Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Pháp luật về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.55 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRỌNG PHÚ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH LÂM ĐỒNG

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.PHẠM KIM ANH

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nguyên cứu khoa học của cá
nhân, những vấn đề lý luận, số liệu, ví dụ…, những tài liệu tham khảo trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy và trung thực, các giải pháp đưa ra điều xuất phát
từ thực tiễn quá trình nghiên cứu, chưa được công bố trong bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Trọng Phú


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN


VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỘ GIA ĐÌNH .............. 12
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm y tế và bảo hiểm y tế tự nguyện ........... 12
1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật bảo hiểm tự nguyện ở Việt
Nam ............................................................................................................. 28
1.3. Khái quát về bảo hiểm y tế hộ gia đình ............................................... 35
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 46
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ QUA THỰC
TIỄN THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LÂM ĐỒNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .............................. 47
2.1. Các yếu tố địa phương của tỉnh Lâm Đồng ảnh hưởng đến việc thực thi
pháp luật về bảo hiểm y tế hộ gia đình ....................................................... 47
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế hộ gia đình qua thực
tiễn tỉnh Lâm Đồng ..................................................................................... 49
2.3. Đánh giá việc thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng...................................................................................... 58
2.4. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực thi
pháp luật về bảo hiểm y tế hộ gia đình ....................................................... 68
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHYT

: Bảo hiểm y tế

BHYTTN


: Bảo hiểm y tế tự nguyện

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

ASXH

: An sinh xã hội

KCB

: Khám chữa bệnh


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số

TênTbả
h b r
a
i
Số
B
5

đ

n ố


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bất kỳ ai cũng có mong muốn được sống một cuộc sống khỏe mạnh, ai
cũng có mưu cầu được hưởng những thành tựu mà y học đạt được trong lĩnh
vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng
trong cuộc sống hàng ngày con người luôn luôn gặp phải những rủi ro không
mong đợi, trong đó phải kể đến rủi ro về sức khoẻ như ốm đau, bệnh tật, tai
nạn…Điều này đã dẫn đến việc con người phải gánh chịu các chi phí về khám
chữa bệnh mà không thể xác định được trước hoặc có sự chuẩn bị kịp thời.
Dù lớn hay nhỏ thì các chi phí này đều gây khó khăn cho ngân quỹ của gia
đình, của mỗi cá nhân, đặc biệt với những người có mức thu nhập thấp. Khi
một người gặp vấn đề về sức khỏe, thứ họ phải chịu không chỉ là nỗi đau về
thể xác mà còn phải gánh vác nỗi lo về tài chính bao gồm chi phí trả cho các
dịch vụ khám chữa bệnh, chi phí cho đi lại, ăn uống khi điều trị… Bên cạnh
đó, khả năng lao động của họ lại bị giảm hoặc mất dẫn đến thu nhập cũng
giảm hoặc mất.
Tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) thực sự là một giải pháp hữu hiệu để
giảm bớt gánh nặng về kinh tế cho người bệnh và cả cho chính những người
thân của họ. Chi phí tham gia BHYT là không cao nhưng khi gặp vấn đề về
sức khỏe, kể cả bệnh hiểm nghèo, chúng ta sẽ không phải chịu chi phí lớn, sẽ
được tiếp cận những dịch vụ y tế cơ bản để đảm bảo cải thiện sức khỏe đáng
kể cho mình.
Trên thực tế trước đây BHYT tự nguyện được hiểu là nhà nước tuyên
truyền, vận động người dân tham gia mua BHYT để khám chữa bệnh khi gặp
vấn đề về sức khỏe, kể cả bệnh hiểm nghèo… nhưng từ khi Luật BHYT năm

2014 ban hành thì BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối

1


với các đối tượng theo quy định của đạo Luật này. Tuy nhiên, đối với BHYT
hộ gia đình, đứng ở góc độ cá nhân, ở đâu đó người tham gia BHYT hộ gia
đình vẫn còn thấy quyền lợi của họ chưa được bảo đảm tối đa do chất lượng
khám chữa bệnh bằng BHYT chưa đáp ứng nhu cầu, nhất là ở tuyến y tế cơ sở
do khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực cán bộ còn hạn chế,
người dân chưa hài lòng vì phải mất nhiều thời gian chờ đợi. Trước đây,
những người thuộc đối tượng tham gia BHYT tự nguyện thường là những
người lao động tự do, thu nhập bấp bênh và không bền vững, làm việc trong
khu vực phi chính thức.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ "Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các
chính sách BHYT, khám chữa bệnh và viện phí phù hợp, có lộ trình thực hiện
BHYT toàn dân". Luật BHYT số 25/2008/QH12 và Luật số 46/2014/QH132
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2008, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2015 đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện mục tiêu BHYT toàn
dân. Tuy nhiên, sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, Luật BHYT còn một số
tồn tại, bất cập trong quy định và trong tổ chức thực hiện. Các văn bản hướng
dẫn còn thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác,
gây ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước cũng như
tổ chức thực thi pháp luật. Các vấn đề vướng mắc tập trung vào việc mở rộng
bao phủ đối tượng tham gia BHYT; phạm vi được hưởng BHYT, mức hưởng;
tổ chức khám chữa bệnh BHYT (Hợp đồng, đăng ký khám chữa bệnh, chuyển
tuyến, thủ tục khám chữa bệnh, giám định); phương thức thanh toán chi phí
khám chữa bệnh BHYT; quản lý và sử dụng quỹ BHYT và tổ chức, quản lý
nhà nước về BHYT.

Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, tuyên truyền
để vận động người dân tham gia mua BHYT hộ gia đình, nhưng kết quả thực


hiện chính sách BHYT từ năm 2008 đến đầu năm 2018 cho thấy, đối tượng
tham gia BHYT ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước, nhưng số người
tham gia BHYT hộ gia đình chiếm tỷ lệ thấp so với số đối tượng thuộc diện
tham gia và việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT hộ gia đình còn rất
chậm. Mặc dù pháp luật hiện hành quy định BHYT bắt buộc nhưng trên thực
tế đa số người dân đến lúc ốm đau hoặc ốm đau nặng mới tham gia mua
BHYT. Luật BHYT quy định hộ gia đình tham gia BHYT bao gồm toàn bộ
người có tên trong sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú nhưng trên thực tế do điều kiện
kinh tế, nhận thức, hoặc có những người trong cùng gia đình nhưng sống, làm
việc ở những địa phương khác nhau nên không phải tất cả thành viên trong
gia đình có thể mua BHYT theo hộ gia đình. Ngoài ra, nhiều gia đình chỉ
chọn mua BHYT cho những người có nguy cơ mắc bệnh cao, người bị bệnh
mãn tính, chưa có ý thức mua cho toàn bộ thành viên trong gia đình. Đặc biệt
là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số như tỉnh Lâm
Đồng, tỷ lệ tham gia mua BHYT hộ gia đình càng thấp, chủ yếu là những
người già, người hay đau ốm bệnh tật. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất thiết bị còn
sơ sài, đội ngũ y bác sỹ còn thiếu về cả số lượng và chất lượng không đáp ứng
được nhu cầu khám chữa bệnh theo diện có bảo hiểm khiến người dân e ngại
mua BHYT hộ gia đình.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu "Pháp
luật về BHYT tự nguyện từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng" làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến chủ đề pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyên và bảo hiểm y tế
đối với hộ gia đình đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố sau:
1. Bài báo khoa học "Thực trạng tham gia BHYT tự nguyện của nông

dân tỉnh Thái bình" nghiên cứu của tác giả Vũ Ngọc Huyên và Nguyễn Văn


Song, Khoa kế toán và Quản trị kinh doanh, Học viên Nông nghiệp Việt Nam
năm 2014, tập trung nghiên cứu tiến hành với quy mô điều tra 550 nông dân
trên địa bàn tỉnh Thái bình, để phân tích tỷ lệ tham gia BHYT của nông dân
và tỷ lệ nông dân không có nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện.
2. Luận văn Thạc sĩ của Doanh Thị Ngọc Tú, năm 2014, Đại học luật Hà
Nội về "Thực trạng thi hành pháp luật BHYT tự nguyện ở Việt Nam" Luận
văn tập trung nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về BHYT tự
nguyện và pháp luật bảo biểm y tế tự nguyện và những thay đổi của luật quy
định về BHYT tự nguyện qua các thời kỳ để phù hợp với xu thế pháp triển
chung của xã hội. Tìm hiểu những thực trạng thi hành pháp luật BHYT tự
nguyện của người dân thông qua một số công trình khoa học, báo cáo, nghiên
cứu số liệu ở một số địa phương trên cả nước. Từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm từ việc áp dụng trong thực tiễn để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật ngày càng tốt hơn.
3. Luận văn Thạc sĩ của Bùi Thị Thu Hằng, năm 2014, Đại học Quốc gia
Hà Nội về "BHYT tự nguyện trong luật BHYT Việt Nam" tác giả tập trung
nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về BHYT và thực trạng pháp
luật BHYT tự nguyện. Trên cơ sở thực trạng pháp luật hiện hành ở nước ta về
BHYT tự nguyện, đưa ra những giải pháp về mặt pháp lý và tổ chức thực hiện
BHYT tự nguyện nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của BHYT tự
nguyện ở nước ta.
4. Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế của Nguyễn Văn Trọng, năm
2015, Trường Đại học kinh tế Huế về "Đánh giá sự hài lòng của khách hàng
khi tham gia BHYT tự nguyện tại BHXH thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị"
luận văn đi sâu nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
dịch vụ hành chính tại Bảo hiểm xã hội thành phố Đông Hà; xác định được
chất lượng dịch vụ qua mức đánh giá sự hài lòng của người dân về chất lượng



