Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Múa dân gian đương đại vấn đề bản sắc trong xã hội việt nam thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 159 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THU HẰNG

MÚA DÂN GIAN ĐƢƠNG ĐẠI: VẤN ĐỀ BẢN SẮC
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI NHẬP
Ngành: Văn hóa học
Mã số: 9 22 90 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Hoàng Cầm
TS. Đoàn Thị Tuyến

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tư liệu nêu trong luận án là trung thực. Những nội dung nghiên cứu của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thu Hằng


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN.......................................................................................................................... 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu........................................................................... 14
1.2. Cơ sở lý luận......................................................................................................... 27
CHƢƠNG 2: XÃ HỘI VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ VẤN ĐỀ BẢN SẮC
VĂN HOÁ DÂN TỘC............................................................................................... 39
2.1. Bối cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại của Việt Nam sau đổi mới...........39
2.2. Vấn đề bản sắc văn hoá sau đổi mới..................................................................... 53
Tiểu kết........................................................................................................................ 64
CHƢƠNG 3: BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
MÚA DÂN GIAN ĐƢƠNG ĐẠI TIÊU BIỂU......................................................... 65
3.1. Múa dân gian đương đại: lịch sử hình thành và phát triển....................................65
3.2. Yếu tố bản sắc và hiện đại trong các tác phẩm múa tiêu biểu...............................69
Tiểu kết...................................................................................................................... 112
CHƢƠNG 4: MÚA DÂN GIAN ĐƢƠNG ĐẠI: TẠO DỰNG BẢN SẮC DÂN
TỘC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP.................................................................114
4.1. Bản sắc có chọn lọc trong các tác phẩm.............................................................114
4.2. Các yếu tố hiện đại được biên đạo lựa chọn trong các tác phẩm.........................126
4.3. Múa dân gian đương đại và sự kiến tạo/tạo dựng bản sắc văn hoá dân tộc trong bối
cảnh hội nhập.............................................................................................................133
KẾT LUẬN..............................................................................................................138
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ....................................142
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................143


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW


Ban chấp hành Trung ương

TW

Trung ương

NQ

Nghị quyết

HLHVHNT

Hội liên hiệp văn học nghệ thuật

NXB

Nhà xuất bản

Tr

Trang

VH/CT

Văn hoá/chỉ thị

VHQC

Văn hoá quần chúng


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TCCS

Tạp chí cộng sản

TP

Thành phố

NSND

Nghệ sỹ nhân dân

NCS

Nghiên cứu sinh


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986 Việt Nam chính thức mở cửa hội nhập với tất cả các nước
trên thế giới về mọi mặt. Việc hội nhập nhanh và mạnh không chỉ diễn ra ở
lĩnh vực kinh tế mà còn ở nhiều khía cạnh khác trong đời sống văn hoá và xã
hội, tạo ra những băn khoăn, lo ngại, trăn trở trong nhiều tầng lớp xã hội.
Những lo lắng, trăn trở tập trung vào vấn đề: Làm thế nào trong xu thế hội
nhập như hiện nay, Việt Nam vừa có thể hội nhập, bắt kịp sự tiên tiến của thời
đại, vừa có thể tạo ra được, khẳng định được một Việt Nam với những nét bản

sắc nhất để không bị hoà lẫn, pha trộn vào các quốc gia khác? Vấn đề này thể
hiện trong các chủ trương, chính sách của Đảng, trong thực tiễn quản lý và
thực hành văn hoá, nghệ thuật, trong các thảo luận trên truyền thông, trong
các hội nghị khoa học, vv...
Những nỗ lực để có một nền văn hoá Việt Nam "tiên tiến", "hiện đại"
nhưng “đậm đà bản sắc dân tộc" đã được thể hiện ở nhiều chính sách, chương
trình và hoạt động ở các cấp trung ương và địa phương, thể hiện ở các hoạt
động của cơ quan đoàn thể lẫn cá nhân những người hoạt động quản lý văn
hoá và nghệ thuật. Về chính sách, Hội nghị BCHTW4 khóa VII (tháng
1/1993) nhấn mạnh vấn đề gìn giữ và xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc, tộc
người đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển
văn hóa của Việt Nam. Theo đó, “mọi sự phát triển xã hội phải gắn liền với
việc kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc dân tộc. Phát triển tách khỏi
cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị
trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất
bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người
khác, của dân tộc khác” (Phạm Đình Hạc 1996:46). Tinh thần “hội nhập”
nhưng không “hòa tan”; “tiên tiến” nhưng phải “đậm đà bản sắc” của Nghị

1


quyết BCH TW4 khóa VII, có thể nói, trở thành "kim chỉ nam" cho các hoạt
động nghệ thuật như sân khấu, điện ảnh, hội hoạ, âm nhạc, múa, vv... cũng
như các các hoạt động và quản lý văn hoá khác. Tinh thần cốt lõi của Nghị
Quyết này vẫn được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện trong các kỳ Đại hội VIII,
IX, X, XI và XII.
Trong bối cảnh của hội nhập mạnh mẽ và trước sự đòi hỏi của xã hội trong
sự nghiệp phát triển văn hóa đất nước mà Đảng đã đề ra, nhiều cơ quan đoàn thể

và bản thân cá nhân các nhà hoạt động xác định nghệ thuật là một thành tố quan
trọng của văn hóa nên họ đã và đang nỗ lực tìm tòi con đường phát triển sao cho
vừa đáp ứng được yêu cầu của tinh thần Nghị quyết TW 4 là vừa đảm bảo được
tính hiện đại trong các tác phẩm vừa bảo vệ được bản sắc của truyền thống văn
hoá quốc gia, tộc người. Với nghệ thuật múa dân gian Việt Nam, những người
làm nghề cũng thể hiện sự băn khoăn, lo lắng khi phải đứng trước những đòi hỏi
của thời đại. Giới nghệ sỹ, biên đạo múa lo ngại về sự mất bản sắc trong các tác
phẩm múa dân gian đương đại, sự sính ngoại hay sự vắng bóng của ngôn ngữ
múa dân gian truyền thống Việt Nam trong các sáng tác múa mới thời kỳ đương
đại. Sau chính sách mở cửa hội nhập văn hóa, nghệ thuật các nước tràn vào Việt
Nam, tạo ra môt làn sóng vô cùng lạ lẫm và mới mẻ với nghệ thuật nước nhà.
Nghệ sỹ Việt Nam, nhất là thế hệ nghệ sỹ trẻ rất nhạy cảm đã nhanh chóng học
tập, du nhập làn sóng nghệ thuật mới, biểu diễn và sáng tác trên mọi sân khấu
không chuyên và chuyên nghiệp. Các hình thức, thể loại nghệ thuật mới này đã
nhanh chóng phát triển rất mạnh mẽ, tạo được chỗ đứng trong lòng khán giả, chủ
yếu là thanh thiếu niên, học sinh… Nghệ thuật các nước tràn vào Việt Nam cũng
tạo cơ hội cho nghệ sỹ, khán giả Việt Nam mở rộng hiểu biết về các thể loại nghệ
thuật trên thế giới, trau dồi và làm mới nghệ thuật truyền thống Việt Nam, để hội
nhập dễ dàng hơn, khoảng cách địa lí, văn hóa giữa Việt Nam và các nước được
rút ngắn hơn nhờ nghệ thuật và để hình ảnh về con người Việt Nam, đất nước
Việt Nam

