Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

VAI TRÒ của NHÀ nước TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨ1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.65 KB, 15 trang )

QUANGHAI

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế là kinh tế tự cung, tự cấp và kinh tế hàng hóa; kinh tế thị trường là
một giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên sự phát triển của lực lượng
sản xuất và ở trình độ cao. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của
Chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của văn minh nhân loại. Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là vấn đề cốt lõi trong hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giai cấp, là công cụ
để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh
tế, thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô cơ bản như: bảo
đảm sự ổn định của nền kinh tế; thực hiện công bằng xã hội; bảo đảm tăng trưởng
nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế..., tuy nhiên ở mỗi giai đoạn lịch sử tùy
thuộc vào chế độ xã hội khác nhau thì vai trò của nhà nước đối và vai trò thị trường
trong mối quan hệ nhà nước- thị trường cũng có sự khác nhau, thực tế đã chứng
minh nếu tuyệt đối hóa bất kỳ một trong hai yếu tố đó đều dẫn tới sự trì trệ, mất
cân bằng của nền kinh tế và có thể dẫn đến khủng hoảng và hàng loạt các hậu quả
khác như thất nghiệp, đói nghèo, ô nhiễm môi trường…
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế là kinh tế tự cung, tự cấp và kinh tế hàng hóa; kinh tế thị trường là
một giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên sự phát triển của lực lượng
sản xuất và ở trình độ cao. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của
Chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của văn minh nhân loại.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là vấn đề cốt lõi
trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hướng tới đồng bộ và hiện đại nhằm tiến
tới “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ



QUANGHAI

nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà
nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính
công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế
kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội”[1]. Đây là
vấn đề được Đảng ta đặc biệt chú trọng khi xác định xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua các kỳ đại hội, từ đại hội VI đến đại hội
XII, quan điểm của Đảng ta về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được phát triển và ngày càng hoàn
thiện. Đó là quá trình phát triển về nhận thức một các sâu sắc của Đảng ta sau hơn
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật kinh
tế khách quan và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Trong công cuộc đổi mới
đó, chúng ta đã thực hiện chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch tập
trung bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, từ đó giải phóng
được sức sản xuất, tạo ra sự phát triển cho đất nước.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, sửa đổi năm 2011), vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế được
khẳng định “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
và lực lượng vật chất”[2]. Hiến pháp 2013 quy định “ Nhà nước xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 102.

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ
sung, phát triển năm 2011), NXB CTQG-ST, năm 2011, trang 18.
2


QUANGHAI

trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc
đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân”[3].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII một lần nữa khẳng định “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[4].
Nhận thức về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường theo quan điểm Đại
hội XII Đảng xác định: “ Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân
bố có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đảng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để
định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi
trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển”[5].
Như vậy, Đảng ta xác định đã rõ vai trò của thị trường và vai trò của Nhà
nước để có hiệu quả phát triển cao nhất. Trong đó thị trường với các quy luật kinh
tế khách quan của mình đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh,
quy luật lưu thông tiền tệ… được tôn trọng; các chủ thể kinh tế được tự do kinh

doanh, tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh; cạnh tranh
3

. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB CTQG- ST, năm 2013, trang 25
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, năm 2016, trang 102.
5
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 103.
4


QUANGHAI

bình đẳng trên thị trường và tiếp cận các nguồn lực để phát triển, từ đó thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, làm tăng năng suất lao động xã hội là cơ sở để nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững... Còn Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô,
nhà nước tập trung chủ yếu vào tạo lập môi trường và điều kiện cho hoạt động sản
xuất kinh doanh; định hướng phát triển kinh tế; kiểm soát và điều chỉnh nền kinh tế
quốc dân thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta chủ trương xây dựng “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật” [6]
Nền kinh tế có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản suất với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, và đa dạng
các hoạt động sản xuất kinh doanh là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường
của nước ta hiện nay. Do đó, Nhà nước phải đổi mới chức năng quản lý nền kinh tế
theo hướng ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường, giảm dần sự can thiệp

trực tiếp của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chú trọng phát
triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, đa dạng các
hoạt động sản xuất kinh doanh và hình thức phân phối, thực hiện theo nguyên tắc
thị trường để tìm kiếm lợi nhuận tối đa, trong đó chú trọng phát triển kinh tế nhà
nước để kinh tế nhà nước từng bước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế
tập thể tạo thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, định hướng phát
triển nền kinh tế, bên cạnh đó coi trọng phát triển các thành phần kinh tế, kinh tế tư
nhân là một động lực của nền kinh tế.
Nhà nước Việt Nam hiện nay có các vai trò cụ thể như sau:
6

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 103.