dịch vụ hành chính tại Bảo hiểm xã hội thành phố Đông Hà; qua đó đề ra các
giải pháp phù hợp nhất để nâng cao chất lượng phục vụ dịch vụ hành chính
nhằm nâng cao mức độ hài lòng của người dân.
5. Liên quan đến chủ đề bảo hiểm xã hội tự nguyện có Luận văn Thạc
sỹ Luật học của Phạm Thị Huyền về “Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông
dân ở nước ta hiện nay”, đã bảo vệ năm 2012 tại Học viện Khoa học xã hội.
Luận văn đã hệ thống hóa, kế thừa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về
bảo hiểm xã hội tự nguyện trên các khía cạnh như khái niệm, vai trò, bản chất
và các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện. Luận văn giới thiệu và
cung cấp thông tin về một số mô hình bảo hiểm xã hội cho nông dân ở một số
nước trên thế giới như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Indonexia, Trung quốc và rút ra
một số kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận văn đã điểm qua lịch sử hình thành
chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân ở nước ta trước khi chính
sách bảo hiểm xã hội tự nguyện có hiệu lực (năm 2008). Ngoài ra, luận văn
cũng đã tổng quan tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho
nông dân ở một số địa phương trong giai đoạn trước năm 2008. Luận văn đã
phân tích sự phát triển của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân
và tình hình áp dụng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân ở
nước ta trong thời gian qua trên hai phương diện là nhu cầu tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện của nông dân và khả năng tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện của nông dân. Ngoài ra, luận văn cũng cung cấp cho người đọc sự
hiểu biết về những hạn chế trong thực hiện thí điểm bảo hiểm xã hội tự
nguyện cho nông dân ở một số địa phương, cũng như hạn chế của hệ thống
quy phạm pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Luận văn đã gợi
mở một số định hướng và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân.



Ngoài những nghiên cứu khoa học đã nêu ở trên còn một số bài viết khác
liên quan đến luận văn như:
1. Bài viết của ThS. Nguyễn Thị Thúy, Trường Cao đẳng Công Thương
TP. Hồ Chí Minh, đăng trên tạp chí Công thương ngày 6/11/2017 về "Phân
tích thực trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động tự
do" từ đó đưa ra kết luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách an sinh
xã hội hết sức có ý nghĩa của Nhà nước nhằm trợ giúp người lao động ổn định
cuộc sống khi hết tuổi lao động. Tuy nhiên từ thực tế cho thấy số lượng người
tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện nay chưa nhiều, chưa tương xứng
với lực lượng lao động hiện có tại địa bàn. Cơ quan bảo hiểm xã hội cần tích
cực tuyên truyền nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò của bảo
hiểm xã hội tự nguyện, hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế chính sách để
thu hút người lao động tham gia.
2. Bài viết "Nâng cao nhận thức của người dân về bảo hiểm xã hội,
BHYT" được đăng trên Báo điện tử nhân dân ngày 13/3/2018, của Ban Tuyên
giáo Trung ương và Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức hội nghị sơ kết 5 năm
công tác tuyên truyền, phối hợp thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22-112012 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
bảo hiểm xã hội, BHYT giai đoạn 2012-2020” tại TP Hồ Chí Minh. Qua hội
nghị này xác định BHXH, BHYT là những chính sách xã hội quan trọng, trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội, thời gian tới, công tác tuyên truyền
thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW sẽ tiếp tục được đẩy mạnh, tập trung vào
một số nội dung: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng,
chính quyền đối với công tác tuyên truyền BHXH, BHYT; nâng cao tính thiết
thực, chiều sâu trong nội dung tuyên truyền, đổi mới hình thức tuyên truyền
phong phú, đa dạng, phù hợp từng đối tượng; chú trọng bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức về BHXH, BHYT cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền.


3. Bài viết " BHYT tự nguyện là gì? Mua BHYT tự nguyện được hưởng
bao nhiêu ?" đăng trên trang The Bank ngày 17/7/2018, bài viết này phân tích

đánh giá các mức thụ hưởng, chế độ đối với người mua BHYT tự nguyện và
tham gia BHYT tự nguyện (BHYT) giúp hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh cho
bạn và người thân, tuy nhiên, không phải ai cũng nắm được mức quyền lợi
được hưởng của BHYT mới nhất 2018.
4. Bài viết của tác giả An Nhiên được đăng trên báo Công an Nghệ An
28/7/2017 về "BHYT tự nguyện: Đảm bảo lợi ích thiết thực cho người dân"
đưa ra một số thành tựu hiện nay, ngành Y tế đã và đang có nhiều nỗ lực để
nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân, cải cách thủ tục hành
chính và cung cấp những dịch vụ y tế tiến tới sự hài lòng của người bệnh.
Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng được nâng lên;
điều này cũng đồng nghĩa với việc, người dân khó có thể tránh khỏi nguy cơ
mắc nhiều căn bệnh khác nhau. Thực tế cho thấy, hiện nay, số người mắc các
bệnh hiểm nghèo như ung thư ngày càng nhiều, nhất là ở các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, người dân rất ít có cơ hội khám bệnh định kỳ. Vì thế, hơn
lúc nào hết, người dân cần nhận thức rõ được lợi ích khi tham gia BHYT,
giúp hạn chế rủi ro về tài chính cho bản thân, gia đình mình, đồng thời chia sẻ
bớt khó khăn cho cộng đồng nếu một ai đó không may mắc bệnh.
Nhìn chung những đề tài nghiên cứu khoa học nêu trên được tiếp cận
đánh giá với nhiều góc độ khác nhau, từ nội dung trực tiếp và gián tiếp về
pháp luật BHYT, nhưng chưa có đề tài nghiên cứu nào thực hiện vấn đề pháp
luật về BHYT tự nguyện từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng.
Được kế thừa những thành tựu khoa học của các nhà nghiên cứu đã được
công bố, đề tài này sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu và phân tích khái quát
chung về BHYT, bảo hiểm y tự nguyện, quy định của pháp luật về BHYT hộ
gia đình và thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT hộ gia đình trên địa bàn tỉnh


