Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận Ngôn ngữ truyền thông (Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.32 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống hàng ngày, ngôn ngữ là phương tiện hữu hiệu để con
người tiến hành các hoạt động giao tiếp, để biểu lộ suy nghĩ, cảm xúc. của
mình. Trong báo chí, đặc biệt là phát thanh ngôn ngữ lại càng là công cụ
không thể thiếu bởi báo chí sử dụng nó như phương tiện gốc để truyền tải
thông tin tới công chúng các ký hiệu, cử chỉ của con người như khoa chân
múa tay, gật đầu, lắc đầu, đều không thay thế được giàu thông tin, đa hình
tượng của ngôn ngữ.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, báo chí đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Chưa bao giờ chúng ta lại thấy có nhiều tờ báo được xuất bản đến
thế. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi đời sống vật chất của con người ngày càng
được nâng cao thì nhu cầu hưởng thụ về tinh thần cũng tăng dần. Vì vậy
muốn thu hút được độc giả đến với mình các tờ báo phải nâng cao cả chất
lượng cả về nội dung hình thức đặc biệt là chú trọng đến việc sử dụng từ ngữ,
cách diễn đạt (nói cách khác là phải chú trọng đến các thủ pháp nhằm tạo giá
trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí) bởi viết gì đã là quan trọng, song như Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã dậy các nhà báo "viết cho ai" còn quan trọng hơn". Đây
cũng là điều kiện tiên quyết tạo ra sức mạnh, sự độc đáo cũng như tạo ra cái
"duyên ngầm" cho tờ báo, từ đó gây ấn tượng cho độc giả khiến họ nhớ lâu và
dần trở thành người bạn thân thiết của báo.
Tiểu luận này đề cập đến một số “Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và
tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí” để nói
hiểu rõ hơn về ngôn ngữ báo chí. Do khả năng của bản thân, do chưa có điều
kiện được tiếp cận các nguồn, các tài liệu khác nhau; vả lại, thực tiễn luôn vận
động, biến đổi mà chúng ta chưa có điều kiện theo sát và nhận thức đầy đủ
nên tiểu luận này xin phép chỉ đề cập những vấn đề chung và cơ bản nhất.

1
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí



I. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
1. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có quan trọng hàng đầu của
báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập các sự
kiện. Không có sự kiện thì không có thể có tin tức báo chí. Báo chí phản ánh
hiện thực thông qua việc đề cập các sự kiện nóng hổi, những vấn đề bức xúc
có thực của ngày hôm nay đang được đông đảo công chúng quan tâm, chờ
đợi. Nhà báo tiếp cận thực tiễn bằng cách khảo sát những cái chung, cái phổ
biến của các nhóm người, thậm chí của các giai tầng xã hội có liên quan rồi
trên cơ sở ấy khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng.
Có rất nhiều quan niệm về ngôn ngữ báo chí có ngôn ngữ nói chung
được vận dụng linh hoạt trong các thể loại khác nhau trong các tác phẩm báo
chí. Sở dĩ có ý kiến như vậy là do người ta không thể tìm ra những đặc trưng
riêng có, khả năng khu biệt ngôn ngữ báo chí với các văn phong khác. Quan
niệm khác cho rằng có ngôn ngữ báo chí và là một thứ ngôn ngữ tồn tại độc
lập với những quy luật phát triển riêng và không phụ thuộc vào sự phát triển
của ngôn ngữ nói chung. Lại có quan niệm nữa cho rằng ngôn ngữ báo chí là
một phong cách chức năng, mà phong cách chức năng đó chính là những
khuôn mẫu trong hoạt động lời nói được hình thành từ những thói quen sử
dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng
các lớp văn bản tiêu biểu. Trong cuộc sống hàng ngày, khi giao tiếp bao giờ
chúng ta cũng phải lựa chọn giọng điệu giao tiếp cho phù hợp. Chính những
cách thức, kiểu lựa chọn ngôn ngữ như vậy tạo ra phong cách ngôn ngữ.
Ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách chức
năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng “phong cách khuôn mẫu hoạt
động trong lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có
tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn tiêu
biểu”, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ khác nhau, để khẳng
định ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang

hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách
khoa học, phong cách hành chính – công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày,
phong cách chính luận.
Vậy đâu là nét đặc thù của phong cách bào chí? Các nhà nghiên cứu đã
có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Ông Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo
chí (như tính chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn), đã chỉ ra các đặc điểm của
ngôn ngữ báo chí thuộc các phương diện từ vựng, cú pháp, kết cấu. Theo
chúng tôi, đây phần lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí
cụ thể, vì thể chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc họa diện mạo cả
một phong cách ngôn ngữ trong sự đối sánh với phong cách ngôn ngữ khác,
2
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


Còn tác giả Đinh Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm ngôn ngữ của phong
cách báo chí bao gồm: 1.Chức năng thông báo; 2. Chức năng hướng dẫn dư
luận; 3. Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng; 4. Tính chiến đấu mạnh
mẽ; 5. Tính thẫm mỹ va giáo dục; 6. Tính hấp dẫn và thuyết phục; 7. Tính
ngắn gọn và biểu cảm; 8. Đặc điểm về cách dùng từ ngữ (gồm cách dùng từ
ngữ và cách dùng khuôn mẫu biểu cảm). Dễ dàng nhận thấy là Hữu Đạt
không có sự phân định rõ ràng giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin
báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là phương tiện chuyển tải thông tin
ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không đồng loại, chỉ có các đặc
điểm thứ 6 và thứ 7 là có vẻ xác đáng hơn cả.
Tuy nhiên, các quan niệm của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt cho
thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất phát từ góc
độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lí, vì chính chức năng chứ không
phải bất cứ một yếu tố nào khác quy định các phương thức biểu đạt có tính

đặc thù của từng loại hình sáng tạo.
Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản có vai trò quan trọng hàng
đầu của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề
cập đến các sự kiện và không có sự kiện thì không có tin tức báo chí. Do vậy,
theo chúng tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là là có tính sự
kiện.
2.Theo TS Hoàng Anh, Trưởng khoa Quản lý khoa học, giảng viên
Học viện Báo chí - Tuyên truyền Hà Nội cho rằng nét đặc trưng bao trùm
của ngôn ngữ báo chí chính là tính sự kiện. Sự kiện đã tạo nên đặc điểm
của ngôn ngữ báo chí với 8 tính chất cụ thể, đó là:
* Tính chính xác
Không riêng gì phong cách ngôn ngữ báo chí, mà tất cả các phong cách
ngôn ngữ khác đều đảm báo tính chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính
chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì báo chí có chức năng định hướng
dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong sử dụng ngôn từ cũng có thể
làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai lệch thông tin, nghĩa là gây hậu quả
không lường hết, đặc biệt là đối với những thông tin chính trị, đối ngoại,
thông tin y học. Xin lấy một ví dụ, năm 2007, nhiều tờ báo Việt Nam đã dịch
và giật tít khá giật gân, như “Phụ nữ sẽ bị ung thư vú vì ăn bưởi?” hay “Phụ
nữ ăn bưởi có nguy cơ bị ung thư”… Chỉ vài ngày sau khi bản tin được truyền
đi, giá bưởi giảm từ 8.000-10.000 đồng/kg xuống còn 1.000 đồng/kg, và gây
thiệt hại không ít cho nhiều nông dân sản xuất và doanh nghiệp phân phối
bưởi. Bộ Thông tin và Truyền thông sau này cũng vào cuộc, xử phạt hành
chính các báo Khuyến học, Dân trí, Thanh Niên, Netnam, và Khoa học phổ
thông, nhưng hậu quả thì đã rồi người nông dân vẫn phải gánh chịu!
Một ví dụ khác, tháng 10/2007, bệnh tiêu chảy và tả bộc phát ở một số
tỉnh phía Bắc. Các quan chức y tế “phán” ngay rằng, qua nghiên cứu họ đã đi
3
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí



đến kết luận rằng mắm tôm là nguyên nhân của sự bộc phát bệnh. Tuy nhiên,
“nghiên cứu” mà các quan chức tuyên bố thật ra chưa bao giờ được công bố
trên một tập san có bình duyệt trước khi họ thông báo với báo chí. Nhưng
nhiều tờ báo vẫn đồng loạt đăng tải “kể tội” mắm tôm. Trong thực tế, mắm
tôm được xác định không phải là nguyên nhân của nạn dịch tiêu chảy. Đó là
một cách làm việc thiếu tính khoa học.
Một ví dụ khác về sự thiếu chính xác, cẩu thả trong việc sử dụng ngôn
từ trong đưa tin; trong bài “Người tài đang khởi xướng xu hướng từ bỏ công
sở” đăng tải trên tờ báo mạng VNExpress ngày 30/1/2008 đã viết: “Không
ngạc nhiên với hiện tượng công chức giỏi rũ áo ra đi, đại biểu Quốc hội
Nguyễn Ngọc Đào cảnh báo, nhà nước cần xem lại chính sách tiền lương và
môi trường làm việc. Nhiều người tài nhưng không đủ can đảm đánh mất
phẩm giá, "xin" chức vụ…”.
Can đảm được định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt là "mạnh bạo,
không sợ khó khăn, gian khổ," nói chung là dùng theo nghĩa khen ngợi ai đó.
Dùng "can đảm" ở đây rõ là không phù hợp mà sao chẳng để ý gì nhỉ. Câu
này nói cho đúng là người tài không chịu/không để/không chấp nhận đánh
mất phẩm giá, không thèm xin chức vụ!
Tạp chí Du Lịch số tháng 5/2007 trong bài “Regina, cà phê Ý cùng du
khách làm từ thiện” có câu: "Cà phê Regina không những tươi mà còn
nguyên chất, không pha thêm bất cứ nhiên liệu nào khác như rượu, bơ…”,.
Cà phê tươi đã khó hiểu, nhưng nói rượu, bơ là nhiên liệu lại càng khó hiểu
và thiếu chính xác!
Ngôn ngữ của bất kì phong cách nào cũng phải đảm bảo tính chính xác.
Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì
báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ xuất dù nhỏ
nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin,
nghĩa là có thể gây ra hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được.

Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang thăm Trung
Quôc, một nhà báo viết bài phóng sự, trong đó có câu: “Chúng tôi chia tay với
tình hữu nghị dạt dào của hai nước Việt – Trung”. Rõ ràng, từ “với” ở đây
không thể chấp nhận được (vì cụm từ “chia tay với…” biểu đạt ý nghĩa “từ
bỏ, từ giã”), cần phải thay nó bằng từ “trong”.
Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít
nhất 2 yêu cầu: Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm
vững ngữ pháp, có vốn từ vựng rộng, chắc và không ngừng được trau dồi;
thành thạo về mặt ngữ âm; hiểu biết phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự
kiện có thực và nguyên dạng để phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai
yêu cầu này có một mối quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà
xa rời hiện thực thì ngôn ngữ chỉ có thể “kêu” một cách rỗng tuếch, thiếu hơi
ấm nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ với độc giả.
Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn ngữ thì cũng không thể
4
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đôi khi còn
mắc lỗi tai hại cho người khác hoặc cho xã hội.
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ
đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo
không chỉ đông tới mức không xác định được họ (nhất là trẻ em) lại luôn xem
báo chí là ngọn đèn chỉ dẫn trong việc sử dụng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ
báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, đòi hỏi nhà báo phải giỏi
tiếng mẹ đẻ, (nắm vững ngữ pháp, có vốn từ vựng rộng, chắc; thành thạo về
ngữ âm, hiểu biết về phong cách). Đồng thời nhà báo phải bám sát vào sự

kiện có thực để phản ánh. 2 yêu cầu này có quan hệ mật thiết, hữu cơ với
nhau.
* Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng
hiện thực được nhà báo phản ánh, tường thuật phải cụ thể, cặn kẽ đến từng chi
tiết nhỏ. Có như vậy người đọc, người nghe mới cảm giác là mình là người
trong cuộc. Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo
ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh.
Thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được phản ánh đều phải gắn liền với một
không gian xác định, với những con người xác định. Đây chính là những yếu
tố tạo nên sự thuyết phục của thông tin, do đó trong báo chí người ta hạn chế
đến mức tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay mơ hồ. Xin
lấy một ví dụ về tính cụ thể trong một bài viết của tác giả Đỗ Doãn Hoàng một cây viết phóng sự khá nổi tiếng hiện nay, từng tốt nghiệp K13 Học viện
Báo chí Tuyên truyền. Trong phóng sự “Người hùng cắm bản”, anh viết và
tả về nỗi kinh hoàng của con vắt trên đường từ huyện lỵ Mường Nhé vào xã
ngã ba biên giới Sín Thầu; đọc xong, ai chưa từng lên đó cũng rùng mình như
vừa trải qua một “cơn mưa” vắt kinh hoàng. Anh đã viết như sau: “…Bởi, con
đường từ huyện lỵ vào Sín Thầu thật đáng sợ... Vắt ở những cánh rừng
nguyên sinh này nó độc địa hơn bất cứ nơi nào khác. Bởi nó có đủ vắt xanh,
vắt đỏ, vắt vàng, con nào cũng ương bướng và dữ dội. Trời lắc rắc mưa, vắt
bắt đầu thức dậy, nó bám chi chít dọc cây lá ven đường như đám rễ tre. Hễ có
hơi người đi qua, chúng nhảy như nong tằm tấn công... tanh tách, liu chiu!
Mỗi con vắt mang một thứ màu ma quái, con nào ra đời sau bao giờ cũng
quái đản hơn con ra đời trước. Chúng như một thứ động vật biến đổi gen với
các khả năng “phá huỷ thế giới” khủng khiếp trong phim viễn tưởng. Cách
duy nhất chống vắt bấu là... chạy; chạy ra đến bờ suối thì dầm chân dưới
nước (vắt không ở suối) cầm gói vôi bột với thuốc lào mà nện vào chân mình.
Nện một cái vắt buông mình rơi ra, thoắt cái mà người nó đã no tròn như cái
bẹ cau con. Vắt ta thoả chí buông mình xuống suối không quên bỏ lại trên
5

Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


chân người đi rừng những vệt máu không tài nào đông được, giống như một
sự trả thù, như một tiếng cười mỉa…” .
Đoạn trích sau đây trong tác phẩm ghi nhanh “Đêm trắng nhà tang lễ”
của K.Em - Đ.Nam - V.Hùng là một minh chứng cụ thể:
Đúng 13 giờ 30, 12 chiếc xe chở thi hài các nạn nhân trong vụ tai nạn
khủng khiếp trên đường Hồ Chí Minh rời Đà Nẵng. Theo chỉ đạo của ngành
giao thông vận tải, đường hầm Hải Vân đã mở cửa để đoàn xe đi qua thuận
tiện và nhanh chóng hơn.
Ngay từ 5 giờ sáng, những nẻo đường dẫn vào Nhà tang lễ Viện quân y
C17 (Quân khu 5) chật cứng người thân. Họ đến từ Hà Nội, Vinh, Bình Định
và TP.HCM bằng tất cả những phương tiện có được.
Đúng 6 giờ sáng hôm nay, 6 chiếc xe Zin 130 chở 31 thi hài đã về đến
Đà Nẵng. Vây quanh những chiếc xe là những người thân, bạn bè của những
cựu chiến binh xấu số. Và dù rất bình tĩnh nhưng anh Trần Trọng Long, con
cả của trưởng đoàn tham quan Trần Trọng Cáp vẫn nấc trong nghẹn ngào
"Ba tôi vừa gọi điện bảo tôi (Anh Long hiện đang công tác tại TP.HCM-PV)
rằng khi nào vào đến TP.HCM thì ba sẽ gọi con đến đón, con không nên
trông ngóng làm gì. Ba đi cùng với rất nhiều đồng đội nữa mà".
Trong cái nắng ban mai đầy nguội lạnh của một buổi sáng bên khu nhà
tang lễ, sáu chiến xe Zin chở 31 thi hài xấu số lầm lũi tiến vào. Tiếng người
thân thóc thét nghe đến nao lòng. 9g30 phút những người thân từ Hà Nội tiếp
tục "bay" vào bằng đường hàng không mặc dù việc mua vé máy bay thời điểm
đó không hề dễ dàng một chút nào cả.
Cả một cảnh tượng, một bức tranh trải dài trong đêm tại nhà tang lễ
Bệnh viện Quân y C71 được dựng lại hết sức chân thực nhờ sự miêu tả một
loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc những đoạn viết

trên, độc giả có thể hình dung được mình cũng đang trải qua một cuộc hành
trình đầy gian nan, vất vả và diễn biến của vụ tai nạn khủng khiếp trên đường
Hồ Chí Minh ngày 21-4-2005. Đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông,
thương tiếc vô cùng những người thương binh, bệnh binh đi thăm chiến
trường xưa.
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ ghi nhanh còn nằm ở việc tạo ra
sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện
được đề cập trong tác phẩm báo chí nói chung và ghi nhanh nói riêng đều
phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định, với những con người
cũng xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính,…). Đây là cội
nguồn của sự thuyết phục vì nhờ những yếu tố đó mà người đọc, người nghe
có thể kiểm chứng được thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngôn ngữ
ghi nhanh nên hạn chế tối đa việc dùng từ ngữ, cấu trucs không xác định hay
có ý nghĩa mơ hồ kiểu như: “một người nào đó”, “ở một nơi nào đó”, “vào
khoảng”, “hình như”,…
6
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