2


được quảng bá sâu rộng trên thế giới thông qua nghệ thuật… Tuy nhiên, sự
hội nhập mạnh cũng tạo ra nguy cơ làm "mất bản sắc" của các tác phẩm,
không đáp ứng tinh thần của chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong sự nghiệp phát triển văn hoá nói chung. Đó là việc đảm bảo cho ra đời
những tác phẩm múa dân gian vừa mang tính chất “tiên tiến” của thời đại vừa

mang đậm yếu tố “bản sắc dân tộc”.
Bối cảnh Việt Nam thời kỳ hội nhập cho thấy có sự quan tâm đặc biệt
của toàn xã hội đến vấn đề nhận diện đâu là bản sắc văn hoá Việt Nam và phải
gìn giữ bản sắc đó như thế nào? Những nỗ lực đã được minh chứng và thể
hiện trên nhiều bình diện khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội. Song, với luận án này, NCS chọn đối tượng nghiên cứu là thể loại múa
dân gian đương đại để xem xét xem trong bối cảnh hội nhập những người
nghệ sỹ, biên đạo múa đã thể hiện/tạo dựng bản sắc văn hoá dân tộc như thế
nào để đáp ứng nhu cầu của nhà nước và xã hội trong quá trình xây dựng một
nền văn hoá Việt Nam mới trong bối cảnh mới. Đề tài luận án mong muốn
cung cấp thêm một nghiên cứu trường hợp cụ thể về quá trình tạo dựng bản
sắc văn hoá quốc gia/dân tộc trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập. Vì vậy,
NCS lựa chọn đề tài là: “Múa dân gian đương đại: Vấn đề bản
sắc trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập”. Thông qua đề tài, luận án
hướng tới trả lời các câu hỏi như: Trong bối cảnh hội nhập 1) Múa dân gian
đương đại đã được sử dụng để tham gia vào quá trình tạo dựng bản sắc văn
hóa Việt Nam như thế nào? 2) Những người nghệ sỹ múa đã và đang làm như
thế nào để các tác phẩm của mình có thể vừa “gìn giữ bản sắc” vừa thể hiện
sự “hội nhập” với xã hội đương đại? 3) Những thành tố văn hoá nào được sử
dụng để thể hiện tính “bản sắc” của dân tộc?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
-

Mục đích:

3


Thông qua nghiên cứu về vấn đề bản sắc trong múa dân gian đương đại
nói chung và các tác phẩm múa dân gian đương đại tiêu biểu, luận án góp

phần làm rõ thêm sự kiến tạo văn hoá quốc gia, dân tộc trong trong bối cảnh
hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận án có 3 nhiệm vụ nghiên cứu chính là:
1) Trình bày và phân tích nội dung, hình thức thể hiện, vv… các tác
phẩm múa dân gian đương đại tiêu biểu được đánh giá là có sự kết hợp giữa
tính “dân tộc”, “đậm bản sắc” và yếu tố hiện đại.
2) Tìm hiểu và chỉ ra các quan điểm, đánh giá, nhận xét của các nghệ sỹ, nhà
phê bình, lý luận về một số tác phẩm múa dân gian đương đại, đặc biệt là các quan

điểm liên quan đến “bản sắc văn hoá” được thể hiện trong các tác phẩm đó.
3) Xem xét và mô tả các thành tố văn hoá, kỹ thuật được sử dụng để thể
hiện tính “bản sắc” dân tộc và tính “hiện đại” trong các tác phẩm múa dân
gian đương đại.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm múa dân gian đương
đại Việt Nam và những vấn đề liên quan như bối cảnh ra đời, quan điểm sáng
tác, kỹ thuật thể hiện và các diễn ngôn về bản sắc văn hoá nói chung, bản sắc
văn hoá trong các tác phẩm nghệ thuật ở Việt Nam sau đổi mới nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án là một số tác phẩm múa dân gian
đương đại tiêu biểu. NCS lựa chọn một số tác phẩm ra đời trong bối cảnh hội
nhập, tạm tính từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa từ năm 1986 đến
nay. NCS không lựa chọn tác phẩm theo các mốc thời gian cụ thể mà trên tiêu
chí xác định tác phẩm có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu chính của
đề tài hay không. Vì vậy, công trình luận án này sẽ phân tích các tác phẩm

4



tiêu biểu ở thể loại múa dân gian đương đại. Các tác phẩm đó bao gồm: Thân
phận; Sương sớm; Sóng lụa ven đô; Nhinh sao; Nhịp điệu Tang Sành; Sắc
màu non cao; Séc bùa hồn Chiêng; Huyền ảo vĩnh hằng; Tiếng trống Paranul;
Múa quạt; 11 Keo Moni Mekhala. Khi lựa chọn, NCS chú ý đến nguồn gốc
tác phẩm cụ thể là: Tác phẩm của ai, là thể loại múa dân gian của vùng miền
nào, chủ đề phản ánh hay hình tượng nghệ thuật là gì… NCS quan tâm tới
việc tác phẩm được xây dựng như thế nào, ý tưởng/thông điệp của các biên
đạo và nghệ sỹ ở đây là gì, có những tranh luận nào liên quan tới xây dựng
bản sắc trong tác phẩm…
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
- Phương pháp luận
Về vấn đề bản sắc văn hoá
Trong giới học thuật vẫn tồn tại hai quan điểm đối nghịch nhau về bản sắc
văn hoá đó là, quan điểm bản thể luận và quan điểm kiến tạo luận: Theo quan
điểm bản thể luận thì bản sắc văn hoá được nhìn nhận là một thực thể tĩnh tại, cố
định và không thay đổi. Bản sắc là cái có sẵn, là “cái tôn/căn tính” (Barker
(2011,Tr: 299). Hay như nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “Nói đến bản sắc
văn hóa tức là nói đến cái mặt bất biến của văn hóa trong quá trình phát triển của
lịch sử. Dĩ nhiên văn hóa là một hệ thống những quan hệ, không phải là những
sự vật. Các hệ thống quan hệ này mang những tên gọi riêng, có thể chứa đựng
những cách lý giải khác nhau trong cách biểu hiện qua các thời đại. Cái tạo thành
tính bất biến trong các hệ thống quan hệ này là những nhu cầu của tâm thức con
người Việt Nam. Các nhu cầu này cơ bản là như nhau ở mọi tầng lớp, mọi lứa
tuổi, không liên quan đến tài sản, học vấn và khá ổn định, mặc dầu một tầng lớp
người có thể chiếm ưu thế hơn một tầng lớp người khác”.