Lâm Đồng, để đưa ra những giải pháp thực hiện chính sách BHYT hộ gia
đình trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, là rất cần thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những giá trị của
BHYT tự nguyện (BHYTTN) để từ kinh nghiệm điều chỉnh và thực hiện pháp
luật về BHYTTN của giai đoạn trước để vận dụng, áp dụng trong việc vận
động các hộ gia đình tự nguyện tham gia BHYT hộ gia đình. Đồng thời phân
tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT hộ gia đình trên địa bàn
tỉnh Lâm Đồng; từ đó có những đề xuất, kiến nghị và giải pháp hoàn thiện
pháp luật BHYT hộ gia đình và nhằm tiến tới BHYT toàn dân trên địa bàn
tỉnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Từ mục đích nêu trên luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những vẫn đề
chính sau đây:
- Làm sáng tỏ khái quát chung về BHYT, BHYTTN và quy định của
pháp luật Việt Nam về BHYT hộ gia đình;
- Đánh giá, phân tích thực tiễn thực hiện BHYT hộ gia đình trên địa bàn
địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Từ đó, nêu ra những tồn tại, vướng mắc trong quá
trình triển khai thực hiện và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và thực hiện hiệu quả về BHYT hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói
riêng và trên cả nước nói chung.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối chính sách của


Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về BHYT, BHYTTN và quy định
của pháp luật Việt Nam về BHYT hộ gia đình và một số quan điểm của các tổ
chức quốc tế về BHYT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy

vật biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn giải, thống kê, so sánh, quy nạp….
những phương pháp này không sử dụng độc lập mà luôn được đan xen, kết
hợp với nhau để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài:
+ Phương pháp tổng hợp: Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
đặt ra, tác giả đã sử dụng phương pháp này nhằm tổng hợp các thông tin, số
liệu liên quan được dùng cho việc phân tích đánh giá tình hình tham gia
BHYT tự nguyện và BHYT hộ gia đình tại tỉnh Lâm Đồng trong thời gian
2017 đến nay.
+ Phương pháp phân tích: Được tác giả sử dụng để tìm hiểu các khái
niệm, phân tích, các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm y tế,
BHYTTN và BHYT hộ gia đình làm cơ sở cho việc đánh giá pháp luật.
+ Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh việc thực hiện BHYT hộ gia
đình ở các khu vực và các địa phương. Ngoài ra còn được sử dụng để so sánh
giữa quy định của pháp luật BHYT tự nguyện trong việc thực thi BHYT hộ
gia đình.
+ Phương pháp thống kê: Sử dụng để thống kê các số liệu có liên quan
việc thực thi pháp luật BHYT hộ gia đình tại tỉnh Lâm Đồng, từ đó làm cơ sở
đưa ra những nhận định, đề xuất, kiến nghị của luận văn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu


Hiện nay BHYTTN không còn được quy định trong pháp luật BHYT.
Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều hộ gia đình do nhận thức hoặc do khó khăn
về kinh tế, nơi cư trú, làm việc ở nhiều địa phương nên chỉ một/ một vài thành
viên trong hộ gia đình tự nguyện mua BHYT. Với tên đề tài được Học viện
Khoa học xã hội giao, luận văn vận dụng, tập trung nghiên cứu pháp luật
BHYT hộ gia đình từ thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Những

giá trị của BHYTTN trong giai đoạn trước vẫn có thể tham khảo để thực hiện
trên thực tế quy định về BHYT hộ gia đình trong Luật BHYT năm 2014.
Những kinh nghiệm trong việc vận động hộ gia đình tự nguyện tham gia
BHYT sẽ được nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn thực hiện pháp luật
BHYT hộ gia đình.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào những khái quát chung về BHYT, BHYTTN và
quy định của pháp luật Việt Nam về BHYT hộ gia đình và thực tiễn thực hiện
BHYT hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện nay gồm: Đối tượng tham
gia BHYT hộ gia đình, phạm vi hưởng BHYT hộ gia đình, Quỹ BHYT hộ gia
đình, trách nhiệm và quyền hạn khi tham gia BHYT hộ gia đình. Trên cơ sở
đó, đánh giá những hạn chế, khó khăn trong quy định của pháp luật, những
kết quả đạt được và khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật
BHYT hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đề ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật BHYT hộ gia đình hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn tổng kết kinh nghiệm thực hiện BHYTTN, cung cấp tri thức về
BHYT hộ gia đình và cơ sở lý luận của pháp luật Viêt Nam hiện hành về
BHYT hộ gia đình.
6.2. Ý nghĩa thực hiễn của luận văn


+ Luận văn nghiên cứu kinh nghiệm lịch sử pháp luật BHYTTN; phản
ánh thực trạng thi hành pháp luật BHYT hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng hiện nay.
+ Luận văn đã đưa ra những giải pháp nhằm cải cách, hoàn chỉnh các
quy định của pháp luật về BHYT hộ gia đình, từ đó nâng cao hiệu quả việc
thực thi pháp luật BHYT hộ gia đình.
+ Ngoài ra luận văn còn có giá trị giúp bản thân tác giả nâng cao nhận

thức, lý luận và thực tiễn đối với việc thực thi pháp luật BHYT hộ gia đình
trong công việc của mình và có thể làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân và
tổ chức muốn tìm hiểu về pháp luật BHYT hộ gia đình, để từ đó vận dụng vào
thực tiễn, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng thụ
hưởng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Ngoài
ra, trong luận văn còn tài liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn gồm 2
chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo hiểm y tế tự nguyện và pháp luật về
bảo hiểm y tế đối với hộ gia đình.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hiểm y tế qua thực tiễn thực hiện
bảo hiểm y tế hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng và kiến nghị hoàn thiện.