* Tính đại chúng
Nhà báo vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta khi nói về nghề báo đã từng
căn dặn: “Kinh nghiệm của tôi là thế này : mỗi khi viết một bài báo, thì tự
đặt câu hỏi : Viết cho ai xem ? Viết để làm gì? Viết như thế nào cho phổ
thông, dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc?”. Trong sử dụng ngôn ngữ, Người đặc biệt
quan tâm đến việc học hỏi lời ăn tiếng nói của quần chúng, giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt, không ngừng làm phong phú thêm tiếng Việt và chính
Người gương mẫu thực hiện điều đó. Không kể 2 tác phẩm chính luận bất hủ
của người là “Tuyên ngôn độc lập” hay “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” mà trong hơn 2.500 bài báo của Bác chúng ta đều bắt gặp ngôn ngữ

giản dị, đại chúng, gần gũi và dễ hiểu, mấy chục năm đã qua mà văn phong,
ngôn từ vẫn không bị lạc hậu, “cổ”, hay khó hiểu. Lấy ví dụ trong những năm
chống Mỹ, Bác đã thay thế từ “nữ dân quân” bằng từ “dân quân gái”; từ “phi
công” bằng “người lái”; phong trào thi đua “Ba đảm nhiệm” bằng phong trào
thi đua “Ba đảm đang”... , đó là những ngôn ngữ thuần Việt, gần gũi và dễ
tiếp nhận với đông đảo quần chúng.
Báo chí, truyền hình là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi
người trong xã hội không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa
vị xã hội, lứa tuổi, giới tính,… đề là đối tượng phục vụ của báo chí: đây là nơi
họ tiếp nhận thông tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì
thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức
là tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi,
thấp kém. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng của Nga V.G.
Kostomarov đã nói: “Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công
chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không cảm
thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt cũng không thấy khó hiểu”.
Thật vậy, bản chất của báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi
người trong xã hội đều là đối tượng phục vụ của báo chí. Báo chí là nơi họ
tiếp nhận thông tin và cũng là nơi họ quần chúng bày tỏ quan điểm, ý kiến của
mình. Một trong những chức năng của báo chí chính là định hướng dư luận xã
hội, nếu ngôn ngữ báo chí không đại chúng thì có nghĩa là báo chí khó có thể
thực hiện chức năng này.
Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho đối tượng
hạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện chức năng tác động vào mọi
tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do
khiến cho trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên
ngành hạn hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay
mượng tiếng nước ngoài.
Báo chí ta ngày nay có phần lạm dụng tiếng nước ngoài và từ gốc
ngoại. Như một cái mốt lan tràn, người ta thích dùng tử vong hơn chết, mất,

qua đời; thai phụ thay người đàn bà mang bầu; hồi gia chứ không trở về nhà;
di lý xuất hiện nhiều hơn giải, áp giải, lao động bán thời gian chứ không làm
7
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


việc ngày một buổi, nửa thời gian…vv, cái “mốt” này vô hình dung làm
nghèo tiếng mẹ đẻ, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.
* Tính ngắn gọn
Sinh thời Bác Hồ vẫn căn dặn các nhà báo, vấn đề là không phải viết
dài hay viết ngắn “dài nhưng mỗi câu, mỗi chữ có một ý nghĩa, có một mục
đích, không phải là rỗng tuếch”. Bài báo chỉ dài dòng “dây cà ra dây
muống”, ngôn ngữ màu mè, thiếu trong sáng khi nó không mang thông tin
cần thiết đến cho người đọc.
Ngôn ngữ báo chí cần súc tích, ngắn gọn. Sự dài dòng có thể làm loãng
thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe.
Thêm vào đó, trong xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, viết dài không phù
hợp vì nó làm tốn thời gian, hạn chế dung lượng tiếp nhận thông tin của công
chúng, đó là chưa kể viết dài còn dễ mắc lỗi về ngôn ngữ (chính tả, văn
phong…). Trên thực tế khảo sát cho thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ
pháp trong các tác phẩm ghi nhanh báo chí có liên quan đến việc nhà báo ham
mở rộng các thành phần phụ mà quên mất các thành phần chính của câu.
Ví dụ các tiểu phẩm của nhà báo Hữu Thọ rất ngắn nhưng đầy chiêm
nghiệm, đúc kết, nhưng cũng thực tiễn, có tính chiến đấu cao. Khi thì ông đề
cập đến chuyện "Lại quả", "Mua tàu biển được tặng ô tô" chả khác gì thời đi
học, trẻ con "mua vở được tặng ruốc", vở xấu cũng mua, vì tiền bố mẹ chứ
đâu phải tiền mình. Kết quả chỉ Nhà nước thiệt, còn cá nhân lợi lớn ("Gói
ruốc và chiếc ô tô").
* Tính định lượng

Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị
giới hạn trong một khoảng thời gian hay diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa
chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh
được đầy đủ sự kiện mà không vượt qua khung cho phép về không gian và
thời gian.
Hiện tại không ít cơ quan báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên viết
tin, bài không được vượt quá một lượng chữ nhất định, nếu ai có “quá tay” thì
biên tập viên có quyền “cắt, gọt” cho nó nhỏ, hẹp phù hợp với diện tích và cơ
cấu một chương trình. Báo Lao Động chẳng hạn, với một phóng sự, toà soạn
yêu cầu viết không quá 1.500 từ (trừ những bài 2 kỳ), kèm theo 3 ảnh. Đài
Truyền hình Việt Nam, qui định các tin (trừ tin tường thuật), không quá 40
giây…vv. Tuy nhiên, do đặc thù của từng tờ báo, tính định lượng này có thể
“co giãn”; ví như tờ An ninh Thế giới, nếu viết phóng sự có độ dài dưới 2.000
từ thường bị chê là ngắn, không xứng “tầm” (tất nhiên còn phụ thuộc
vào đề tài, sự kiện nhà báo cần phản ánh)!?
Theo bài “Đặt tít ngắn có dễ?” trên trang Web Nghề báo
(nghebao.com), có những tít rất dài như “Hội thảo đổi mới giáo dục đại học
8
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


Việt Nam – Hội nhập và thách thức” (tít này có 64 ký tự) sau khi được sửa lại
là “Hội thảo đổi mới giáo dục đại học” (còn 33 ký tự). Chúng ta có thể nhận
ra tít báo sau khi được sửa có dung lượng chỉ bằng phân nửa tít trước nhưng
nội dung chính vẫn được giữ nguyên. Vậy sao bắt độc giả ngồi đọc những tít
dài lê thê và khiến cho họ cảm thấy “tức mắt” như vậy?
Bài viết trên cũng đã đưa ra chuẩn mực cho một tít báo khoảng dưới 50
ký tự, theo đó là một vài gợi ý nhỏ khi viết tít:
- Bỏ những từ thừa

- Bỏ các từ “có cũng như không” như: của, về, được,…
- Bỏ “các”, “những” nếu có thể
- “Chặt” chữ trong từ thừa nếu được, ví dụ như chọn các từ in đậm
trong: “thành lập”, “sang thăm”, “phòng chống”, “tham dự”,…
- Tránh câu bị động
- Không nhất thiết lúc nào cũng phải nói là Việt Nam.
Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được
thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm.
* Tính bình giá
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn
thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá.
Có lẽ trong các thể loại báo chí, chỉ có tin vắn, tin ngắn là ít hoặc không có
tính bình giá mà thôi. Sự bình giá này có thể là tích cực mà cũng có thể tiêu
cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua
ngôn từ. Những câu văn mang sắc thái bình giá của người viết chúng ta
thường gặp trên trong các thể loại: phóng sự, bình luận, xã luận, phóng sự, ghi
chép…Nhiều bài báo đã bộc lộ thái độ, cảm xúc của của tác giả ngay ở tít bài,
ví dụ: “Giáo dục Điện Biên: Cuộc hành quân tiến về… phía sau!?”; “Đọan
đường chết trên con đường đẹp”; “Di tích lịch sử Điện Biên Phủ: Của tin còn
một chút này”; “Chuyện buồn ở bản Vọng phu”; “Khóc vì… xe máy"; „Thuỷ
điện nhỏ nhưng nguy hiểm lớn”; “Bệnh thành tích và tính mạng con
người”…vv.
* Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong báo chí nói chung và ghi nhanh nói riêng gắn liền
với việc sử dụng từ ngữ mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn của cá nhân,…
Ví dụ như:
“Sông Tô mà không lịch” (Báo Văn hóa, 17-5-1999)
Ngôn ngữ báo chí nếu không có tính biểu cảm thì những thông tin khô
khan mà nó chuyển tải khó có thể được công chúng tiếp nhận như mong
muốn, vì chúng mới chỉ tác động vào lí trí của họ. Tính biểu cảm chính là

9
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


hiện thân của cái hay, cái hấp dẫn, nó tác động mạnh mẽ vào tâm hồn người
đọc, người nghe, làm cho học đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định,
rồi từ đó có những hành động trong thực tiễn.
Nguồn gốc của sự biểu cảm ngôn ngư báo chí là vô cùng phong phú và
đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, là sự vay
mượn các hình ảnh, từ ngữ, là lối chơi chữ, nói lái, ẩn dụ. Tính biểu cảm của
ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối nói mới lạ, giàu
hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó nó sinh động, hấp dẫn với người
đọc, người nghe. Ví dụ, với kiểu chơi chữ, nhà báo Hồ Chí Minh cũng là một
bậc thầy, rất nhiều lần Bác chơi chữ “Mỹ mà xấu”, “Tay-lo rồi chân cũng lo”
hoặc đưa vào tiếng Việt những ký tự độc đáo : “Zôôn (Tổng thống Giôn-xơn)
vừa thiu thiu ngủ liền mơ thấy tổng Ken (Tổng thống Ken-nơ-đi) bước vào”.
Một số ví dụ độc đáo khác: “Tiếng than từ vùng than”; “Từ màn bạc đến két
bạc”; Giám đốc thành … dám liều”; Sầu riêng với nỗi buồn chung”; Sông Tô
mà chẳng lịch”…vv.
* Tính khuôn mẫu
Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm “khuôn mẫu”. Khuôn mẫu là
những công thức ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự đọng
hoá qui trình thông tin, làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính.
Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt trong nhiều phong cách chức năng của
ngôn ngữ. Ví dụ thông tin khi đưa trên báo bao giờ cũng phải thoả mãn tối
thiểu 6 câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Như thế nào và tại sao? Thứ tự
các câu hỏi này có thể sắp xếp tuỳ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Trong văn phong báo chí, khi viết các mầu tin, người ta thường dùng