Tuy nhiên, để tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam được thể hiện như
thế nào thông qua các tác phẩm múa dân gian được lựa chọn trong đề tài luận


5


án này, tác giả luận án sử dụng quan điểm kiến tạo luận khi xem xét, nghiên
cứu về vấn đề bản sắc trong các tác phẩm múa dân gian đương đại.
Bản sắc theo quan điểm kiến tạo luận được hiểu như sau:
Ngược lại với hướng bản thể luận, theo các nhà kiến tạo luận cho rằng:
mọi bản sắc luôn luôn biến đổi khi chịu tác động của bối cảnh. Mỗi một bối
cảnh khác nhau sẽ làm cơ sở để tạo dựng ra bản sắc mới nhằm phục vụ các
mục đích mới. Bản sắc dân tộc hay bản sắc văn hoá không phải chỉ là những
cái truyền thống - cái cũ mà bao gồm cả những cái mới - cái đang diễn ra,
không phải là những cái cao xa mà chính là những cái đời thường, hàng ngày.
Bản sắc dân tộc không chỉ là cái bất biến mà luôn có sự vận động, tương thích
với sự thay đổi của bối cảnh. Bởi vậy, bên cạnh các giá trị truyền thống, giá trị
cốt lõi, bản sắc văn hóa luôn được sáng tạo, bổ sung những giá trị mới những cái phù hợp với xã hội hiện đại trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
Bản sắc văn hóa “không phải là một vật cụ thể mà chỉ là một mô tả trong
ngôn ngữ (diễn ngôn)”. Nó là “những cách kết cấu diễn ngôn và có thể thay đổi

ý nghĩa theo thời gian, không gian và sự sử dụng” (Barker 2001, Tr:300).
Tác giả Đoàn Thị Tuyến, (2014, Tr:22). “Bản sắc văn hóa - từ góc độ lý
thuyết”. Tác giả nêu: “Theo quan điểm của kiến tạo luận, bản sắc văn hóa
được xem như là một quá trình và ở đó các yếu tố cấu thành luôn luôn vận
động. Bản sắc văn hóa được cấu thành thông qua trải nghiệm cá nhân/nhóm
trước môi trường xã hội, lịch sử và với các nhóm/cá nhân khác bên ngoài.
Không có bản sắc văn hóa tự thân hoặc bản sắc sẵn có. Ngược lại, bản sắc
văn hóa là tạo dựng và mang tính xã hội rõ rệt. Sự cấu thành của bản sắc văn
hóa giống như là diễn ngôn, luôn thông qua sự thể hiện và ở đó chúng không
nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của quyền lực nói chung”.
Tác giả Đỗ Huy - Trường Lưu (1990), “Bản sắc dân tộc của văn hoá”.
Hai tác giả cho biết: “Bản sắc dân tộc của mỗi nền văn hóa không tách rời các

giá trị truyền thống nhưng căn bản mang tính hiện đại. Các giá trị truyền

6


thống tham gia tạo dựng bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống. Còn bản sắc
văn hóa dân tộc hiện đại đại diện cho diện mạo văn hóa dân tộc hiện đại”
(Tr:15). Hai tác giả còn đề cập đến sự phát triển và biến hóa của bản sắc dân
tộc: “Nói bản sắc dân tộc nghiêng về diện mạo có hồn của văn hóa mỗi dân
tộc. Nó thể hiện ở mọi nơi, mọi chỗ theo kiểu cách riêng của mỗi dân tộc. Nó
được phát triển và biến hóa bởi sự nghiệp lao động và chiến đấu của nhiều thế
hệ trong lịch sử dân tộc.” (Tr:15-16).
Đại diện cho quan điểm kiến tạo luận trong nghiên cứu về bản sắc văn
hóa ở Việt Nam không thể không kể đến tác giả Nguyễn Văn Chính. Qua bài
viết “Tôn thờ tổ tiên, bản sắc văn hóa và chủ nghĩa dân tộc trong nhân học
Việt Nam đương đại”, in trong Tạp chí Văn hóa Dân gian, tác giả đặt ra các
vấn đề quan trọng của bản sắc như: bản sắc văn hóa Việt Nam là gì, và bản
sắc ấy có vai trò, ý nghĩa thế nào trong quá trình toàn cầu hóa? Theo tác giả,
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế các nhà nghiên cứu văn hóa băn
khoăn, lo lắng về việc tìm ra đâu, cái gì… là bản sắc văn hóa Việt Nam để
khẳng định và phân biệt trong ngôi nhà văn hóa chung toàn cầu. Chính từ bối
cảnh này mà vấn đề thờ cúng tổ tiên được tạo dựng, được nhìn nhận như một
“quốc đạo” và là một biểu tượng mới cho văn hóa Việt Nam. “Cách tiếp cận
Việt Nam như một thực thể thống nhất (unified entity) với những biểu tượng
văn hóa chung giờ đây không còn ý nghĩa nữa, đơn giản bởi vì là trong khi cố
gắng bao gồm các nhóm tộc người, các xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ và phong
tục vào một khuôn mẫu chung, người ta không thể nhìn thấy hết sự đa dạng và
khác biệt. Cái gọi là bản sắc văn hóa được phát hiện trên cơ sở của cách tiếp
cận này rõ ràng chỉ là một dạng bản sắc được cấu trúc có tính nhân tạo
(artificially constructed identity)”. Để lý giải cho điều này tác giả đã đưa ra

minh chứng qua quan sát cách thờ cúng tổ tiên của người Việt (Kinh) và một
số dân tộc. Người Kinh thường chọn nơi trang trọng nhất trong gia đình để
thờ cúng tổ tiên, (gian giữa nhà, nơi đảm bảo tất cả mọi người có thể dễ dàng

7


nhìn thấy), còn một số nhóm dân tộc thường thờ cúng ở góc khuất khó có thể
nhìn thấy như góc nhà hay trên gác bếp. Cách tưởng nhớ người đã khuất cũng rất
đa dạng, người Việt (Kinh) thờ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, đặc biệt có
ngày giỗ, người Thái chỉ thờ linh hồn người cha đã khuất, người Bana cắt đứt
mối liên hệ giữa người sống với người chết từ sau lễ bỏ mả… Như vậy, có thể
thấy việc thờ cúng tổ tiên của các tộc người ở Việt Nam rất đa dạng và không có
cơ sở để nói đó là một mẫu số chung. Các cách thờ cúng tổ tiên khác nhau đó
cũng có thể giao thoa với nhau và tác động lẫn nhau như một quá trình tiếp biến
văn hóa để tạo dựng bản sắc. Chính vì thế, bản sắc không thể được nhìn nhận
như một thực thể tĩnh mà sẽ luôn vận động và biến đổi. Tác giả đã chỉ rõ khái
niệm bản sắc văn hóa chỉ là một dạng bản sắc được cấu trúc có tính nhân tạo
(artificially constructed identity) tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của nhà
nghiên cứu cũng như tác động trong từng bối cảnh cụ thể.

Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận”, tác giả
Nguyễn Văn Xuân thông qua bài viết mang tên “Bản sắc dân tộc ứng dựng
vào đổi mới” đã bàn về vấn đề y phục của Việt Nam trải qua từng giai đoạn.
Từ khi ông cha ta đóng khố, bận váy, đến thời người Trung Quốc đời nhà
Minh thay đổi thành quần có thắt lưng. Đến thời Pháp y phục lại thay đổi sang
kiểu Âu hóa quần Tây, áo sơmi. “chúng ta thay đổi bản sắc dân tộc có từ thế
kỷ 17 để chuyển sang một bản sắc mới đang hình thành do phong khí mới của
phong trào mới gọi là Âu hóa cũng là điều tự nhiên”. Có thể thấy rõ ràng một
bản sắc mới được hình thành để phù hợp với bối cảnh xã hội mới. “Bản sắc

dân tộc không chỉ duy trì sâu sắc cho cái cũ có giá trị mà chính nó tạo nên tập
tục cho giá trị mới trở thành truyền thống mới để phát triển.” (Tr:335).
Về việc lựa chọn các tác phẩm múa
Để tìm hiểu về bản sắc văn hóa đã và đang được các nhà biên đạo sáng
tác như thế nào, NCS đã lựa chọn 12 tác phẩm múa dân gian đương đại thuộc
10

vùng miền, tộc người khác nhau trên cả nước như: Kinh, Thái, Mường,

8


Cao Lan, Dao, Chăm, Khmer. Các tác phẩm NCS lựa chọn đó là: Sóng lụa
ven đô; Sương sớm; Thân phận; Nhinh sao, Nhịp điệu Tang Sành; Sắc màu
non cao; Séc bùa hồn chiêng; Trống Paranul; Huyền ảo vĩnh hằng; Múa quạt;
Nấm báo mưa; 11 Robam Keo Moni Mekhala.
NCS đã gặp gỡ và trò chuyện với từng biên đạo của các tác phẩm nói
trên, tổ chức tọa đàm, thảo luận nhóm, tổ chức các cuộc phỏng vấn sâu với
mục đích tìm hiểu những quan điểm, nhận xét của các đối tượng hay nhóm
đối tượng khác nhau về các tác phẩm được lựa chọn phân tích trong luận án
và về cách các nhà biên đạo lựa chọn các thành tố thể hiện yếu tố bản sắc
trong mỗi tác phẩm.
Các tác phẩm múa dân gian đương đại được NCS lựa chọn để phân tích
trong luận án được gọi là tiêu biểu bởi những lý do sau: (1), Đây đều là các
tác phẩm được biên đạo lựa chọn trong rất nhiều các sáng tác về bản sắc dân
tộc; (2), Các tác phẩm đều được cộng đồng nơi tác phẩm phản ánh công nhận
và lựa chọn là tác phẩm tiêu biểu; (3), Đa số các tác phẩm đều đạt giải cao
trong các cuộc thi do các đơn vị chuyên môn uy tín tổ chức như Hội nghệ sỹ
múa Hà Nội, Hội nghệ sỹ múa Việt Nam, liên hoan nghệ thuật các cấp của
tỉnh, thành phố…

Thông qua phân tích các tác phẩm múa được lựa chọn, ở phần viết này
sẽ tập trung trả lời câu hỏi: Những thành tố đã được các biên đạo lựa chọn để
tạo dựng bản sắc trong tác phẩm là gì và tại sao các biên đạo lại lựa chọn
những thành tố đó?
Đối với mỗi một tác phẩm múa dân gian đương đại, các yếu tố như: chủ
đề tư tưởng, hình tượng nghệ thuật, ý nghĩa tác phẩm, âm thanh, ánh sáng,
trang phục, đạo cụ, ngôn ngữ động tác, cách tạo hình, tuyến múa…đều được
phân tích, mô tả cụ thể, chi tiết theo tư liệu cung cấp của biên đạo, kết quả
thảo luận nhóm và thông qua các đánh giá của các đối tượng người xem.

-

Phương pháp nghiên cứu

9


Để triển khai đề tài luận án, NCS đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu định tính, phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu.
Đối với phương pháp nghiên cứu định tính, NCS đã thực hiện nhiều đợt
khảo sát thực tế, tiến hành quan sát tham dự, kết hợp với phỏng vấn sâu. Để
có thể thu thập thông tin một cách khách quan và chính xác nhất, NCS đã có
mặt ở nhiều buổi biểu diễn, các chương trình giao lưu nghệ thuật. Bên cạnh
quan sát, khi có cơ hội, NCS còn tiến hành phỏng vấn/trò chuyện với các
chuyên gia, biên đạo, diễn viên, nhà phê bình lí luận múa và cả khán giả những người đã có mặt ở các chương trình biểu diễn. Ngoài ra, NCS còn tổ
chức các buổi semina theo nhóm đối tượng ở nhiều vùng miền khác nhau nơi
các tác phẩm phản ánh tới. Các cuộc thảo luận nhóm ở Tuyên Quang, Hoà
Bình, Sơn La, Điện Biên, Trà Vinh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Sóc Trăng,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội… đối tượng tham gia chủ yếu là những
khán giả đã được xem tác phẩm, diễn viên của các phẩm, biên đạo, nghệ nhân

và các nhóm khán giả chưa được xem tác phẩm trước đó. Trong quá trình
phỏng vấn hay thảo luận nhóm, NCS thường ưu tiên sử dụng các câu hỏi mở
đối với các đối tượng tham gia, đặt trọng tâm câu hỏi vào tìm hiểu suy
nghĩ/quan điểm của họ về các vấn đề như: những thành tố nào trong tác phẩm
thể hiện được bản sắc?; Ngoài những thành tố được biên đạo lựa chọn, còn
những thành tố nào khác không?; Những yếu tố bản sắc được thể hiện như thế
nào thông qua nội dung, hình tượng nghệ thuật, trang phục, đạo cụ mà biên
đạo đã sử dụng trong tác phẩm?; Những nguyên nhân chủ quan/khách quan
nào đưa đến sự lựa chọn của biên đạo về các yếu tố bản sắc trong mỗi tác
phẩm?... Phương pháp quan sát tham dự kết hợp phỏng vấn sâu cho phép
NCS hiểu sâu hơn về suy nghĩ/quan điểm của các nhà biên đạo về bản sắc văn
hóa/bản sắc dân tộc, lý do họ lựa chọn hình tượng nghệ thuật/động tác/trang
phục/âm nhạc cho tác phẩm hoặc cảm nhận của các khán giả về tác phẩm...vv.
Việc thực hiện các quan sát và trò truyện trực tiếp còn giúp NCS hiểu sâu hơn