Chương 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN VÀ PHÁP
LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỘ GIA ĐÌNH
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm y tế và bảo hiểm y tế tự nguyện
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm y tế và bảo hiểm y tế tự nguyện
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xác định BHYT có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế xã hội. Trong tuyên bố Alma-Ata năm 1978 "Sức khỏe
cho mọi người", WHO quan niệm "BHYT là loại hình bảo hiểm không kinh
doanh, không vì mục đích lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ
quyền con người" [36, tr.22] . Cách tiếp cận về BHYT của WHO hiện nay
được hầu hết các quốc gia thống nhất, trên cơ sở đó, tùy thuộc vào điều kiện
của mình mà các quốc gia có cách thức tổ chức thực hiện riêng.
Ở Việt Nam, theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì: “BHYT là loại bảo
hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân,
tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh

cho nhân dân" [35]. Theo Luật BHYT do Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 14/11/2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014),
thì khái niệm BHYT được quy định như sau: “ BHYT là hình thức bảo hiểm
bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để
chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực
hiện.” Như vậy, có thể thấy pháp luật nước ta quy định BHYT là hình thức
bảo hiểm bắt buộc được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì
mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và được áp dụng bắt buộc
đối với các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật. Về cơ
bản, đó là một cách dành dụm một khoản tiền trong số tiền thu nhập của mỗi
cá nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng vào quỹ do Nhà nước đứng ra quản lý,
nhằm giúp mọi thành viên tham gia quỹ có ngay một khoản tiền trả trước cho


các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khi người tham gia không
may ốm đau phải sử dụng các dịch vụ đó, mà không phải trực tiếp trả chi phí
khám chữa bệnh. Cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ thanh toán khoản chi phí này
theo quy định của Luật BHYT và cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới,
Việt Nam thừa nhận quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) với cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an
sinh xã hội và là loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế
cho người tham gia khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Trên cơ sở những định nghĩa và phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái
niệm về BHYT như sau: BHYT là hình thức bảo hiểm nhằm mục đích chăm
sóc sức khỏe không vì mục đích lợi nhuận và được hình thành trên cơ sở sự
đóng góp của người tham gia và do nhà nước tổ chức thực hiện.
Trước đây, BHYTTN là một hình thức BHYT áp dụng cho người có thu
nhập thấp không đủ điều kiện tham gia BHYT bắt buộc hoặc BHYT tư nhân
do người dân tự nguyện tham gia. Hoạt động của BHYTTN do chính cộng
đồng người tham gia đảm nhiệm với nguyên tắc tài chính là phi lợi nhuận, vì

vậy mức đóng BHYTTN không hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập của người
tham gia. Ở Việt Nam hiện nay pháp luật quy định BHYT là bắt buộc. Tuy
nhiên, Điều 12 của Luật BHYT chỉ quy định các đối tượng tham gia bảo hiểm
y tế bao gồm: (1). Nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng;
(2) Nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng; (3) Nhóm do ngân sách nhà nước
đóng; (4) Nhóm tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình. Luật BHYT giao
cho Chính phủ quy định các đối tượng khác ngoài 4 nhóm đối tượng được nêu
ở trên. Điều 1 đến Điều 6 của Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày
17/10/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của
Luật BHYT (dưới đây viết tắt là Nghị định số 146/2018/NĐ-CP) đã quy định
cụ thể 6 trường hợp. Như vậy, được hiểu các đối tượng đó bắt buộc (trực tiếp


hoặc gián tiếp) phải tham gia BHYT. Vậy ngoài các đối tượng đó còn có
những cá nhân có nhu cầu được tham gia BHYT thì thế nào? Chẳng hạn,
những người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam bằng nguồn tài chính cá
nhân, không phải học bổng được cấp từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam có
được xếp vào nhóm học sinh, sinh viên (nhóm được ngân sách nhà nước hỗ
trợ mức đóng theo khoản 3 Điều 4 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP) không?
Như vậy, ngoài bảo hiểm y tế thương mại thì những người ngoài các đối
tượng bắt buộc phải tham gia BHYT theo quy định của Luật BHYT và Nghị
định số 146/2018/NĐ-CP nếu tự nguyện tham gia bảo hiểm để nhận được hỗ
trợ chăm sóc sức khỏe khi bị bệnh tật từ quỹ bảo hiểm y tế thì cần có cơ chế
để họ tham gia. Bảo hiểm y tế thương mại là bảo hiểm được các công ty bảo
hiểm nhân thọ cung cấp và mang tính chất kinh doanh. Đây là loại bảo hiểm
không bắt buộc và được xem là BHYT tự nguyện. Trên thực tế, hiện nay vẫn
tồn tại dịch vụ mua, bán BHYT tự nguyện. Khác với BHYT do Nhà nước
cung cấp, quản lý và thực hiện không vì mục đích lợi nhuận (như sẽ phân tích
dưới đây trong tiểu mục 1.1.2.1), BHYT tự nguyện do các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ cung cấp theo hình thức lấy phần tiền phí của số đông chi trả