QUANGHAI

Một là, Khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế nào
hoàn toàn thay thế được.
Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động, có hiệu quả.
Thứ hai,sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát
giã khối lượng và cơ cấu của sản suất ( tổng cung )với khối lượng và cơ cấu nhu
cầu của xã hội ( tổng cầu ). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá
nhân về hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ
phải thực hiên một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi
phí cao trong quá trình ra các quyết định.
Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất.
Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá

biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất tốt nhất như
không ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ
chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế thị trường thự hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách
tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố
sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thi trường; chúng sẽ chuyển đến nơi
được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lự kinh tế được phân bố một
cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh
của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước, những điều kiện
kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được
những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản


QUANGHAI

xuất xã hội.Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế đó là có điều kiện: Các yếu tố
sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng, giá cả thị trường có tính linh hoạt
thông tin thị trường phải nhạy, và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ
thông tin liên quan.
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy
nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh
tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế
thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm
sản lượng, tăng giá để thu lợi nhận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền thì
không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kĩ thuật.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa, vì vậy
họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con

người, do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội chủ
nghĩa dù cơ chế thị trường có hoat động trôi trảy thì cũng không đạt được. Sự tác
động của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải,
tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự
động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét
chua chát: “Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại
một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, tình người ”.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh
khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
Người ta nhận thấy rằng, một nề kinh tế thị trường hiện đại đưng trước một
khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian dài
lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc làm.


QUANGHAI

Những hạn chế, khuyết tật trên tự nó không khắc phục được mà cần phải có
vai trò của nhà nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
lại đang trong quá trình hình thành, phát triển vì vậy những hạn chế, khuyết tật
càng lớn và ảnh hưởng nặng nề, Nhà nước phải dùng các công cụ, thực lực kinh tế
mạnh để hạn chế, khắc phục những khuyết tật đó.
Hai là, Hỗ trợ thị trường. Thị trường càng phát triển thì càng văn minh, hiện
đại, thị trường ở trình độ càng thấp sẽ càng sơ khai, yếu kém. Chúng ta chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch, chỉ huy sang nền kinh tế thị trường, quá trình chuyển đổi đó
là một cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện, nếu cứ để tự phát sẽ rất chậm và phải
trả giá lớn. Nhà nước phải tác động mạnh mẽ và hiệu quả để hỗ trợ thị trường phát
triển ngày càng đầy đủ hơn, trình độ cao hơn, tốc độ phát triển nhanh hơn. Nhà
nước phải loại bỏ các rào cản đối với việc ra đời, phát triển, hoàn thiện các yếu tố
thị trường (quan hệ cung - cầu về hàng hóa và dịch vụ; người mua, người bán,

người sản xuất và người tiêu dùng, giá cả, thông tin thị trường...), các loại thị
trường (thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường sức lao động, thị trường bất động
sản; thị trường tài chính và thị trường khoa học - công nghệ); tích cực xây dựng
nền tảng thể chế và pháp lý hỗ trợ, thúc đẩy cho các thị trường ra đời và vận hành
theo quy luật vốn có của nó; thừa nhận vai trò của thị trường trong sự phân bổ các
nguồn lực phát triển. Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm tạo lập
thị trường, khuyến khích thị trường phát triển
Ba là, Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường là một hệ thống kinh tế tồn tại khách quan trên một trình độ phát triển
tương ứng của lực lượng sản xuất và trở thành một bộ phận quan trọng của quan hệ
sản xuất tương ứng. Nó không phải là một kiểu tổ chức kinh tế do con người tạo ra
bằng ý chí chủ quan của mình, mà hình thành một cách khách quan trong các hoạt
động kinh tế của xã hội loài người. Nhà nước là một trong những nhân tố quyết
định mục tiêu, tốc độ của quá trình chuyển đổi, quyết định định hựớng xã hội chủ


QUANGHAI

nghĩa của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại,
không tự nó đi lên chủ nghĩa xã hội, mà phát triển trong quá trình nhận thức, phấn
đấu rất cao của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đó
là quá trình chuyển đổi đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử. Một mặt, đó là quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch chỉ huy tập trung (kỳ thị, tẩy chay thị
trường) sang nền kinh tế thị trường; mặt khác là quá trình phát triển theo xu hướng
xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, sự chuyển đổi lại đặt trong bối cảnh của toàn cầu hóa,
thế giới đang bước sang giai đoạn phát triển nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã rất khó
khăn, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường còn khó khăn hơn,
đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của Nhà nước.
Bốn là, Định hướng và thực hiện hội nhập ngày càng sâu, rộng, hiệu quả

vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do
bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của
kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập
diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến
trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại,
tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay,
hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
Nền kinh tế nước ta đã và đang hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới,
đồng thời sẽ tiếp tục hội nhập sâu, rộng, hiệu quả hơn nữa. Quá trình này đòi hỏi
phải xác định đúng đắn mục tiêu, lộ trình, cách thức, bước đi cũng như sự chuẩn bị
nội lực cho quá trình hội nhập, ở đây có vai trò rất lớn của Nhà nước.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia
trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị
trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống


QUANGHAI

đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước
và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G8; nâng
quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện,
gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ
quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán,
20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn
phòng kinh tế văn hóa.
Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc

tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm
cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký
kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá
về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm
1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm
1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ
chức này.
Năm là, Thực hiện nhà nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ doanh
nghiệp.


