phù hợp trên thực tế hiện này, từ đó nâng cao nhận thức, ý thức tự
giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
1.1.2.2. Yêu cầu đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật
- Yêu cầu đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
+ Đề cao tính Đảng trong tuyên truyển, PBGDPL:
Trong cơ chế Đảng lãnh đạo nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thì pháp
luật luật luôn phải là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của đảng; pháp
luật và đường lối chính sách của đáng luôn có mối quan hệ mật thiết và biện chứng
của nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng,
đường lối, chính sách của Đảng là "linh hồn" của pháp luật. Vì vậy, tuyên truyền,
PBGDPL là hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách của
đảng và pháp luật của nhà nước.
Thực hiện không đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật đều làm tổn hại tới
Nhà nước và xã hội, tổn hại tới vai trò lãnh đạo của Đảng. Pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, chính xác và đầy đủ thì đó cũng chính là thực hiện đầy đủ đường lối,
chủ trương, chính sách của đảng vào trong đời sống quan lý của nhà nước mà pháp
luật là công cụ hữu hiệu nhất truyền đạt tính đảng trong mình.
PBGDPL có thể là phổ biến các văn bản QPPL, có thể tuyên truyền về việc
thực hiện và áp dụng pháp luật, phổ biến từ cái chung đến cái cụ thể đều phải đề cao
tính Đảng. Những quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội luôn
được đảng vận dụng và bán sát nó để cụ thể hóa vào chủ trương, chính sách của

mình, do đó pháp luật của nhà nước không thể phiến diện, chủ quan và xa rời đời
12


sống khách quan của hoạt động quản lý. Có như vậy thì khi đó chúng ta mới thực
hiện đúng quan điểm đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Pháp
luật là sự cụ thể hóa đường lối đó, nhưng không phải là cụ thể hóa tất cả, chi tiết hóa
đầy đủ thành các quy định để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mặt khác, các quan
hệ xã hội luôn luôn biến đổi, vận động, do đó việc thực hiện và áp dụng pháp luật và
việc tuyên truyền, PBGDPL phải lấy đường lối, chính sách của Đảng làm hoạt động
và mục đích của hoạt động PBGDPL cần hướng tới.
+ Truyên truyền, PBGDPL cần tuân thủ tính khoa học, chính xác với nội dung
và quy định của pháp luật.
PBGDPL có đặc thù riêng không giống với việc tuyên truyền phổ biến về văn
hóa văn nghệ, Khi tuyên truyền, phổ biến về văn hóa văn nghệ người ta có thể nhân
cách hóa, hư cấu thành những hình tượng nghệ thuật để phục vụ cho mục đích của
họ.
PBGDPL khác với các loại hình PBGDPL khác ở chỗ nội dung được phổ biến,
giáo dục là pháp luật, là những quy tắc xử sự chung được Nhà nước ban hành theo
một trình tự thủ tục do luật định, có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ tới nội dung và yêu
cầu của các quy định đó. Do đó, công tác tuyên truyền, PBGDPL phải tuân thủ những
nguyên tắc khoa học, phù hợp với đối tượng và thực tiễn, truyền đạt chính xác những
nội dung của pháp luật quy định và đúng quy đinh trong PBGDPL.
- Tuyên truyền, PBGDPL cần đảm bảo tính kịp thời, dễ nhớ, dễ hiểu; phù hợp
với từng đối tượng được phổ biến, phải trả lời được các câu hỏi như họ cần gì? Họ
muốn gì và làm như thể nào để họ hiểu những gì mình cần phổ biến, cần có cách thức
PBGDPL phù hợp với trình độ văn hóa, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, dân tộc cho
từng đối tượng phổ biến.
PBGDPL cần chọn được hình thức phù hợp:
Hình thức GDPL còn phải phù hợp với từng địa bàn, điều kiện kinh tế xã hội

nhất định, do đó khi PBGDPL cũng phải xuất phát từ địa bàn, điều kiện kinh tế của
nơi tiến hành PBGDPL. Bên cạnh đó hoạt động này cần phải được tiến hành một
cách thường xuyên và liên tục, theo chương trình và kế hoạch cụ thể; tạo được tâm lý
13