và hỗ trợ tài chính cho số ít gặp rủi ro. Các hình thức chi trả quyền lợi BHYT
tự nguyện theo hình thức nhân thọ có thể đa dạng từ việc chi trả chi phí điều
trị đến chi trả cho rủi ro tử vong hoặc thương tật toàn bộ và vĩnh viễn. Một số
dịch vụ BHYT tự nguyện theo hình thức nhân thọ còn hỗ trợ các chi phí nằm
viện và điều trị trong các rủi ro tai nạn và bệnh hiểm nghèo. Mức phí của
BHYT tự nguyện theo hình thức nhân thọ phụ thuộc không chỉ vào sản phẩm
bảo hiểm lựa chọn mà còn vào nhiều yếu tố hơn như độ tuổi, nghề nghiệp,
giới tính, tình trạng sức khỏe của người được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
mong muốn được chi trả khi gặp rủi ro... Về quyền lợi, BHYT tự nguyện theo
hình thức nhân thọ được chi trả để hỗ trợ tài chính cho khách hàng khi xảy ra


rủi ro theo các thỏa thuận trong hợp đồng. Đa phần các sản phẩm BHYT tự
nguyện theo hình thức nhân thọ sẽ chi trả cho các trường hợp tử vong và
thương tật toàn bộ và vĩnh viễn, hỗ trợ về mặt tài chính cho gia đình của
người được bảo hiểm để tiếp tục cuộc sống. Một số sản phẩm đặc biệt về bảo
vệ khách hàng trước rủi ro tai nạn và bệnh hiểm nghèo còn hỗ trợ toàn bộ
hoặc một phần chi phí điều trị và nằm viện1. Khác với đối tượng của BHYT
tự nguyện theo hình thức nhân thọ, đối tượng của BHYT được luận văn
nghiên cứu là BHYT xã hội, do những cá nhân, thành viên hộ gia đình tham
gia theo quy định của pháp luật BHYT.
Như vậy, dựa vào khái niệm về BHYT và bản chất của BHYTTN đã
phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm BHYTTN như sau:
Bảo hiểm y tế tự nguyện là việc người dân tự nguyện tham gia BHYT để
được chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, bệnh tật.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm y tế và bảo hiểm y tế tự nguyện
1.1.2.1. Đặc điểm của bảo hiểm y tế
- Về đối tượng tham gia: Đối tượng tham gia của BHYT rất rộng, có thể
là tất cả các thành viên trong xã hội. BHYT là hình thức tương trợ cộng đồng
với mục đích bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nên đối tượng tham gia BHYT

không bị giới hạn bởi bất cứ tiêu chí nào. Tất cả mọi thành viên trong xã hội,
dù là người lao động hay không phải người lao động, trẻ em hay người già…
đều có thể tham gia BHYT.
- Về mục tiêu của BHYT: Mục tiêu của BHYT là hướng tới việc chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân. BHYTTN có trách nhiệm chi trả
các chi phí khám chữa bệnh cho những người dân bị ốm đau, bệnh tật, rủi ro

1

Xem bài viết Bảo hiểm nhân thọ & bảo hiểm y tế khác nhau như thế nào? Trên trang tin của Life
Companion
-chu/Bao-hiem-nhan-tho--bao-hiem-y-te-khac-nhau-nhuthe- nao_a741


... có nhu cầu khám và điều trị bệnh. Đối tượng BHYT hướng đến không phải
là thu nhập hay đảm bảo thu nhập cho người bị ốm đau mà chính là sức khỏe
của người tham gia BHYT. Do đó, BHYT không phải là khoản trợ cấp bằng
tiền như các loại hình bảo hiểm khác mà là các dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
chữa bệnh.
- Về mức hưởng BHYT: Thông thường với đa số các loại hình bảo hiểm
thì mức hưởng bảo hiểm được xác định trên cơ sở mức đóng góp của người
tham gia bảo hiểm (mức đóng góp, thời gian đóng góp...). Tuy nhiên, đối với
BHYT, mức hưởng bảo hiểm lại không phụ thuộc vào mức đóng góp, thời
gian đóng góp mà phụ thuộc vào rủi ro bệnh tật và cơ sở cung ứng dịch vụ y
tế. Hệ thống BHYT từ khi hình thành đã không định hướng theo mức độ rủi
ro mà theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp. Điều
này được thể hiện ở chỗ: khi bị ốm đau, người bệnh sẽ được chữa trị với đầy
đủ các dịch vụ y tế và thuốc men cần thiết cho đến khi khỏe mạnh trở lại mà
không căn cứ vào các phương thức bảo hiểm như mức lương của họ hay trước
đó họ đã đóng góp BHYT được bao nhiêu, trong bao lâu.