QUANGHAI

Nhà nước kiến tạo, xét về bản chất là Nhà nước định hướng tăng trưởng kinh
tế cho nền kinh tế thông qua việc xác lập tầm nhìn dài hạn và các mục tiêu tăng
trưởng trong ngắn hạn và trung hạn. Nhà nước kiến tạo sẽ xác lập tầm nhìn dựa
trên sự tổng hợp các mục tiêu kinh tế và chỉ số kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn
hơn là việc đưa ra tầm nhìn vượt quá năng lực thực hiện của nền kinh tế. Nhà nước
kiến tạo thiết lập các mục tiêu tăng trưởng dựa trên các tiêu chí định lượng có thể
kiểm định được và các chỉ số kinh tế có thể đo lường được trong thực hiện các
chính sách kinh tế.
Nhà nước ta do lịch sử để lại, nhiều năm quản lý nền kinh tế theo cách thức
cũ, nặng về điều hành mọi hoạt động của nền kinh tế. Hiện nay, Nhà nước đang

chuyển mạnh từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo, lấy phục vụ nhân dân,
phục vụ doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu của Nhà nước.
Nhà nước tạo dựng và nuôi dưỡng những lợi thế cạnh tranh mà doanh
nghiệp tạo ra để làm gia tăng lợi thế cạnh tranh của quốc gia về những mặt hàng cụ
thể. Nhà nước kiến tạo còn xác định được ngành công nghiệp mũi nhọn của mình
nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh của quốc gia để làm trục tăng trưởng kinh tế của
quốc gia. Khi các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế đã được thực hiện, Nhà nước
kiến tạo sẽ thực hiện tiếp các mục tiêu về xã hội nhằm chuyển đổi xã hội từ trạng
thái hiện tại sang trạng thái cao hơn. Nhà nước kiến tạo thực hiện điều đó thông
qua việc gia tăng nguồn vốn con người, nguồn vốn xã hội. Nguồn vốn con người
được gia tăng bằng việc cải cách và nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục
quốc gia, bao gồm giáo dục dậy nghề, giáo dục phổ thông và giáo dục bậc cao.
Nguồn vốn xã hội được gia tăng bằng việc bảo tồn các giá trị truyền thống của
quốc gia và sáng tạo ra những giá trị xã hội mới.
Trong quá trình đổi mới, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước không hề bị
suy giảm mà ngày càng tăng lên. cần nhận thức rằng, tăng cường vai trò của Nhà
nước trong quản lý kinh tế không có nghĩa là Nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào


QUANGHAI

tất cả mọi hoạt động kinh tế mà Nhà nước phải nắm những lĩnh vực, những khâu,
thực hiện những công việc quan trọng nhất mà thị trường và nhân dân không làm
được, biết sử dụng cơ chế thị trường một cách khôn khéo, hiệu quả để phục vụ cho
mục tiêu quản lý của mình, biết phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế đó.
Để nhận thức đầy đủ hơn vai trợ của Nhà nước Việt Nam hiện nay, cần
thấy rõ Nhà nước có vai trò trên hai phương diện, hai tư cách khác nhau trong quản
lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một là, với tư cách là bộ máy hành chính, bộ máy kiến tạo, Nhà nước phải

quản lý toàn diện tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội như: văn hóa, giáo
dục, y tế, chính trị, quân sự, đối ngoại..., trong đó quản lý kinh tế là trọng tâm. Lúc
này, Nhà nước sử dụng pháp luật, chính sách, các công cụ quan trọng khác để quản
lý nền kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp
nhà nước hoạt động bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Nhà nước Việt Nam đại diện cho toàn dân, thực hiện quyền sở hữu
đối với tài sản công như: tài nguyên, đất đai, vùng trời, vùng biển, nguồn lực dự
trữ, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và các doánh nghiệp nhà nước... Lúc này,
Nhà nước đóng vai trò như chủ sở hữu, chủ đầu tư tham gia hoạt động ứong nền
kinh tế thị trường như một chủ thể kinh tế lớn.
Với tư cách là bộ máy hành chính, bộ máy kiến tạo, nếu Nhà nước không
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình thì toàn bộ nền kinh tế thị trường sẽ
không phát triển được, thậm chí còn trở thành yếu tố cản trở sự phát triển, càng
không thể định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Với tư cách là đại diện cho toàn dân, Nhà nước quản lý một lượng rất lớn
tài sản quốc gia, nếu quản lý không tốt sẽ gây lãng phí, thất thoát lớn, vừa thiệt hại
về kinh tế, vừa làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, nghiêm
trọng hơn nữa là giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.