các khuôn mẫu như: “TTXVN, ngày….., người phát ngôn Bộ Ngoại giao …
cho biết…” hoặc “Sáng nay, tại………., đã khai mạc…..”; “Theo nguồn tin
riêng của…., Thủ tướng…. đã khẳng định…”,vv.
Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và
công sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời.
Nếu như phong cách ngôn ngữ trong văn bản hành chính công vụ hay
văn bản khoa học thường khô khan và thuần nhất, tính khuôn mẫu của cách
thức diễn đạt đạt tới mức tối đã, nghĩa là không còn chỗ cho các thành tố biểu
cảm thì ngôn ngữ báo chí thường mềm mại, hấp dẫn hơn nhiều bởi có sự kết
hợp hài hoà giữa tính khuôn mẫu và tính biểu cảm. Chẳng hạn, một thông tin
trên báo về nguyên tắc phải thỏa mãn 6 câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bao giờ?
Như thế nào? Tại sao? nhưng thứ tự trả lời các câu hỏi đó có thể sắp xếp khác
nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Bên cạnh đó, các thành tố khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn
kết hợp hài hòa với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí thường
10
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


rất mềm mại, hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản hành
chính, là nơi người ta sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
* Tính quốc tế một đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
Ngoài 8 đặc điểm cơ bản trên, thời gian gần đây, nhiều nhà nghiên cứu
đã cho rằng đặc điểm của ngôn ngữ báo chí có tính quốc tế. Mặc dù trong các
giáo trình xuất bản gần đây chưa đề cập, nhưng trong các bài nghiên cứu đăng
tải trên các tạp chí và kỷ yếu khoa học một số tác giả đã khẳng định đặc điểm
này.
Thật vậy, khoảng gần một thập kỷ gần đây với sự bùng nổ của hệ thống
thông tin đại chúng trong xu thế toàn cầu hoá đã thực sự đưa nhân loại bước

vào thời kỳ toàn cầu hoá truyền thông đại chúng. Trong bối cảnh công nghệ
thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, đặc biệt là với báo mạng internet, vệ
tinh nhân tạo, cáp quang… thì điều kiện tiếp cận thông tin của công chúng
ngày càng dễ dàng và thuận lợi. Các sản phẩm truyền thông ngày càng giảm
thiểu các rào cản về ngôn ngữ; con người có thể tiếp cận gần như cùng một
lúc với mọi tin tức trên thế giới.
Một số ngôn ngữ đã trở thành ngôn ngữ của toàn thế giới sử dụng như
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc. Đặc biệt, trong thời đại của công
nghệ và toàn cầu hoá, tiếng Anh ngày càng thống trị thế giới mà không một
thứ tiếng nào có thể làm được. Giờ đây, một số nhà ngôn ngữ còn cho rằng,
tiếng Anh có thể không bao giờ bị phế truất khỏi ngôi vị vua của các ngôn
ngữ; nó trở thành ngôn ngữ toàn cầu, các ấn phẩm xuất bản bằng tiếng Anh
xuất hiện phổ biến không chỉ ở những nước có nền kinh tế và nền báo chí phát
triển mà cả ở những nước đang phát triển và hội nhập, như Việt Nam chẳng
hạn. Tiếng Anh thống trị thế giới trong một cách mà không ngôn ngữ nào
trước đó làm được. Khi thiên niên kỷ mới bắt đầu, các nhà học giả ước tính
khoảng 1/4 dân số thế giới có thể giao tiếp ở một chừng mực nào đó bằng
tiếng Anh.
Tiếng Anh là ngôn ngữ thông dụng trong hầu hết các lĩnh vực, từ khoa
học, kiểm soát lưu không, tới thánh chiến Hồi giáo với trùm khủng bố Bin
Laden - tiếng Anh vẫn là phương tiện thông tin giữa những người nói tiếng
Ảrập với phần còn lại của thế giới. Ngày nay, ngôi vị thống lĩnh của tiếng
Anh càng được củng cố khi nó là ngôn ngữ của Internet, nơi 80% thông tin
của thế giới được lưu giữ bằng tiếng Anh. Ngay tại Châu Á hiện người ta
cũng ước tính có trên 350 triệu người nói tiếng Anh…

11
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí



II. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÁC THỦ PHÁP TẠO GIÁ
TRỊ BIỂU CẢM CHO NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
1. Thế nào là sự biểu cảm trong ngôn ngữ
Ngôn ngữ vốn là tài sản vô giá của con người. Nó là phương tiện để
con người có thể thay thế giao tiếp với nhau và hiểu biết lẫn nhau, đồng thời
làm cho cộng đồng người nói như chủ tịch HCM thì "Ngôn ngữ là tài sản rất
lâu đời và rất quý báu của dân tộc". Không có ngôn ngữ thì sẽ không có cộng
đồng người và ngược lại không có cộng đồng nào lại không có ngôn ngữ.
Trong giao tiếp cùng một lúc ngôn ngữ thực hiện hai chức năng. Truyền đạt
thông tin và nhận thức. Để việc truyền đạt thông tin và nhận thức có hiệu quả
thì không chỉ phải sử dụng ngôn ngữ đúng, trùng mà còn phải hay tức là phải
có sức biểu cảm bởi sự biểu cảm trong ngôn ngữ làm tăng giá trị của thông tin
lên rất nhiều, từ đó có tác động tích cực đến đối tượng được truyền đạt thông
tin.
Biểu cảm (expressive) là tính năng thuộc các thành tố ngôn ngữ đối lập
với khuôn mẫu giá trị biểu cảm được tạo lập là nhờ việc sử dụng các thành tố
ngôn ngữ mới lạ giầu hình ảnh vì thế sinh động và hấp dẫn đối với người
nghe, người đọc (ở đây khuôn mẫu (stereotype) là những công thức ngôn ngữ
có sẵn được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin làm
cho nó trở nên nhanh chúng ta thuận tiện hơn).
Như vậy có thể hiểu biểu cảm trong ngôn ngữ, là sự sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật về ngôn ngữ, câu từ, về câu, ngữ điệu nhằm tạo ra các giá trị
cảm xúc thẫm mỹ ở tâm lý của chính người sử dụng.
Dùng các giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ giúp cho người đọc người
nghe dễ tiếp nhận những thông tin mình đưa ra và đồng thời gây nên một sức
mạnh to lớn kích thích những yếu tố cảm xúc trong tâm lý con người. Do biểu
cảm thường mang màu sắc cá nhận rõ nét (tuy nhiên cũng có những thành tố
biểu cảm mang tính xã hội cao như ca dao, dân ca, tục ngữ, nên dễ tạo sự độc
đáo mới mẻ…) Tuy nhiên phải sử dụng ngôn ngữ biểu cảm phải đúng chỗ,

đúng liều lượng nếu không rất rễ gây nên những phản cảm. Vì thế người cầm
bút phải hiểu rõ mối quan hệ giữa biểu cảm và khuông mẫu dễ có thể sử dụng
thành thục chúng, phục vụ đắc lực cho ý đồ, ý tưởng của mình trong sáng tạo
tác phẩm.
Báo cáo dùng ngôn ngữ làm phương tiện chính để phản ánh hiện thực
đời sống xã hội, phản ánh các sự kiện vấn đề, mâu thuẫn nảy sinh…
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội báo chí đã và đang trở
thành "người bạn tinh thần" không thể thiếu song hành cùng con người. Vì thế
báo chí rất cần sử dụng các thử pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm trong ngôn
ngữ của mình để gây ấn tượng, tạo dựng mối quan hệ thân thiết cảm giác gần
gủi với độc giả.
12
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


2. Những thể loại báo chí sử dụng các thủ pháp nhằm tạo giá trị
biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí.
Như ta đã biết, báo chí có 3 mảng thể tài chính: Thể tài tin tức (bao
gồm tin một câu, tin vắn, tin ngắn, tin thường, tin sâu, tin bình, tin tổng hợp,
tin kết hợp) thể tài phản ánh (phóng sự, điều tra, phỏng vấn, tường thuật, ghi
nhanh, bài người tốt việc tốt…) thể tài chính luận (bình luận xã luận, chuyên
luận, đàm luận, phiếm luận, luận văn tuyên truyền) ngoài ra còn có mảng thể
tài văn nghệ trên báo chí. Mỗi thể loại nằm trong các mảng thể tài này đều có
đặc điểm riêng, đặc điểm thể loại quy định cách viết (cách thể hiện) trong việc
chuyển tải thông tin tới công chúng: Ví dụ tin thì đòi hỏi phải có tính thời sự,
cập nhật, chính sác và phải ngắn gọn, để đảm bảo tính thời sự của sự kiện nên
người ta chỉ phản ánh ở những lát cắt của sự kiện và theo những khuôn mẫu
có sẵn với cách thể hiện trung tính (cái tôi tác giả không biểu hiện rõ) như địa
điểm sảy ra sự kiện, thời gian, sảy ra như thế nào, nguyên nhân. Trong khi đó