10


về sự khác nhau trong các quan điểm/cách thức lựa chọn/thể hiện bản sắc ở
mỗi vùng miền/địa phương …
Trong quá trình thu thập tư liệu cho đề tài luận án, NCS đã phỏng vấn
các nhóm đối tượng sau:
+ Nhóm biên đạo, nghệ sỹ đã về hưu: Đây là những người đã trải qua
nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của dân tộc, đại diện cho lớp thế hệ nghệ sỹ
tiên phong sưu tầm, chỉnh lý hệ thống động tác múa dân gian truyền thống
trong các lễ hội để trở thành hệ thống múa đào tạo trong các trường nghệ thuật
chuyên nghiệp. Sự nghiệp của họ gắn liền với các sáng tác múa dân gian
truyền thống.
+ Nhóm biên đạo, nghệ sỹ thế hệ 7x và 8x: Họ thuộc thế hệ sinh ra khi
đất nước đã hoàn toàn ra khỏi chiến tranh và trên đà hội nhập sâu rộng về kinh

tế, văn hóa, chính trị…, đại diện cho thế hệ vừa muốn gìn giữ, bảo vệ những
di sản văn hóa của dân tộc vừa muốn cách tân để theo kịp xu hướng của thời
đại.
+ Nhóm những nhà quản lý văn hóa nghệ thuật: Đây là những người có
vai trò hoạch định chính sách, đường lối phát triển văn hóa nghệ thuật cho đất
nước, đại diện các quan điểm chính thống của Nhà nước về vấn đề giữ gìn bản
sắc trong nghệ thuật múa hiện nay.
+ Nhóm khán giả hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật múa: Họ là
những nghệ sĩ, biên đạo chuyên nghiệp, có thể đưa ra các nhận định chuyên
môn sâu đối với tạo dựng bản sắc văn hoá dân tộc trong các tác phẩm múa
dân gian đương đại và với cách thức lựa chọn các thành tố thể hiện bản sắc
trong tác phẩm múa được phân tích trong luận án.
+ Nhóm khán giả ngoài ngành: Họ bao gồm tất cả quần chúng nhân dân
không phân biệt lứa tuổi, giới tính hay nghề nghiệp, là những người đã từng
xem múa dân gian đương đại hoặc được NCS lựa chọn ngẫu nhiên để thu thập
thông tin cho đề tài luận án. Nhóm đối tượng này có thể giúp NCS nhận

11


diện/phân biệt được các thành tố của bản sắc dân tộc/tộc người nào được thừa
nhận trong các tác phẩm múa.
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài luận án NCS đã gặp gỡ, trao đổi
và phỏng vấn sâu 12 biên đạo của 12 tác phẩm được lựa chọn phân tích trong
luận án. Tổ chức hơn 10 cuộc thảo luận nhóm với mỗi nhóm khoảng từ 7 đến
10 khách mời, họ là biên đạo, là nhà báo, là nhà quản lý văn hoá, là khán giả,
diễn viên, nghệ nhân…
- Về phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu:
NCS đã tiến hành tổng thuật và phân tích nhiều tài liệu đã xuất
bản/công bố, cụ thể là các bài báo, phát biểu tại các cuộc hội thảo chuyên

ngành múa và bài tạp chí của Hội nghệ sỹ múa Hà Nội, Hội nghệ sỹ múa Việt
Nam. Khi thực hiện tổng thuật, NCS ưu tiên tìm hiểu các quan điểm, bàn luận
xoay quanh thể loại múa dân gian đương đại thể hiện trong các bài viết về sự
nghiệp phát triển múa nước nhà trong bối cảnh hội nhập. NCS cũng quan tâm
tới các tài liệu, sách, báo, các công trình nghiên cứu liên quan chẳng hạn về
vấn đề bản sắc, bản sắc dân tộc hay các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước trong sự nghiệp phát triển văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc trong
xu thế hội nhập toàn cầu. Ngoài ra, không chỉ các bài viết, nghiên cứu, phê
bình, lý luận về múa dân gian đương đai mà cả những bài viết, cuốn sách về
nghệ thuật nói chung bao gồm điện ảnh, âm nhạc, sáng tác ca khúc và các thể
loại nghệ thuật khác cũng thuộc phạm vi quan tâm của đề tài.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
-

Luận án đưa ra cách tiếp cận mới trong nghiên cứu về nghệ thuật, cụ

thể là múa dân gian đương đại, chú trọng khía cạnh văn hoá, xã hội và chính
trị của các tác phẩm nghệ thuật. Múa dân gian đương đại, ở cả bình diện nội
dung lẫn bình diện nghệ thuật (chất liệu, ngôn ngữ, âm nhạc, vv...), theo cách
tiếp cận nghiên cứu này, có mối liên hệ khăng khít với bối cảnh và nền tảng
văn hoá- xã hội nơi nó được sinh ra và tồn tại.

12


- Đề tài luận án là một nghiên cứu trường hợp đầu tiên về múa dân gian
đương đại dưới góc nhìn kiến tạo luận bản sắc, giúp người đọc hiểu sâu hơn
về quá trình tạo dựng bản sắc quốc gia/dân tộc trước những đòi hỏi của xã hội
thời kỳ hội nhập và việc thực hiện chính sách phát triển văn hoá “tiên tiến”,
“đậm đà bản sắc” của Việt Nam. Thông qua việc phân tích múa dân gian

đương đại, luận án cung cấp những hiểu biết mới và sâu hơn về quá trình tạo
dựng bản sắc trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Thông qua nghiên cứu về quá trình kiến tạo “bản sắc”
văn hoá quốc gia, dân tộc thể hiện qua việc xây dựng/thể hiện các tác phẩm
múa dân gian đương đại, đề tài luận án góp phần cung cấp thêm một hiểu biết
chuyên ngành về vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc/tộc người trong bối cảnh
Việt Nam đương đại.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án sẽ là một tài
liệu tham khảo hữu ích cho những nghiên cứu sau này về bản sắc thông qua
ngôn ngữ nghệ thuật nói chung và nghệ thuật múa nói riêng trước đòi hỏi của
xã hội và thời đại, góp phần vào sự nghiệp gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc/tộc
người theo đúng tinh thần, chủ trương, chính sách “tiên tiến” và “đậm đà bản
sắc” mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận. Đề tài luận án được chia làm 4
chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2: Xã hội Việt Nam sau đổi mới và vấn đề bản sắc văn hoá quốc gia,
tộc người
Chương 3: Bản sắc văn hoá quốc gia, tộc người trong một số tác phẩm múa
dân gian đương đại tiêu biểu
Chương 4: Múa dân gian đương đại: Tạo dựng bản sắc quốc gia, tộc người
trong bối cảnh hội nhập