QUANGHAI

Trong bối cảnh hiện nay, vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế ở Việt
Nam hết sức quan trọng và nặng nề, Nhà nước phải liên tục hoàn thiện phương
pháp, công cụ và kỹ thuật điều hành nền kinh tế thị trường đang hình thành lại đặt
trong điều kiện mới của hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đồng thời phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường. Một mô hình kinh tế chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Nhà nước phải huy
động cao nhất mọi nguồn lực trong xã hội, mọi sự sáng tạo trong nhân dân, trong
doanh nghiệp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng
hiện đại trên cơ sở phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhà nước ngoài thực hiện vai trò quản lý kinh tế vĩ mô mà còn thực hiện
chức năng Nhà nước kiến tạo, Đảng ta chủ trương thực hiện các giải pháp sau:
Một là, Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung
tạo dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện thuận lợi,
an toàn để kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, thông suốt, hiệu quả và hội nhập
quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do sáng tạo của người dân trong
phát triển kinh tế - xã hội[7].
Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng
cường công tác giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị
trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị
trường.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu
trách nhiệm của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường theo hướng bảo
7

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 308.


QUANGHAI

đảm thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng tạo; bảo vệ quyền sở hữu tài
sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, an toàn, thuận
lợi; kiểm soát tốt độc quyền kinh doanh, thực thi hiệu lực, hiệu quả các chính sách
cạnh tranh lành mạnh

Hai là, Phân định rõ chức năng của Nhà nước và chức năng của thị trường.
Nhà nước quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết phù hợp với kinh tế thị trường, giảm thiểu
can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính[8].
Nhà nước tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dựng một khuôn khổ thể
chế và pháp lý hữu hiệu, đủ sức hỗ trợ sự phát triển mọi thành phần kinh tế, đặc
biệt là khu vực tư nhân và đẩy mạnh cạnh tranh. Bên cạnh đó, từng bước hoàn
thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Đây cũng là một hướng quan trọng
nhằm tạo dựng kết cấu hạ tầng thể chế kinh tế toàn diện, bao gồm: cải cách tổ chức
bộ máy hành chính, thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức quản lý nhà nước. Đồng thời, phải coi kế hoạch hóa là công cụ quan trọng để
nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế.
Ba là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất,
công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ tốt nhất người dân và doanh nghiệp[9].
Tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống pháp luật, các cơ chế,
chính sách để thúc đẩy hình thành nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường;
hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh, tạo lập môi trường cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, pháp luật
8
9

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 308.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 309.


QUANGHAI

phải nhằm xác lập quyền làm chủ của người dân và trách nhiệm của nhà nước để

thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm kỷ luật, kỷ cương. Đề cao trách
nhiệm giải trình của cơ quan công quyền. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
nhà nước và thị trường.
Bốn là, Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng
động, hiệu lực, hiệu quả. Tập trung cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh
giản, gắn với nâng cao chất lượng chính sách, pháp luật; quy định rõ cơ quan chịu
trách nhiệm đối với từng thủ tục hành chính.[10]
Đẩy mạnh thực hiện chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tiếp tục cải cách chế độ công vụ. Đổi
mới việc đánh giá, tuyển chọn, bồi dưỡng, bố trí cán bộ, công chức và chính sách
đãi ngộ nhằm phát hiện, thu hút cán bộ có phẩm chất và năng lực
Thực hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng,
tập trung vào các giải pháp phòng ngừa, tăng cường tính công khai, minh bạch, đề
cao vai trò giám sát của nhân dân và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn
vị trong phòng chống tham nhũng
Năm là, Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất, thông suốt trong
lãnh đạo, quản lý, điều hành từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng không gian phát
triển kinh tế thống nhất trên cả nước, trong từng vùng theo nguyên tắc kết hợp chặt
chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ.[11]
Nhận thức đúng đắn vai trò của nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với
thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề vô
cùng quan trọng, quyết định đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Phát
huy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ nhằm mục đích quản lý và định hướng tốc cho sự phát triển của nền kinh
10
11

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 309.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH ĐB toàn quốc lần thứ XII, VPTW Đảng, năm 2016, trang 310.



QUANGHAI

tế mà còn nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm sự phát triển bền
vững vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo định
hướng của Đảng.
Tài liệu tham khảo:
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung và phát triển năm 2011), NXB CTQG - ST, năm 2011.
2. Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung
ương Đảng, năm 2016.
3. Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB CTQG- ST,
năm 2013.
4. Giáo trình Quản lý kinh tế, NXB Chính trị quốc gia sự thật, H.2018



×