một số thể loại báo chí khác như phóng sự, ghi nhanh … cần đi sâu tìm hiểu
bản chất vấn đề, của sự kiện và lý giải một cách tỷ mĩ cặn kẽ để người đọc có
thể hiểu được tương đối tường tận.Vì vậy nên phải sử dụng lối viết giầu hình
ảnh sử dụng ngôn ngữ biểu cảm thu hút người đọc nhiều hơn tạo sự hứng thú
không gây nhàm chán.
Việc sử dụng các từ ngữ, lối nói giầu hình ảnh độc đáo sinh động hấp
dẫn thường rất ít được sử dụng trong mảng đề tài chính luận và đặc biệt là
mảng thể tài tin tức vì chúng thường đề cập đến những vấn đề sự kiện chính
trị - xã hội đòi hỏi tính chính xác, nghiêm túc và tính khoa học cao. Tuy nhiên
không phải là những dạng bài phản ánh là không quan trọng mà do đặc điểm
thể loại những bài phóng sự, điều tra…
Cung cấp cho độc giả một bức tranh toàn cảnh sinh động về các sự kiện
các vấn đề tốt xấu… trong dòng chảy thời sự của sự kiện (chứ không phải là
những lát cắt như tin ở trên đã nói) muốn làm được điều đó phải sử dụng các
thủ pháp biểu cảm trong ngôn ngữ.
Tất nhiên những phân định ở trên chỉ mang tính chất tương đối theo ý
chủ quan của người viết vì chung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các thể loại báo chí đều có thể sử dụng các thủ
pháp ngôn ngữ biểu cảm (loại trừ một số thể loại như tin).
Vấn đề là ở chỗ sử dụng chúng lúc nào, chỗ nào để có thể đạt hiệu quả tuyên
truyền, truyền tải thông tin định hướng tư tưởng, đường dẫn dư luận xã hội
một cách tích cực nhất.

13
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


III. CÁC THỦ PHÁP NHẰM TẠO GIÁ TRỊ BIỂU CẢM CHO
NGÔN NGỮ BÁO CHÍ

1. Vai trò, tác dụng của các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho
ngôn ngữ báo chí.
Macxin Gorki nói: Không có mặt trời không có hoa nở, không có bà mẹ
không có anh hùng. Chúng ta cũng có thể khẳng định: trong ngôn ngữ nói
chung và ngôn ngữ báo chí nói riêng, không sử dụng các thủ pháp nhằm tạo
giá trị biểu cảm là đã mất đi một nữa thông tin, một nữa sự thành công (loại
trừ một số dạng không thể sử dụng đặc điểm này do tính chất thể loại của nó
quy định) bởi báo chí có nhiệm vụ phải chuyển tải thông tin nhanh chóng, cập
nhật không chỉ đến cái đầu của công chúng mà phải đến cả trái tim của công
chúng. Vì thế các thủ pháp biểu cảm có vai trò to lớn và tác dụng tích cực
trong báo chí mà biểu hiện cụ thể là:
* Vai trò.
- Các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí là công
cụ phương tiện hữu hiệu chuyển tải thông tin tới độc giả. Phương tiện này
không thay thế bằng bất kỳ phương tiện nào khác bởi không gì có thể so sánh
được với tính chất dễ sử dụng, tính đa nghĩa, giàu thông tin của chúng (các
thủ pháp biểu cảm).
- Tạo điều kiện cho người làm báo cáo có thêm kinh nghiệm trong việc
sử dụng ngôn ngữ.
- Các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm là người bạn đồng hành không thể
thiếu đối với ngôn ngữ báo chí bởi sự liên quan mật thiết giữa chúng: các thủ
pháp biểu cảm nâng cao giá trị, ý nghĩa của ngôn ngữ báo chí, còn ngôn ngữ
báo chí tạo điều kiện để các thủ pháp này có "cơ hội" xuất hiện, giúp định
hình những phong cách viết khác nhau.
* Tác dụng.
- Tạo sự đa dạng, phong phú, sinh động, hấp dẫn trong việc thể hiện nội
dung tác phẩm báo chí/
- Tăng giá trị biểu đạt, sự hàm súc, cô động, tính sâu sắc cho tác phẩm
báo chí
- Lôi cuốn độc giả, tạo cho độc giả niềm đam mê độc báo.

- Cung cấp cho nhà báo kỹ năng, phương pháp sử dụng ngôn ngữ báo
chí một cách uyển chuyển linh hoạt.
- Tạo điều kiện cho các chuyên gia về ngôn ngữ học có cơ sở thực tế
nghiên cứu và rút ra những giải pháp tốt hơn cho việc sử dụng ngôn ngữ báo
chí nói riêng ngôn ngữ nói chung.

14
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


2. Các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí.
2.1. Mượn chất liệu văn học:
VD1: Nước sông Vĩ lên to, nhà giầu nọ có người chết đuối. Có người
vớt được xác, nhà giàu đến xin chuộc, người ấy đòi giá quá cao, nhà giàu
chưa biết tính toán thế nào bên đến hỏi Đặng Tích. Đặng Tích bảo:
Nó còn bán cái xác ấy cho ai được mà cần. Cứ yên.
Kẻ vớt được xác thấy nhà giàu không đến nữa, đâm lo. Bên đến hỏi
Đặng Tích. Đặng Tích bảo:
Nó làm sao mua được cái xác ấy ở người khác. Cứ yên.
Chuyện lan ra, mọi người bảo Đặng Tích tuy là người có uy tín nhưng
lại làm sai lẽ phải, thiếu cả tình. Đó là hạng người hai phải.
Người khác bàn thêm. Hạng người hai phải cũng nguy hiểm nhưng
không đáng sợ bằng hạng người hai mang, vừa ăn lương Nhà nước, làm việc
ở cơ quan công quyền miệng thì gào lên chống tham nhũng, chống tệ nạn xã
hội nhưng lại bảo kê cho bọn xã hội đen để hưởng lợi.
Vậy nữa sao ?
Không đọc báo, nghe đài hay sao. Đồng tiền đã góp phần biến họ ra
vậy đó!
- Ông chỉ đỡ vậy. Phẩm chất của họ mới là cái chính chứ.

- Dẫu sao họ cũng bỏ phí cả một quá khứ huy hoàng của chính mình
(Hai phải - hai mang! Lao động số 132/2002 ra này 25 . 5 . 2002)
VD2: Những người có mặt cả họ nhà trai lẫn nhà gái đều cười nghiêng
ngã … sau khi "qua 5 ải chém 6 tướng" rồi cũng đến cửa ải cuối cùng, cũng
là cửa ải chú rể "đau lòng" nhất….
(Đám cưới ở Nga - những điều lý thú - Tiền phong số 7, báo tiền phong
ra ngày 17.2.2002)
VD3. Hoặc … ngày 15/5 Leverkusen sẽ chơi với trận chung kết tranh
cúp Đức với Schaltre 04 trước khi gặp Real Madrid trong trận tranh cúp C1.
Không biết CLB này sẽ thi đấu ra sao. Cấu chúc cho ước mơ ban đầu của họ
không trở thành "miếng da lừa"
(Kẻ phá bĩnh gặp người khổng lồ TP số 19, ra ngày 12.5.2002)
Mùng 7 bắt đầu đến lớp học, cô ấy cùng gió tuyết chiều này ra với bạn
bè, sai, bắt đầu đóng vai "Mạnh Thường Quân" rút phong bao lì xì trước.
Túi 18 gang tâm sự - Thiếu niên tiền phong số 24 tháng 2.2002
Sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, cốt truyện từ các tác phẩm văn học làm
cho câu văn trở nên giầu tính biểu đạt hơn cô đọng và tinh tế hơn. Cách sử
15
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


dụng này thường mang tính khái quát hoá và điển hình hoá, ví như nói tới một
anh chàng Sở Khanh là người ta hình dung ngay ra đó là người chuyên môn
đi tán tỉnh lừa gạt tình cảm các cô gái, nói đến Tú Bà người ta biết ngay đó là
từ dùng để chỉ mụ chứa gái mại dâm…vv..
Ở các ví dụ trên tì ở ví dụ 1 tác giả đã mượn cốt chuyện cổ và đưa vào
đó những dữ kiện của thời hiện đại. Ở phần đầu truyện là giữ nguyên phần
sau đã thay đổi tình tiết làm cho người đọc có thể liên tưởng được ngay sự
việc mà tác giả muốn đề cập.