13


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Các nghiên cứu về múa và múa dân gian đương đại Việt Nam
Múa dân gian và múa dân gian đương đại thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của không chỉ giới chuyên môn mà còn là đề tài dành được sự
quan tâm chú ý của ngành nghiên cứu văn hoá là bởi vì: Từ khi Việt Nam
chính thức mở cửa hội nhập, nghệ thuật thế giới du nhập vào Việt Nam với
tốc độ “không kiểm soát” được, giới trẻ bao gồm cả những người theo học
chuyên nghiệp, biên đạo, diễn viên đến những cá nhân, nhóm hoạt động tự
do…có thêm nhiều cơ hội được quan sát, học hỏi qua nhiều kênh khác nhau
về các thể loại nhảy múa trên toàn thế giới. Sự thâm nhập của các thể loại
nghệ thuật nhảy múa mới mẻ này đã nhanh chóng trở nên chiếm ưu thế trên
thị trường thưởng thức nghệ thuật trong nước. Thể loại nghệ thuật dân gian
truyền thống bị vắng bóng trên các sân khấu và những người trong giới bắt
đầu lo ngại về sự mất đi của thể loại múa đã ra đời và ăn sâu trong đời sống
văn hoá cộng đồng mỗi dân tộc Việt Nam. Điều này cũng nằm trong sự lo
ngại chung của toàn dân tộc về sự “cào bằng” văn hoá hay “mất bản sắc” dân
tộc. Tâm lý sợ đánh mất mình, sợ bị hoà tan trong thế giới toàn cầu hoá của
Việt Nam hậu thuộc địa - một đất nước vừa thoát khỏi sự đô hộ của thực dân,
luôn muốn khẳng định mình, xây dựng một quốc gia độc lập, có bản sắc riêng
và không thể bị nhầm/trộn lẫn với bất kỳ quốc gia nào khác, đã trở thành nỗi
ám ảnh và là nhiệm vụ của toàn ngành văn hoá trong đó có nghệ thuật. Vì lý
do ấy, các nhà nghiên cứu, sưu tầm bắt đầu nhìn nhận múa và cụ thể là múa
dân gian Việt Nam như một kho tàng văn hoá gắn với bản sắc dân tộc và cần
được nhìn nhận lại giá trị của nó trong bối cảnh đương đại. Các công trình
nghiên cứu lần lượt ra đời, các cuộc hội thảo lớn nhỏ của ngành múa đã được
tổ chức. Trong rất nhiều các nghiên cứu về múa đã cho thấy múa là một thành

14


tố văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc cần được gìn giữ và phát triển. Trong

phần tổng thuật này NCS sẽ tập trung vào các công trình tiêu biểu nhất, có
liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu chính của đề tài luận án:
Viết về lịch sử nghệ thuật múa, Lê Ngọc Canh là một trong những nhà
nghiên cứu được nhiều người biết tới. Năm 2009, ông đã xuất bản cuốn sách
Lịch sử nghệ thuật múa Việt Nam. Đây có thể coi là một công trình nổi bật
nhất của ông về chủ đề này; ở đây ông đã tổng kết lại lịch sử nghệ thuật múa
dân gian Việt Nam gắn liền với tiến trình phát triển dân tộc. Ngoài ra, viết
riêng về chủ đề múa dân gian của các dân tộc thiểu số, tác giả Lê Ngọc Canh
còn có nhiều ấn phẩn khác như: Nghệ thuật múa người Mạ (2005); Nghệ
thuật múa tộc người Châu Ro (2005) và Múa tín ngưỡng dân gian Việt Nam
(1998). Các ấn phẩm trên là kết quả sưu tầm nghiên cứu của tác giả về kho
tàng múa dân gian của các dân tộc thiểu số, nhằm bổ sung, hoàn thiện vào kho
tàng văn hóa nghệ thuật dân gian các dân tộc Việt Nam. Đây cũng là sự đóng
góp đầy tâm huyết của ông đối với công tác bảo tồn và gìn giữ nền nghệ thuật
múa của Việt Nam thời kỳ hội nhập. Đặc biệt tác phẩm Múa tín ngưỡng dân
gian Việt Nam phản ánh cái nhìn sâu sắc về nghệ thuật múa dân gian đặt trong
mối quan hệ với thực hành văn hoá tín ngưỡng. Múa ở đây được coi là một
thành tố văn hóa, và vì vậy mọi động tác, ngôn ngữ múa đều mang một ý
nghĩa biểu tượng nào đó của văn hóa tộc người trong các bối cảnh cụ thể.
Bên cạnh các nghiên cứu đã được công bố của Lê Ngọc Canh, các tác
phẩm: Tìm hiểu về nghệ thuật múa Việt Nam (2001) và Nghệ thuật múa dân tộc
Việt (1979) của Lâm Tô Lộc hay Múa dân gian trong tác phẩm múa chuyên
nghiệp Việt Nam của Ứng Duy Thịnh (2006) cũng là những tác phẩm có đóng
góp quan trọng, giúp hoàn thiện hơn nữa những khảo cứu mang tính thực tiễn về
kho tàng múa dân gian của dân tộc và ý nghĩa của nghệ thuật múa trong đời sống
đương đại. Các tác phẩm này phản ánh kết quả bước đầu và quan trọng về
nghiên cứu sự phát triển của múa dân gian dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập đã

15



có sự tham gia mạnh mẽ của các thể loại múa mới, đặc biệt là múa ballet - cổ
điển châu Âu. Đây cũng chính là tiền đề cho sự ra đời của hàng loạt các tác
phẩm được sáng tác theo phong cách mới - dân gian kết hợp với hiện đại.
Nhìn chung các tác phẩm đã công bố ở trên tập trung tìm hiểu về thể loại
múa của dân tộc và kho tàng nghệ thuật múa của dân tộc đó với các đặc trưng
về ngôn ngữ động tác, văn hóa nghệ thuật vùng miền, tuyến múa và phong
cách thể hiện. Các tác phẩm này, trên thực tế, đã được sử dụng làm cơ sở cho
việc biên soạn và chỉnh lý giáo trình múa dân gian dân tộc, tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác đào tạo diễn viên, biên đạo múa. Chúng đồng thời cũng
gợi mở cho các nghiên cứu về múa sau này có cơ sở lý luận nền tảng về hệ
thống múa dân gian các dân tộc và là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo.
Ở một khía cạnh nào đó, những nỗ lực, tìm tòi của các nhà nghiên cứu múa
thời kỳ này cũng chính là quá trình đi tìm những biểu hiện đặc trưng mang
tính bản sắc của ngôn ngữ múa dân gian ở từng tộc người cụ thể, điều đó cho
phép biên đạo nhận diện các thành tố ngôn ngữ múa thể hiện bản sắc văn hoá
dân tộc/tộc người và đưa vào trong các tác phẩm múa dân gian đương đại.
Múa và vấn đề tính dân tộc, hiện đại trong tác phẩm
Nghệ thuật múa nói chung và múa dân gian dân tộc Việt Nam nói riêng
hiện nay đang được rất nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật và nghiên cứu văn
hóa quan tâm. Sự phát triển của nghệ thuật múa đặt trong bối cảnh của sự phát
triển văn hóa có sự giao lưu hội nhập với nghệ thuật thế giới, đặt trong những
chính sách để gìn giữ và phát huy bản sắc. Dòng chảy của nghệ thuật đương
đại các nước du nhập vào Việt Nam và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trước
tình hình đó, giới nghệ sỹ múa cũng đã thể hiện tiếng nói, suy nghĩ của mình
về sự phát triển của nghệ thuật múa dân gian Việt Nam bằng các bài viết, bài
tham luận, bài báo và bài phát biểu tại các hội thảo chuyên ngành.
Năm 1993, Bộ Văn hóa Thông tin và Viện Âm nhạc và Múa đã xuất
bản cuốn Những vấn đề dân tộc hiện đại trong nghệ thuật múa, tập trung 26