- Về thực hiện BHYT: Quan hệ BHYT là quan hệ diễn ra giữa ba bên:
bên thực hiện BHYT, bên tham gia BHYT và cơ sở khám chữa bệnh. Do đó,
khác với các hình thức bảo hiểm khác (chỉ bao gồm bên tham gia bảo hiểm và
bên thực hiện bảo hiểm), việc thực hiện BHYT bao giờ cũng có sự tham gia
của bên thứ ba là cơ sở khám chữa bệnh. Đây là cơ quan tổ chức thực hiện
việc khám chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ y tế cho người tham bệnh. Các
chi phí y tế sẽ được cơ quan BHYT chi trả một phần hoặc toàn bộ cho cơ sở
khám chữa bệnh. Do đó, để đảm bảo chất lượng BHYT đòi hỏi phải có sự
phối hợp, hợp tác hài hòa giữa các chủ thể, đặc biệt là với cơ sở khám chữa
bệnh.
1.1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm y tế tự nguyện


Bảo hiểm y tế tự nguyện là một bộ phận cấu thành của pháp luật về an
sinh xã hội và là một trong những hình thức của BHYT nên ngoài những đặc
điểm chung của BHYT đã phân tích trên, BHYTN còn có một số đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, đối tượng của BHYTTN là rộng nhất vì tất cả những ai có sức
khỏe, có nhu cầu bảo hiểm thỏa mãn các điều kiện quy định đều có thể tham
gia. Hơn nữa, sức khỏe là vốn quý nhất của con người, thực hiện tốt
BHYTTN sẽ đảm bảo quy luật số đông bù số ít, quy luật này rất quan trọng,
nó quyết định sự tồn tại hay không của bảo hiểm.
Thứ hai, BHYTTN và BHYT nói chung là loại hình bảo hiểm mang tính
nhân đạo nhất trong số tất cả các loại hình bảo hiểm. BHYTTN đáp ứng nhu
cầu chăm sóc sức khỏe với chất lượng ngày càng cao của đại bộ phận dân cư.
Tham gia BHYTTN vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho xã hội bởi thông qua
sự đóng góp vào quỹ, quỹ sẽ thanh toán những khoản chi phí đã thỏa thuận
khi không may người có thẻ BHYT gặp phải rủi ro ốm đau, bệnh tật. Có một
số trường hợp mắc bệnh hiểm nghèo, sự đóng góp cả cuộc đời họ không đủ
chi phí cho một lần, khi đó thông qua quỹ, cộng đồng xã hội sẽ giúp họ.

BHYT nói chung và BHYTTN nói riêng đều nhằm mục đích san sẻ rủi ro,
gánh nặng chi phí cho người bệnh, thể hiện sự đùm bọc lẫn nhau khi khó khăn
xảy đến, thể hiện sự văn minh của nền kinh tế xã hội.
Thứ ba, triển khai BHYTTN có liên quan chặt chẽ đến toàn bộ ngành y
tế kể cả những y bác sĩ, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ chế hoạt động của ngành y
tế. Vì người tham gia BHYTTN đóng tiền cho cơ quan BHYT nhưng cơ quan
BHYT không trực tiếp đứng ra tổ chức khám bệnh cho người được bảo hiểm
khi rủi ro ốm đau, cơ quan bảo hiểm chỉ là trung gian thanh toán chi phí khám
chữa bệnh cho người tham gia qua hợp đồng khám chữa bệnh với các cơ sở y
tế.


Thứ tư, BHYTTN góp phần cùng với các loại hình bảo hiểm con người
khác nhằm khắc phục nhanh chống những hậu quả xảy ra với con người. Đó
cũng là lý do mà Chính phủ các nước luôn quan tâm đến pháp luật BHYT hay
các chính sách chăm sóc sức khỏe nói chung.
Thứ năm, BHYTTN góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và
điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế, từ đó làm chất lượng ngành y tế không
ngừng được nâng cao. Trong khi nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho
ngành y tế còn eo hẹp thì việc huy động các nguồn vốn khác cho chi tiêu của
ngành còn chậm và thiếu đồng bộ. Thu viện phí khối lượng rất ít song lại tạo
rất nhiều khe hở cho các tiêu cực phát triển dẫn tới một thực tế bệnh nhân
phải tăng phí tổn khám chữa bệnh, đầu tư cho ngân sách không hề bị giảm bớt
mà bệnh viện vẫn bị xuống cấp. Bên cạnh đó các nguồn khai thác của dân, các
tổ chức kinh tế, các nguồn viện trợ trực tiếp chậm được thể chế hóa và chưa
chung hòa chung vào ngân sách y tế, làm hạn chế phát huy các nguồn vốn
quan trọng này. Do đó, khi thực hiện BHYTTN sẽ tạo ra nguồn kinh phí hỗ
trợ cho ngành y tế nhằm góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và
điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế ngày càng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu về chăm
sóc sức khỏe nhân dân.