Ở ví dụ 2: tác giả đã mượn tình tiết trong Tam Quốc Diễn Nghĩa "Qua
5 ải chém 6 tướng" của Quan Công để nói lên những khó khăn mà chú rể phải
trải qua khi đến rước dâu theo phong tục của người Nga.
Ở ví dụ 3 hình ảnh "miếng da lừa" làm ta nghĩ ngay đến câu chuyện
"Miếng da lừa" của nhà văn pháp Ban - Giắc nói về một người với những ước
mơ của mình ngày càng nhỏ dần nhỏ dần ở đây tác giả cũng muốn ước mơ
của R CLB Real Madrid không kết thúc như câu chuyện đó.
Còn ở ví dụ 4 nói "Mạnh Thường Quân"độc giả biết ngay đó là từ dùng
để chỉ con người hào hiệp rộng lượng luôn sẵn lòng ra tay giúp đỡ người
khác…
Tuy nhiên khi sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, cốt truyện… từ các tác
phẩm văn học, cần phải lấy những ví dụ điển hình hoặc đã được phổ biến
rộng rãi để người đọc ai cũng hiểu. Cả 4 tờ báo được cả khảo sát đều chú
trọng và làm tốt điều này.
2.2. Chơi chữ, nói lái
Nghe thông tin từ ông Nguyễn Lê - phó Giám đốc công ty thoát nước
Hà Nội - mà thấy rầu cả lòng. Theo ông lê, với những trận mưa trên 50mm
trong ba giờ thì có thể có tới hơn 30 đường phố Hà Nội bị úng ngập trong
mùa mưa 2002 này. Sức nhờ số điểm ngập úng cụ bộ ở Hà Nội mùa mưa năm
ngoài cũng là 30 30 bằng 30 tình hình úng ngập năm nay đúng là "vũ như
cẫn….."
Úng ngập "Vũ như cẫn " - Lao động số 122 ra ngày 15 - 5 - 2002
Những năm ở Đường 7, sáng có quen biết một tài xế người Bắc rồi hai
người bén duyên nhau. Đúng là anh "tài" đã "xế" vào cuộc đời sáng…." Viết
tiểu thuyết của đời mình Tiền phong số 7 ra ngày 17-2-2002.
Chơi chữ nói lái được sử dụng trong trường hợp muốn tại sự vui vẻ, di
dỏm hoặc nhằm diễn tả một sự việc tế nhị mà không tiện nói thẳng ví dụ như
"nguyễn y vân", vũ cẫn (nói lái) hoặc để nhấn mạnh ý mình định nói nhấn
mạnh tầm quan trọng của vấn đề, tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau (chơi chữ)
kiểu như; Sông Tô mà chẳng lịch, "Những kẻ chỉ đào mà không tạo" hoặc như

ví dụ "tài xế" (chỉ người lái xe) nhằm ám chỉ sự quá lứa và không tốt của
người tài xế. Báo Tiền phong và Lao động hay sử dụng thủ pháp này.
16
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


Muốn cho chơi chữ nói lái có hiệu quả vừa báo phải có khả năng vận
dụng linh hoạt từ ngữ và biết dùng như thế nào, trong trường hợp nào và ở
chỗ nào trong bài báo cho thật "đắc địa".
2.3. Dùng cách diễn đạt giầu hình hình ảnh (tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn,
châm ngôn…)
Theo từ điển tiếng việt, thành ngữ là nhóm từ cố định đi với nhau để
nói lên 1 ý gì đó (ví dụ. "ngựa quen đường cũ") tục ngữ là câu nói tóm tắt
kinh nghiệm của người đời và thường được kể ra trong cuộc giao tế của xã
hội (ví dụ trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa") danh ngôn là lời nói hay
được nhiều người truyền tụng….
Nhưng trong báo chí thì việc sử dụng các thủ pháp này rất linh hoạt.
Thành ngữ, tục ngữ được giữ nguyên dạng ví dụ như:
…." Tên cướp đó tên Nguyễn Văn Thi đã từng hai lần vào tù vì tội "cưỡng
đoạt tài sản công dân" nay vừa được ra tù vài tháng, mặc dù có sức khoẻ
nhưng vẫn không chịu lao động kiếm sống một cách lương thiện mà vẫn mắc
chứng "ngựa quen đường cũ"
(Mọi người gọi anh là Lục Vân Tiên Tiền phong số 101 21.5.2002)
Hay là sử dụng một vế hoặc thêm yếu tố mới như:
"Độ này mặt tôi bỗng nhiên bị mụn trứng cá nổi lên ầm ầm, trông đến
là khổ coi" "có … mụn thì vái tứ phương", tôi nghe ngóng khắp nơi xem có
phương thuốc gì trị, được bệnh không?
(Kỹ năng làm đẹp Thiếu niên tiền phong số 32 tháng 3.2002)
Nguyên dạng của câu tục ngữ này là "có bệnh thì vái tứ phương" Tác

giả đã thay đổi từ trong đó để tạo nên sự hài hước, dí dỏm đỡ khổ cứng cho
bài viết.
Sử dụng các thủ pháp này làm cho bài báo sinh động, hấp dẫn và có sức
thuyết phục, có độ tin cậy cao, tránh được những câu văn diễn đạt rườm rà…
vì nếu quá lạm dụng sẽ gây ra sự lặp lại, không có sự phá cách trong diễn đạt
ở bài báo.
2.4. Dùng ẩn dụ:
Ẩn dụ là kết quả rút gọn của phép so sánh, là sự chuyển đổi bên ngoài
dựa trên sự giống nhau giữa các sự vật hiện tượng.
Ví dụ:
"…. Ở VCK World Cup 2002 tới đây đương nhiên sẽ có các tiền đạo đi
bóng ngoằn nghèo và các "tiều phu" (những thợ chặt rừng) của các hàng
phòng ngự sẽ tìm cách đốn gục. Khi ấy các "cầu thủ thứ 23" sẽ phải rất cẩn
thận mà huýt còi, kéo huýt sai sẽ khốn khổ với "búa rìu" dư luận."
17
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


(Cầu thủ thứ 23: - Thiếu niên tiền phong số 59 tháng 5-2002) h …"
hoặc "…Cũng như nhiều cầu thủ trẻ khác Ibrahimovic cũng có "gót chân
Achibles" của riêng mình…"
(Lao động số 122 ra ngày 15.5.2002)
Hình ảnh "Tiều phu" ở ví dụ thứ nhất muốn nói tới lối chơi sấu của các
cầu thủ và "cầu thủ thứ 23" chỉ người trọng tài điều khiển trận đấu. Còn nói
gót chân Achilles" là chỉ những nhược điểm của cậu thủ Ibrahimovíc.
Ở cả 2 ví dụ người viết đã sử dụng lỗi nói ẩn dụ gợi sự liên tưởng thú vị
cho người đọc. Sử dụng thủ pháp này không chỉ làm cho câu văn cô đọng,
hàm súc mà còn để cho độc giả có cơ hội hình dung một cách khá rõ về sự vật
hiện tượng, làm cho họ dễ nhớ hơn và cảm thấy thích thú khi tiếp nhận.

2.5. Sử dụng khẩu ngữ.
Đó là những từ thường nắm trong vốn từ vựng văn hoá chuyên được
dùng trong lời nói miệng. Chúng có đặc trưng là thân mật, bình dân thậm chí
xuống xã, đối lập hẳn với ngôn ngữ trang trọng được sử dụng trong nghi lễ
ngoại giao hoặc ngôn ngữ cứng nhắc đầy tính khuôn mẫu trong văn phòng
khoa học.
Ví dụ:
"Nhìn bà cũng được đấy nhưng sao tui thấy bà "tẩm" quá!
Thời buổi này, yêu nhiều được coi là mốt đó, sợ không có ai để yêu
thôi ngố ạ….. " Tại một lớp đại học ngoại ngữ tại chức, tôi bị cô bạn tên Hoa
ngồi cùng bàn "lên lớp" khi đem vấn đề này ra bình luận…."
Chuyện kể về những "trái tim nhiều ngăn" Tiền phong số 41 ra ngày
26.2.2002…."
Một quầy hàng sang trọng trong Trung tâm thương mại Tràng Tiền
Plaza. Và một cửa hàng rất đàng hoàng với cái tên thời trang mới nghe cũng
thật hấp dẫn và giá cả cũng thật "Cắt cổ"… lại càng bảo đảm hơn cho món
hàng…"
(Những nỗi đau ở lại - sinh viên Việt Nam số 14 ra ngày 8.4.2002)
Ở ví dụ đầu tiên, từ "tẩm ", "lên lớp" đã làm cho câu văn gọn hơn mà
vẫn thể hiện được ý đồ của tác giả khi nói về quan niệm của giới trẻ về tình
yêu. Nếu thay từ "tẩm" bằng từ ngốc nghếch hoặc dốt và từ "lên lớp" bằng từ
dậy dỗ hoặc một từ khác thì câu văn sẽ mất đi sự độc đáo và rườm rà thể hiện
được hết ý đồ của tác giả. Hai từ này khi sử dụng sẽ phù hợp hơn với ngôn
ngữ của giới trẻ và họ có thể tiếp thu dễ dàng hơn.
Ở ví dụ 2, từ "cắt cổ" làm cho câu văn độc đáo mà vẫn nói lên được là
ở đó giá cả không phù hợp với nhu cầu của người dân. Khi sử dụng từ "cắt
cổ" tác giả không cần phải đưa ra giá chính thức của mặt hàng mà người đọc
vẫn có thể hình dung ra sự đắt đỏ của hàng hoá.
18
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá

trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


Còn ở ví dụ 3, các từ "đi khô" (hút ma tuý), "thuỷ " (tiêm chích) là
những từ lóng chỉ những thời ký của quá trình nghiện hút. Từ "độ" là muốn
nói tới liều lượng của người nghiện. Việc sử dụng các từ này làm độc giả hình
dung một cách sống động, như được trải nghiệm với những người trong cuộc.
Hơn nữa điều đó chứng tỏ thấy tác giả đã sống cùng với sự việc, có sự trải
nghiệm tìm tòi và chính điều đó làm cho tác phẩm có sự tin cậy cao về mức
độ chân thực của sự việc.
Các từ ngữ hội thoại khi được sử dụng đã làm cho khoảng cách giữa
độc giả với các sự kiện, sự việc, nhân vật được đề cập trong bài báo được gần
gủi thân mật hơn và giỏi giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ của đời sống
hàng ngày được xoá nhoà hay giao thoa với nhau và cũng không còn khoảng
cách giữa báo chí và hiện thực. Tạo tâm lý thoải mái cho người đọc làm cho
họ có hứng thú đọc báo.
Tuy nhiên nếu sử dụng không đúng chỗ, đúng cách hoặc quá lạm dụng
thì sẽ dẫn đến sự dung tục, thậm chí phản các giá trị quan niệm đạo đức. Vì
vậy phải hết sức chú ý khi sử dụng ngôn ngữ hội thoại trong ngôn ngữ báo chí
và đặc biệt không nên đưa lên báo những từ quá bậy bạ tầm thường.
2.6. Vay mượn từ ngữ từ tiếng nước ngoài.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ của riêng mình. Tuy nhiên do điều kiện
hoàn cảnh kế toán - xã hội - văn hoá khác nhau mà nảy sinh những sự vật hiện
tượng có thể có ở dân tộc này nhưng lại không có ở dân tộc khác. Hoặc giả do
ảnh hưởng của sự giao lưu văn hoá mà một số từ ngữ để chỉ tên sự việc, hiện
tượng ấy hoặc do cảm thấy các từ vay mượn đó không những chỉ ra đúng đắn
bản chất của sự việc hơn mà còn tiện lợi và dễ sử dụng hơn ví dụ như ở Việt
Nam ta vẫn hay dùng từ "ghi đông xe đạp", "cái tuộc nơ vít"… cụ thể hơn ta
xét ví dụ sau:
" ….. ông ta không làm cho một tờ báo cụ thể nào mà chỉ hợp tác làm

những chuyên san về đời tư nghệ sĩ, thậm chí còn bớt móc hay lăng xê vô tội
vạ cho một ai đó với mục đích chỉ là để có…. tiền"…
(Tờ văn nghệ của hội VHNT Bình Dương đã bị lợi dụng để bênh vực
cho ông Dũng Thanh như thế nào? Tiền phong số 101 ra ngày 21.5.2002)
Ở đây có sử dụng từ vay mượn từ tiếng nước ngoài: làng xê (Lancer)
Trong tiếng pháp từ này có nghĩa là ném ra, phóng ra, quăng lên nhưng
khi sử dụng thì từ này lại mang nghĩa là dựa lên, nâng lên quá với cái bản chất
vốn có. Tuy nhiên việc sử dụng từ này cũng làm cho câu văn ngắn gọn, cô
đọng mà vẫn đảm bảo ý nghĩa và gợi hình ảnh.
Việc vay mượn từ ngữ nước ngoài làm cho ngôn ngữ báo chí trở nên
sống động hơn và đôi khi việc vay mượn nhiều khi là bắt buộc. Không phải là
không có những từ mang ý nghĩa tương thích mà thường những từ đó mang
tính chất nguyên nghĩa nhiều hơn tính chất biểu cảm như "AIDS, World
19
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


Cup… " Vì vậy trong khi sử dụng các từ vay mượn, nhà báo phải chú ý đến ý
nghĩa của chúng để đảm bảo sự chính xác về thông tin và chính xác trong
cách diễn đạt. Hiện nay có một thực tế là việc phiên âm cùng một từ tiếng
nước ngoài trên báo hay cả ở các tác phẩm văn học (tên nhân vật, địa danh)
không thống nhất dễ gây sự lộn xộn, khó hiểu đối với độc giả làm cho họ khó
tiếp thu hoặc lúng túng trong cách hiểu. Cũng nên tránh sử dụng quá nhiều từ
ngữ vay mượn bởi thế sẽ dần làm mai mốt và nghèo đi những từ ngữ tiếng
việt vốn "rất đẹp" của chúng ta (theo lời chủ tịch Hồ Chí Minh)
2.7. Dùng dấu câu (chủ yếu là dấu ngoặc kép và dấu chấm lửng).
Dấu ngoặc kép thường dùng để biểu đạt sự trích dẫn, sự gọi tên tác giả
tác phẩm hoặc tổ chức, cơ quan. Trong một số trường hợp dấu ngoặc kép
thường dùng để biểu đạt sắc thái ý nghĩa khác có giá trị biểu cảm.

Ví dụ:
" ….. Một mình Deportivo đã "tiêu diệt" tới hai đội trưởng đội tuyển
quốc gia. Đầu tiên là Roykeane đội trưởng đội tuyển Xcốtlen, chấn thương
nặng trong trận lượt đi - tiếp theo là David Beckhan, đội trưởng đội tuyển
Anh bị gẫy xương bàn chân…."
(Những bất ngờ nghiệt ngã. Tiền phong chủ nhật số 15 ra ngày
14.4.2002).
Ở ví dụ này từ tiêu diệt" dùng để phê phán lối chơi bóng thô bạo của
Deportivo biến những trận đấu bóng với tinh thần thể thao thành những trận
chiến.
Dấu chấm lửng được dùng trong trường hợp liệt kê chưa hết hoặc lược
bỏ một thành tố nào đó. Ngoài ra, dấu chấm lửng còn có chức năng giãn, nhịp
câu văn, báo hiệu sự bất ngờ hoặc khêu gợi sự phán đoán suy nghĩ hay còn
tạo nên những khoảng làng trong lòng độc giả.
Ví dụ:
"Về thành phố …. Mua cỏ"
(Lao động số 131 ra ngày 24.5.2002)
Đây là tít của bài báo tạo nên sự bất ngờ cho người đọc. Thường thì chỉ
thấy nói về quê mua cỏ chứ mấy ai đã nghe thấy về thành phố mua cỏ bao
giờ?.
Ngoài dấu ngoặc kép, dấu chấm lững, báo chí còn sử dụng một số dấu
khác để tạo giá trị biểu cảm như dấu chấm than (!), dấu chấm hỏi (?), dấu
chấm than kết hợp dấu chấm hỏi (!?) … nhằm biểu lội sự nghi ngờ hoặc vừa
nghi ngờ vừa mỉa mai châm biếm.
" …. Chỉ một bộ lễ phục thoạt đầu gọi là quốc phục, một "sản phẩm"
mà nhiều người vẫn cảm thấy "chưa đẹp, chưa bản sắc" (ngay cả Bộ VHTT
20
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí



cũng chưa thật sự vừa ý màu sắc) mà sinh ra câu chuyện tranh chấp, đôi co,
chia chác chiếc bánh công danh, trong chiếc áo mỏng manh?!….."
(Quyền tác giả thuộc về … Nhà quản lý?! Tiền phong số 105 ra ngày
27.5.2002.
2.8. Vay mượn thuật ngữ thuộc các chuyên ngành khoa học khác.
Ví dụ:
"… Chỉ thị 17/2002/CT -UB ngày 9.4.2002 được ban hành thực chất
chỉ nhằm nhấn mạnh tăng cường thêm cho chỉ thị 15. Song dấu sao đến thời
điểm này thì cơn sốt cũng có vẻ hạ nhiệt …"
(Đất "nguội" - lao động số 132 ra này 25.5.2002).
Ở cụ từ "cơn sốt cũng có vẻ hạ nhiệt" đó là vay mượn từ ngành y học.
Việc sử dụng cum từ này làm cho độc giả cảm nhận được sự biến động
mạnh mẽ và bất thường của thị trường nhà đất ở Hà Nội mà không cần đến
cách diễn đạt dài dòng khác.
2.9. Dùng so sánh.
So sánh là đối chiếu hai sự vật (hai tính chất, hai trạng thái, hai sự việc)
A và B giống nhau. A là sự vật chưa biết hoặc cái gì đó chưa rõ B là sự vật
đã, biết nhờ đó qua B mà người đọc, người nghe biết A hoặc hiểu thêm về A
hay ngược lại. Sự so sánh có thể biểu hiện ở nội dung bài báo nhưng cũng có
khi là ở ngay tít.
Ví dụ:
"Vương Sóc: chiếc áo khoác đã quá thời"
Tiền phong số 7 ra ngày 17.2.2002.
Sự so sánh giữa nhà Văn Vương Sóc với chiếc áo khoác đã quá thời
làm cho ta dễ dàng hình dung ra sự không phù hợp giữa các sáng tác của
vương sóc với nền văn học ngày nay ở Trung Quốc. Hình ảnh chiếc áo khoác
đã quá thời thì ai cũng có thể hiểu được mà tác giả không phải dài dòng giải
thích.
Ngoài các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí đã

nêu ở trên còn một số thủ pháp khác như: sử dụng phép nghịch nghĩa, nói dựa
trích dẫn, hoán dụ, sử dụng từ địa phương… mà người viết chưa có điều kiện
tiếp cận một cách đầy đủ. Mong rằng sẽ sớm có dịp quay trở lại với vấn đề
này.
3. Một số nhận xét sau khi khảo sát các giá trị biểu cảm trên báo.
Người viết khảo sát trên bốn tờ báo đó là: Lao động, Tiền phong, sinh
viên Việt Nam và Thiếu niên Tiền Phong. Có thể coi đó là bốn tờ báo đại diện
cho bốn lứa tuổi khác nhau. Báo thiếu niên đại diện cho những mầm non của
đất nước rất cần sự chăm sóc, giáo dục đúng đắn. Báo sinh Việt Nam và tiền
21
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