16


bài viết của các tác giả là nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu tú, biên đạo, diễn viên
múa, nhạc sĩ và họa sĩ. Nội dung của cuốn sách xoay quanh câu hỏi: nên phát
triển múa như thế nào trong thời đại hội nhập để không đánh mất bản sắc dân
tộc? Tính dân tộc và hiện đại là hai thuật ngữ được sử dụng chính trong tất cả
các bài viết, thể hiện sự tìm tòi, quan điểm của các nghệ sĩ trước vấn đề xác
định tính dân tộc, bản sắc dân tộc trong múa. Một số bài viết nổi bật là: Bàn
về truyền thống và phát triển nghệ thuật múa Việt Nam của Lê Ngọc Canh;
Tính dân tộc hiện đại trong múa của Lâm Tô Lộc; Dân tộc hiện đại, một định
hướng cho sự bảo tồn và phát triển nghệ thuật múa Việt Nam của Vũ Đức
Thoàn; Vài suy nghĩ về gìn giữ phát triển nghệ thuật múa của Ngọc Cường;
Vị trí của di sản múa dân tộc trong nghệ thuật múa dân tộc hiện đại của
Hoàng Hà; và Hướng về cội nguồn - xây dựng một nền nghệ thuật múa đậm
đà bản sắc dân tộc của Trương Lê Giáp. Một số luận điểm về tính dân tộc
cũng được đặc biệt đề cập trong các bài tham luận chẳng hạn: Trong bài “Dân
tộc hiện đại, một định hướng cho sự bảo tồn và phát triển nghệ thuật múa
Việt Nam”, Vũ Đức Thoàn nhận định, “trong nghệ thuật múa, tính dân tộc
được biểu hiện trong nội dung và hình thức của tác phẩm. Đó là sự thể hiện
bản sắc dân tộc và những yếu tố tinh thần của dân tộc.” (Tr:66). Tác giả cho
rằng tính dân tộc hay bản sắc dân tộc Việt Nam nằm ở tính cách, cốt cách của
con người Việt Nam đã được minh chứng trong lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc ta như: bền bỉ, cần cù, cứng cỏi, anh hùng, không
chịu khuất phục…; cũng trong bài viết này tác giả viết: “Giữ gìn bản sắc dân
tộc có nghĩa là chúng ta giữ gìn cái tinh hoa, cốt cách của dân tộc và phải biết
gắn cái tinh hoa ấy với sự tiếp thu tinh hoa của thế giới, của nhân loại. Có như
thế mới có thể đưa nền nghệ thuật múa dân tộc của ta ngang tầm thời đại,
ngang tầm thế giới” (Tr:68).
Khác với quan điểm vừa nêu, tác giả Lê Ngọc Canh, trong bài viết Bàn

về truyền thống và phát triển nghệ thuật múa Việt Nam lại chia sự phát triển

17


của nghệ thuật múa Việt Nam thành ba kiểu dạng: Một là, Múa dân gian; Hai
là, Múa sáng tác trên chất liệu múa dân gian và thứ ba là Múa mới. Tác giả
viết về kiểu dạng thứ ba như sau: “Có những biên đạo say sưa với kiểu dạng
này, với khái niệm là mốt, là mới, là dân tộc, hiện đại và cũng bỏ ra khá nhiều
công sức, sáng tạo để hiện lên một hướng mới, kiểu mới. Song không mấy tác
phẩm thành công… dấu ấn của múa truyền thống dân tộc khá mờ nhạt và thật
khó tìm…” (Tr:7-8). Tác giả khẳng định ở ba kiểu dạng trên đều có điều kiện
phát triển tuy nhiên “đứng về góc độ nghiên cứu nghệ thuật múa dân gian dân
tộc thì dạng kiểu thứ nhất cần được quan tâm, tạo điều kiện nuôi dưỡng, chăm
sóc… Phải trả cho nó cái đích thực, cái chất dân gian, biến nó như một bảo
tàng về múa dân gian Việt Nam. Có như vậy, các thế hệ tiếp theo mới có cơ sở
để tìm đến và hiểu bản sắc, tinh hoa, cội nguồn múa dân gian, dân tộc Việt
Nam đích thực” (Tr:8).
Lâm Tô Lộc khi nhắc đến vấn đề tính dân tộc trong sự phát triển của
nghệ thuật múa ở Việt Nam đã cho rằng múa cần được phát triển để phù hợp
với thời đại, song sự phát triển ấy phải dựa trên kế thừa những tinh hoa của
nghệ thuật múa truyền thống, đồng thời kế thừa cả những tinh hoa của nhân
loại. Ông viết: “Sự kế thừa không chỉ giới hạn trong phạm vi văn hóa dân tộc
mà thường mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia để tiếp thu tinh hoa của nhân
loại. Tất nhiên, diễn ra một quá trình tiếp biến văn hóa để dân tộc hóa các yếu
tố ngoại nhập, nhằm gìn giữ bản sắc dân tộc cho múa” (“Tính dân tộc, hiện
đại trong múa” (1993), Tr:11). Tác giả cũng nêu quan điểm của mình về
những tác phẩm múa mới. Ông cho rằng, các tác phẩm múa mới đạt chất
lượng phải đảm bảo được tính dân tộc và hiện đại đều là sản phẩm sáng tạo
của những người vừa là nhà nghiên cứu vừa là biên đạo. Theo ông, chỉ những

nhà nghiên cứu mới hiểu rõ được nhiều mặt của một vấn đề từ nội dung, thể
loại, hình thức, phương tiện biểu hiện, phương pháp kết cấu, …đến mối quan
hệ giữa múa và các thành tố văn hóa khác như phong tục, lễ nghi… để tìm ra