1.1.2. Phân loại bảo hiểm y tế
1.1.2.1. Bảo hiểm y tế bắt buộc
Ở nước ta, Luật BHYT sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định: BHYT là
hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy
định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà
nước tổ chức thực hiện [42, tr.58]. Do vậy BHYT ở Việt Nam là BHYT xã
hội. Bảo hiểm y tế bắt buộc được hiểu là: Hình thức bảo hiểm trong đó toàn
bộ thành viên trong một tổ chức, cộng đồng nào đó dù muốn hay không cũng
phải mua BHYT với mức quy định. Các thành viên đóng góp vào một quỹ


chung và quỹ này dùng để thanh toán toàn bộ hoặc một phần theo gói dịch vụ
đã được xác định trước. Mức phí theo khả năng đóng góp. Mức phí này không
được định trên yếu tố rủi ro về sức khoẻ của người tham gia. Như vậy, về bản
chất, BHYT bắt buộc là một hình thức chia sẻ rủi ro giữa người giàu và người
nghèo, giữa người ốm đau bệnh tật và người khoẻ mạnh.
Bảo hiểm y tế là một chính sách kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, góp
phần ổn định đời sống xã hội và mang tính nhân văn cao cả. Do vậy, BHYT
có một số tính chất sau:
- Bảo hiểm y tế là một hoạt động dịch vụ: Thực vậy khi có người tham
gia BHYT thì cơ quan BHYT có nhiệm vụ phục vụ người được bảo hiểm
trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực. Khi hợp đồng thực hiện, cơ quan
BHYT có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện hợp đồng để người được bảo
hiểm đảm bảo về mặt tài chính khi gặp ốm đau và thực hiện chi trả chi phí
KCB cho người tham gia BHYT. Mục đích của BHYT là nhằm đảm bảo sự
tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế và công bằng trong KCB cho người tham gia.
Hoạt động BHYT không vì mục đích lợi nhuận mà là vì mục đích xã hội.
Khác với BHYT thương mại, BHYT thương mại là hoạt động kinh doanh vì
mục đích lợi nhuận và nó chỉ cung cấp dịch vụ cho nhóm thu nhập khá, không
bao gồm cung cấp dịch vụ KCB cho người nghèo, cho đối tượng được ưu đãi

như trong BHXH về y tế hay BHYT nói chung.
- Bảo hiểm y tế là một công cụ an toàn: Vì khi bị ốm đau, bệnh tật, nhất
là trong trường hợp bệnh hiểm nghèo hoặc thời gian KCB là quá dài. Khi đó
người bệnh và gia đình họ phải mất một khoản chi phí về tài chính lớn, có thể
họ khó có khả năng thanh toán được hoặc họ sẽ lâm vào tình trạng kiệt quệ về
kinh tế. Nhưng khi tham gia BHYT người bệnh sẽ được trả hoàn toàn hoặc
một phần chi phí KCB. Như vậy sẽ bớt được phần nào gánh nặng về tài chính
cho người bệnh cũng như thân nhân họ. Mặt khác nếu người dân tham gia các


loại hình bảo hiểm thương mại, họ vẫn phải lo lắng tài chính để thanh toán
các chi phí KCB sau đó mới được nhà bảo hiểm của họ thanh toán tiền, đây
cũng là một vấn để khó khăn đối với người dân khi phải vay mượn một khoản
tiền lớn trong hoàn cảnh ốm đau bệnh tật. Vì vậy, thông qua việc chi trả trước
của quỹ BHYT, người tham gia BHYT sẽ thoát khỏi nỗi lo lắng khi bị ốm đau
bệnh tật, đặcbiệt trong trường hợp bệnh nặng phải sử dụng các dịch vụ y tế có
chi phí cao.
- Bảo hiểm y tế là một hình thức tiết kiệm: Khi tham gia BHYT mọi
người đều có nghĩa vụ đóng góp phí. Và từ đây hình thành lên quỹ BHYT,
quỹ này dùng để chi trả các chi phí KCB cho bệnh nhân tham gia BHYT,
phần còn lại (nếu có) có thể đem đi đầu tư dưới một số hình thức được pháp
luật cho phép như mua tín phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng, cho vay thế
chấp… để tăng trưởng và đảm bảo an toàn cho quỹ. Tuy nhiên chi phí cho
hoạt động của BHYT luôn phát sinh, nguồn quỹ cho vay phải sau một thời
gian mới thu hồi được và khi đem đi đầu tư kinh doanh sẽ có thể gặp một số
rủi ro nhất định. Vì vậy, cơ quan BHYT phải có quỹ dự phòng và phải được
tính toán hợp lý. Việc đầu tư số tiền tạm thời nhàn rỗi phải thực hiện theo
nguyên tắc bảo toàn vốn và thực hiện theo các quy định của pháp luật về vốn
đầu tư hiện hành.
Đối tượng của BHYT là sức khoẻ của con người, bất kỳ ai có sức khoẻ

và có nhu cầu bảo vệ sức khoẻ cho mình đều có quyền tham gia BHYT. Như
vậy đối tượng tham gia BHYT là tất cả mọi người dân có nhu cầu BHYT cho
sức khoẻ của mình hoặc một người đại diện cho một tập thể, một cơ
quanđứng ra ký kết hợp đồng BHYT cho tập thể, cơ quan ấy.
Thông thường các nước đều có hai nhóm đối tượng tham gia BHYT là
bắt buộc và tự nguyện. Đối với BHYT bắt buộc thì thường được áp dụng đối
với công chức, viên chức nhà nước và một số đối tượng như người về hưu có


×