phong đại diện cho một thế hệ trẻ với đầy đủ trí thức khoa học kỹ thuật hay
đây chính là những chủ nhân tương lai không xa của đất nước. Báo lao động
đại diện cho những người lao động chân chính đang hàng ngày lao động làm
ra của cải vật chất cũng như cung cấp cho những thế hệ sau nguồn chất sám
cần thiết để có thể tiếp tục sự nghiệp của họ.
Đối với mỗi loại đối tượng cần có một phương thức biểu đạt khác nhau
phù hợp với trình độ tri thức của họ. Mặt khác do nhu cầu tiếp cận khác nhau
mục đích tiếp nhận cũng khác nhau. Có thể sự tiếp nhận của đối tượng này chỉ
nhằm giải quyết về nhu cầu thông tin những đối tượng khác thì lại với mục
đích là giải trí.
Qua việc khảo sát đề tài "Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận các sản phẩm
báo chí của sinh viên hiện nay " (Nhóm sinh viên Báo 17A phân viện Báo chí
và tuyên truyền) về nhu cầu tiếp nhận thì thấy nhiều đối tượng có nhu cầu lớn
nhất là thông tin và giải trí. Việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của các đối tượng
là rất cần thiết vì:
+ Đã là con người thì phải có nhu cầu về vật chất và tinh thần. Xã hội

càng phát triển thì nhu cầu của mỗi người cũng càng lớn.
+ Trong nền nông nghiệp hiện đại hiện nay, ai nắm được thông tin thì
người đó có khả năng chiến thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế - xã hội và
các lĩnh vực khác.
Thông tin là sự biểu hiện trình độ tri thức của con người và qua việc
tiếp nhận thông tin biết được trình độ của đối tượng để có thể đáp ứng được
nhu cầu của họ.
Trở về bốn tờ báo, một qua khảo sát thấy rằng việc sử dụng các thủ
pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ đã đạt được một số thành công
nhất định. Trước hết là ở ba tờ báo lao động, Tiền phong và Sinh viên:
Thành công: Sử dụng các thủ pháp biểu cảm, các nhà báo đã đánh
trúng tâm lý độc giả không thích ăn mãi một món đơn điệu, tẻ nhạt mà cần
phải biết đổi món. Điều quan trọng là món ăn ấy không những phải ngon mà
còn phải trình bày đẹp mắt để kích thích người ăn. Thực ra, việc dùng các thủ
pháp biểu cảm nhằm tạo sự hấp dẫn cho tờ báo không phải là mới. Ngay từ
buổi bình minh của nền báo chí Việt Nam, những người làm báo đã có quan
niệm "văn báo bất phân". Trải qua các thời kỳ thăng trầm của lịch sử, báo chí
nước ta đã có những bước phát triển tiến bộ, báo Lao động, Tiền phong, Sinh
viên cũng không nằm ngoài quy luật này và đã đạt được một số thành công
nhất định.
Biểu hiện cụ thể: Phần lớn các bài báo sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các
thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí làm cho câu văn
thêm giầu hình ảnh, tăng giá trị, ý nghĩa của câu văn, bài báo, làm cho thông
tin bớt khô khan và dễ tiếp nhận. Thành công nữa là vận dụng một cách linh
22
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


hoạt sáng tạo, chủ động các thủ pháp biểu cảm nói trên vào bài báo, tạo sự

phong phú đa dạng về ngữ điệu và phong cách thể hiện. Từ đó làm cho tờ báo
trở nên sinh động và hấp dẫn, lôi cuốn hơn, tạo sự thích thú đọc sự của độc
giả đồng thời góp phần tích cực tạo nên phong cách riêng, bản sắc riêng của
tờ báo.
Hạn chế: Đôi lúc các tờ báo này lạm dụng việc dùng các thủ pháp biểu
cảm làm cho thông tin phát sinh nghĩa mới hầu như khác hẳn so với nghĩa ban
đầu của nó nên độc giả lúng túng trong tiếp nhận thông tin. Ngoài ra một số
thủ pháp biểu cảm được sử dụng chưa thật "sắc" hoặc chưa đúng chỗ nên gây
ra "phản tác dụng" (trở nên nhàm chán đối với độc giả) ví dụ như dùng dấu
câu (dấu ngoặc kép và dấu … )
Còn về tờ Thiếu niên Tiền phong đây là tờ báo dành cho lứa tuổi thiếu
niên với nhiều sự thay đổi về tâm, sinh lý. Chính vì vậy việc sử dụng các thủ
pháp cần được chú ý. Qua khảo sát thấy rằng hầu hết các bài báo đều do chính
các em viết nên tạo được thế mạnh riêng, đó là sự gần gủi thân mật mà ít tờ
báo nào có được. Những bài viết của các em tập trung vào đề cập đến những
vấn đề rất thiết thực của lứa tuổi. Các em tự viết về mình, về bạn bè sung
quanh, về những gì cảm nhận được. Vì vậy không sảy ra tình trạng lạm dụng
từ ngữ biểu đạt thái quá làm sai lệch nghĩa như một số tờ báo khác.
Tuy nhiên đó vừa là ưu điểm mà cũng là nhược điểm của tờ báo. Vì
những thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm bao giờ cũng có giá trị gấp ngàn lần
những câu chữ đơn giản. Việc sử dụng các quá ít các thủ pháp nhằm tạo giá
trị biểu cảm làm giảm đi tính sinh động, mới mẻ, hấp dẫn của các bài báo hơn
nữa lại không làm tăng thêm vốn tri thức cũng như vốn từ vựng cho các em.
Như vậy khi tiếp nhận các sản phẩm báo chí khác các em sẽ gặp khó khăn
trong vấn đề nhận thức.

23
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí



KẾT LUẬN
Do khuôn khổ hạn hẹp của một tiểu luận nên chúng tôi chưa có điều
kiện đề cập cụ thể hơn các đặc điểm ngôn ngữ của một tác phẩm báo chí; ví
như đặc điểm về từ ngữ, về âm thanh, chữ viết, ngữ pháp, cú pháp…vv; cũng
chưa có điều kiện để phân tích, so sánh những đặc điểm ngôn ngữ của tác
phẩm báo chí với một số loại hình khác, ví như văn học nghệ thuật, tác phẩm
chính luận…vv. Bên cạnh đó, ngoài những đặc điểm cơ bản phân tích ở trên,
giữa các loại hình báo chí (báo viết, báo phát thanh, truyền hình, báo mạng…)
lại có những đặc thù và mang những phong cách ngôn ngữ riêng biệt. Chính
vì vậy, vấn đề này theo thiển nghĩ của chúng tôi, rất cần sự tiếp tục được mổ
xẻ, phân tích, bổ sung của các nhà sư phạm, nhà nghiên cứu, nhà báo và cả
công chúng.
Nếu báo chí chỉ đăng tải đơn thuần những thông tin sự kiện với cách
diễn đạt đã trở thành “lối mòn”, trở thành khuôn mẫu kiểu như “Hôm nay ...
tại .... đã diễn ra ...” thì chắc chắn nội dung tờ báo sẽ hết sức khô khan đơn
điệu và tờ báo không thể tồn tại được lâu dài. Xã hội càng phát triển đòi hỏi
báo chí phải không ngừng tự đổi mới, tiến bộ, và không bao giờ được phép dễ
dãi với bản thân. Nhằm “mềm mại hoá” thông tin, sinh động hoá thông tin,
báo chí đã sử dụng các thủ pháp biểu cảm như một công cụ đắc lực phục vụ
cho việc chuyển tải tin tức một cách có hiệu quả nhất.
Trong làng báo rất có thể có sự đánh giá chưa cao đối với bốn tờ báo đã
khảo sát, song chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp tích cực của bốn
tờ báo này trong việc thông tin tin tức, sự kiện, sự việc một cách đúng đắn
chính xác kịp thời mà vẫn đảm bảo tính uyển chuyển linh hoạt, mềm dẻo
thông qua việc sử dụng các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm một trong những
thành tố quan trọng quyết định sức hấp dẫn cũng như sức mua đối với công
chúng.
Đồng thời góp phần làm nên một nền báo chí đa dạng và phong phú.
“Con đường ngắn nhất là con đường đi đến trái tim” muốn đến được

với trái tim độc giả chiếm được sự tin cậy của họ một cách nhanh chóng và
lâu bền thì không gì hơn là hãy thủ thỉ vào tai họ những lời lẽ ngọt ngào xuất
phát từ con tim và trí óc của bạn. Muốn vậy bạn phải làm việc với lương tâm
và tinh thần trách nhiệm cao. Một nhà báo phương Tây đã nói như vậy. Thiết
nghĩ, đây cũng là bí quyết lớn góp phần làm nên sự sống còn của mỗi tờ báo.
Vì vậy, việc dùng các thủ pháp nhằm tạo giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ báo
chí không những luôn luôn cần thiết mà còn đã, đang và sẽ không bao giờ mất
đi vị trí quan trọng của nó bởi những tác dụng tích cực mà nó mang lại cho tờ
báo, người làm báo và các độc giả.

24
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh, NXB Lao động
2003.
2. Phong cách học tiếng Việt – Đinh Trọng Lạc, NXB Giáo dục 2006
3. Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt - Hữu Đạt, NXB
Văn hoá – Thông tin 2000
4. Ngôn ngữ báo chí – Vũ Quang Hào, NXB Đại học Quốa gia 2006
5.Cơ sở lý luận báo chí truyền thông – Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường,
Trần Quang, NXB Đại học Quốc gia 2001.
6.
7.
8. Bài giảng trển lớp của giảng viên
9. Các bài báo trên báo lao động, báo tiền phong, báo Thiếu niên TP, Sinh
viên Việt Nam và một số tài liệu tham khảo khác


25
Ngôn ngữ truyền thông - Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí và tìm hiểu một số thủ tháp tạo giá
trí biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí


×