tìm hiểu và thực hiện pháp luật trở thành thói quen trong nhận thức và hành động của
đời sống nhân dân, tránh hình thức phô trương, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát cũng
như khen thưởng kịp thời đối với những cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện tốt
công tác này. Phải coi công tác PBGDPL là nhiệm vụ chính trị và pháp lý của từng
cấp ủy và chính quyền các cấp ở mỗi địa phương, để phát huy sức mạnh tổng thể của
cả hệ thống chính trị và nhân dân tham gia vào hoạt động PBGDPL.
Tóm lại, trong rất nhiều hình thức như vậy, khi tiến hành PBGDPL cần
chọn một hình thức phù hợp cho đối tượng được phổ biến hoặc kết hợp đan xen
các loại hình thức.
- Yêu cầu về năng lực và trình độ đối cán bộ, công chức, viên chức làm công
tác và tham gia vào quá trình PBGDPL:
+ Người làm công tác tuyên truyền, PBGDPL cần có nền kiến thức xã hội cơ
bản và đặc biệt là kiến thức nhất định về nhà nước và pháp luật trong lĩnh vực mình
tham gia phụ trách:
+ Người tham gia và thực hiện công tác PBGDPL cần có đức tính kiên trì, tận
tụy với công việc; bời hoạt động này là hoạt động mang tính chất xã hội rộng rãi,
khách thể của hoạt động phổ biến là các tầng lớp nhân dân; mọi lứa tuổi, dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng khác nhau... do đó chủ thể của hoạt động PBGDPL phải là người tận
tình, tâm huyết và đam mê với công việc; không quản ngại khó khăn và đặc biệt phải
có sự hy sinh cống hiến vì công đồng; trách nhiệm với công việc; có phương pháp và
cách thức linh hoạt và sáng tạo cho phù hợp với nội dung, từng hình thức và của nội
dung của pháp luật cần truyền tải.
+ Người làm công tác PBGDPL cần có khả năng nói và khả năng viết: Đây là
khả năng cơ bản để có thể truyền đạt những thông tin về pháp luật một cách linh hoạt

và rõ ràng đến khách thể - đối tượng tiếp nhận thông tin về nhà nước và pháp luật
trong hoạt động quản lý, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ áp dụng trong hoạt động tuân thủ pháp
luật.
+ Người làm công tác PBGDPL cần có khả năng truyền cảm trong giao tiếp,
thân thiện trong công việc vì đây là hoạt động tuyên truyền và vận động quần chúng,
14


không đơn giản đơn thuần chỉ là người đi tuyên truyền giáo, giáo dục thông tin; phải
nói sao cho họ nghe, họi hiểu, họ muốn nghe và ham muốn hưởng ứng và tuân thủ
đối với những nội dung được PBGDPL. Muốn thực hiện tốt công tác này họ phải tự
đặt cra những câu hỏi khách thể của họ là ai? Khách thể cần gì và khi nào? Nghề
nghiệp, lứa tuổi, giới tính... của khách thể ra sao và cần phải có cách PBGDPL như
thế nào cho đạt hiệu quả cao nhất.
Công tác PBGDPL là công tác hai chiều; nghe và nhận, không chỉ đơn thuần là
truyền tải thông tin pháp luật mà còn phải biết nắm bắt đầy đủ và biết tổng hợp chính
xác những thông tin phản hổi; để không những phản ánh với những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về chính sách pháp luật đó có được đồng tình, ủng hộ hay phản đối;
đồng tình vì sao? Chưa đồng tình ủng hộ là do những điều kiện gì? Do công tác
PGDPL hay do nội dung pháp luật chưa phù hợp với đời sống và sự phát triển thực
tế... Chính vì lẽ đó cần đòi hỏi người làm công tác này cần phải có óc quan sát, sự
hòa đồng và giao tiếp khéo léo thì mới đảm bảo công tác này có hiệu quả có trong
hoạt động PBGDPL trong đời sống quản lý của nhà nước.
+ Người làm công tác PBGDPL cần có khả năng có kiến thức và tích lũy
những kinh nghiệm thực tiễn và phương pháp, phương tiện PBGDPL. Vì đây là hoạt
động thường xuyên, liên tục và lâu dài, muốn hoạt động tốt trong lĩnh vực này chủ
thể PBGDPL phải là người có tri thức và kinh nghiệm; không chỉ đơn thuần về kiến
thức về pháp luật mà còn cần phải có kiến thức sâu rộng như văn hóa, xã hội; cần có
tư liệu và hoạt động truyền truyền sinh động, phù hợp với từng khách thể của hoạt
động PGBGDPL.

+ Người làm công tác PBGDPL cần có khả năng và hiểu về tâm lý học và
công tác tuyên truyền: tức là chủ thể PBGDPL phải hiểu được tâm lý của khách thể
(đối tượng) mình hướng tới; hiểu được sự vận động có tính chất quy luật của tâm lý
sẽ giúp khách thể có thể nắm bắt và dự đoán những gì có thể diễn biến tiếp theo trong
quá trình PBGDPL; sự phản ứng và lắng nghe của họ đối với những nội dung pháp
luật mình sẽ và đã truyên truyền PBGPL đối với họ; dư luận về vấn đề sẽ ra saom có
khả năng đinh hướng và điều chỉnh có lợi cho công tác PBGDPL... tất cả những yêu
15


×