18


quy luật khi sáng tạo cái mới. Tác giả gọi người biên đạo ấy là “mô hình nhân
cách sáng tạo tối ưu” có khả năng tạo ra những giá trị múa dân tộc đích thực
và đảm bảo tính dân tộc hiện đại trong tác phẩm múa mới.
Vấn đề phát triển múa dân gian trong xã hội đương đại
Từ năm 2000 trở lại đây, vấn đề phát triển múa dân gian Việt Nam
trước xu thế hội nhập đã được đề cập đến ở nhiều bài viết/báo cáo trình bày
tại hội thảo, hội nghị và trên các tạp chí chuyên ngành như: Hội nghị lý luận
phê bình múa tháng 12 - 2007; Hội thảo sáng tác múa trong cơ chế thị trường
và hội nhập tháng 12 - 2008; và Tạp chí Nhịp điệu … Tại các hội thảo, hội
nghị và tạp chí này đều dành một thời lượng không nhỏ cho những bàn
luận/trao đổi về sự phát triển của nghệ thuật múa Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập với nghệ thuật thế giới. Một câu hỏi được đặt ra thường xuyên là: “Hội
nhập như thế nào để theo kịp sự phát triển của thời đại nhưng không làm mất
đi bản sắc dân tộc?”. Đây cũng chính là chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước được thể hiện trong nghị quyết TW 5 khóa VIII về phát triển văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
“Văn nghệ bồi dưỡng, nâng cao con người chứ không phải là nơi giãi
bày tâm trạng cá nhân, hạ thấp con người… hòa nhịp đập trái tim mình với
nhịp đập trái tim toàn dân tộc, chứ không phải đi vào tâm trạng cá nhân, gặm
nhấm tâm tư yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn
chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui giải trí, hoặc một cuộc chơi,
một đam mê tầm thường”1 (Đây cũng là một đánh giá, phản ảnh phần nào
thực trạng trong sáng tác múa hiện nay.

Con đường phát triển và sáng tạo của nghệ thuật múa dân gian từ môi
trường diễn xướng dân gian đến sân khấu biểu diễn phục vụ cho những mục

1 Trích bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị liên hiệp các HLHVHNT toàn quốc

29/1/2013

19


đích khác nhau của xã hội đã làm thay đổi căn bản ý nghĩa đích thực của múa
dân gian khi nó ở trong môi trường diễn xướng - nơi khởi nguồn của múa dân
gian truyền thống. Trào lưu “sân khấu hóa” hay “sáng chế truyền thống” đối
với nghệ thuật múa dân gian khi Việt Nam mở cửa hội nhập, nhất là trong giai
đoạn hiện nay với sự lên ngôi của nghệ thuật múa đương đại đã đặt nghệ thuật
múa dân gian Việt Nam trong bối cảnh có nguy cơ bị “yếu thế”, “mờ nhạt”
hay “bị lãng quên” như một số nghệ sỹ đang lo ngại. Và vấn đề này vẫn đang
được giới nghệ sỹ múa, quản lý nghệ thuật múa tìm cách tháo gỡ, tìm ra con
đường đúng đắn nhất để nghệ thuật múa dân gian Việt Nam vẫn phát triển
trong thời kỳ mới mà không làm mất đi bản sắc dân tộc. Nói đến vấn đề sáng
tạo múa dân gian với nghệ thuật múa đương đại, mới đây Hội nghệ sỹ múa
Việt Nam đã cho xuất bản 2 tập sách Nghệ thuật múa những khoảnh khắc
sáng tạo tập I và tập II (Nxb Mỹ thuật, tháng 6/2015), có nội dung về sự sáng
tạo của nghệ thuật múa hiện nay. Hai tập sách, ngoài giới thiệu các tác phẩm
sáng tạo mới, cũng thể hiện sự cổ vũ, ghi nhận những cống hiến, lao động
sáng tạo trong nghệ thuật của của các nghệ sỹ, biên đạo múa hiện nay đã có
những tác phẩm mới hợp thời đại. Cuốn sách cũng lại một lần nữa đặt vấn đề
sáng tạo, hội nhập như hiện nay có đang đi đúng con đường phát triển của
nghệ thuật múa nước nhà theo quan điểm chủ trương của Đảng và mong
muốn của đại bộ phận nghệ sỹ, biên đạo múa về giữ gìn bản sắc của múa dân

gian hay không?
Tương tự, đề cập đến sự phát triển của múa dân gian Việt Nam trong xu
thế hội nhập, bài viết “Múa dân gian với thời đại và sự kế thừa phát triển múa
dân gian trong lĩnh vực huấn luyện” của Ngân Quý đã phản ánh sự phát triển
của múa dân gian. Trong bài viết tác giả khẳng định trong hoạt động nghệ
thuật gần đây trên sân khấu vắng dần những điệu múa dân gian thuần chất;
hoặc có chăng nữa thì cũng thô sơ, tăng về chiều hướng ồ ạt, thiếu chiều sâu
tinh tế; hoặc dùng chất liệu múa dân gian để gây một ấn tượng về tính cách

20


mà ngôn ngữ, hình tượng…thì xa lạ với tính thẩm mỹ và phong cách múa Việt
Nam. Trên cơ sở nhận định này, tác giả đặt câu hỏi phải chăng múa dân gian
Việt Nam không còn phù hợp với thời đại, với lớp trẻ và do đó cần phải tìm
cái mới phù hợp hơn? (Tr:24) Trong bài viết vừa nêu, một lần nữa múa dân
gian Việt Nam lại được đặt trong mối lo ngại bị mất dần vị thế trong sự phát
triển chung của nền nghệ thuật múa nước nhà trước thời đại hội nhập và phát
triển. Tuy nhiên, tác giả Ngân Quý thể hiện rõ quan điểm cho rằng “Bốn mươi
năm qua, dưới ánh sáng, đường lối văn nghệ đúng đắn của Đảng, múa dân
gian càng được khai thác, phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ. Vậy,
những hiện tượng về múa dân gian trên sân khấu hiện nay chắc chắn không
nằm trong tình trạng trái quy luật như nỗi băn khoăn của một số người”
(Tr:24). Theo tác giả Ngân Quý, nền nghệ thuật múa dân gian Việt Nam chưa
bao giờ đánh mất bản sắc; sự phát triển và biến đổi trong phong cách sáng tác
hiện nay chỉ là cách các nghệ sỹ làm mới tác phẩm của mình để bắt kịp xu
hướng thời đại và đó không phải là sự “bỏ quên” bản sắc dân tộc như nhiều
nghệ sỹ khác lo ngại.
Trong bài viết mới nhất có tựa đề Đôi điều về bản sắc dân tộc trong
sáng tác múa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Tạp chí Nhịp điệu số

192/2016), nghệ sĩ nhân dân Thái Phiên đã nghiêm khắc phê phán lối sáng tác
bắt chước và sao chép qua băng đĩa nước ngoài của một số biên đạo trẻ hiện
nay. Ông gọi đó là “đạo múa” chứ không đơn giản chỉ là sự giao thoa, kế thừa
như một số nhà biên đạo bao biện. Ông viết “Hiện tượng nói tiếng “Lào” ra
tiếng “Ý” không phải hiếm. Điều mà nhiều người hay bao biện là sự giao thoa
không đồng nghĩa với bắt chước, với “đạo múa”! Mỗi một tác phẩm múa dù
là múa dư hứng cũng vẫn cần phải tôn trọng phong tục, tập quán…của dân tộc
mình định thể hiện đó chính là giữ gìn bản sắc” (Tr:20).
Cũng trong cuốn Tạp chí Nhịp điệu số 192/2016, có một bài viết của nghệ
sỹ Lê Huân bàn về bản sắc dân tộc trong tác phẩm múa dân gian các dân tộc

21


×