VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LẠI TRUNG DŨNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LẠI TRUNG DŨNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Tuấn Khanh
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LẠI TRUNG DŨNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA .............................................................. 9
1.1. Văn hóa và quản lý nhà nước về văn hóa ............................................ 9
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước về văn hóa............... 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về văn hóa .................. 22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH ....................... 28
2.1. Các yếu tố có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về văn hóa.............. 28
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh ............................................................................. 37
2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ..................................................... 45
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG,
TỈNH QUẢNG NINH ............................................................................. 57
3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa tại Thành phố Hạ
Long, Tỉnh Quảng Ninh ............................................................................ 57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa tại Thành
phố Hạ Long, Tỉnh Quảng Ninh ............................................................... 61
KẾT LUẬN .............................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 73
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ được viết tắt
CQNN
Cơ quan nhà nước
HĐND
Hội đồng nhân dân
NN
Nhà nước
QLNN
Quản lý nhà nước
UBND
Ủy ban nhân dân
VH
Văn hóa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới thì các vấn đề có
liên quan đến vấn đề văn hóa được Đảng và Nhà nước ta xác định là vấn đề hệ
trọng có tác động mạnh mẽ đến tinh thần của nhân dân trong giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Quá trình phát triển văn hóa nói
chung đã và đang là vấn đề nhức nhối trong xã hội, nó không chỉ diễn ra không
chỉ ở các quốc gia đang phát triển, kém phát triển mà còn ở cả những nước phát
triển, có trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến. Tại Việt Nam, trong những
năm vừa qua thì tình hình và hoạt động phát triển văn hóa trong cả nước, từ
thành thị đến nông thôn nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc là điều mà chúng ta hướng đến. Chúng ta biết rằng bên cạnh
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thì yếu tố phát triển tinh thần trong
đó có vấn đề văn hóa luôn là yếu tố được cộng đồng hết sức quan tâm.
Vấn đề về văn hóa nói chung và vấn đề QLNN về văn hóa nói riêng trong
những năm gần đây được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được xem là
một trong những vấn đề có tác động, mang ý nghĩa lớn lao, ảnh hưởng đến sự
phát triển về kinh tế - xã hội, về an toàn xã hội và cộng đồng nhân dân. Làm tốt
công tác này Đảng và Nhà nước luôn chỉ đạo và đề ra những giải pháp quan
trọng nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, góp phần quan
trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân, đáp ứng với yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển đất nước trong tình
hình mới. Vì thế, tại Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết
Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” được xem là nền tảng quan
trọng của Đảng và Nhà nước để chỉ đạo, hướng dẫn nhằm bảo đảm thực hiện
có hiệu quả công tác quản lý NN về văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Thông
1
qua đó, chúng ta đã có nhiều kết quả rất quan trọng nhằm làm tốt công tác
QLNN về văn hóa đáp ứng với yêu cầu của hoạt động xây dựng và phát triển
đất nước.
Có thể nói rằng vấn đề văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người; trụ
cột phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và nhân loại. Trong sự tồn
tại và phát triển của văn hóa thì quản lý văn hóa đóng vai trò rất quan trọng.
Trên phương diện vĩ mô, hoạt động quản lý văn hóa sẽ góp phần định hướng,
điều chỉnh sự phát triển của văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ
trương, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng cầm quyền, từ đó tác động đến
mục tiêu, bản chất của văn hóa dân tộc. Trên phương diện vi mô, hoạt động
quản lý văn hóa trong các lĩnh vực, địa bàn, nhóm dân cư cụ thể sẽ giúp kiểm
soát sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi các cơ chế, chính sách của Nhà nước
trên lĩnh vực văn hóa. Những năm qua, quán triệt tinh thần: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” của Đảng, hoạt
động quản lý văn hóa ở Việt Nam đã có những kết quả khả quan
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh là một trong những thành phố lớn,
có vị trí chiến lược trong quá trình phát triển của địa phương có đủ điều kiện
để phát huy tiềm năng đất đai cũng như các nguồn lực khác, tạo điều kiện để
phát triển kinh tế - xã hội, hòa nhập với nền kinh tế thị trường, phát triển công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, dân số đông nên mật độ
dân số cao. Chính vì vậy, quá trình QLNN về văn hóa đã và đang có nhiều vấn
đề rất quan trọng mà chính quyền địa phương nơi đây quan tâm, chú ý. Hoạt
động quản lý về văn hóa của cơ quan chức năng bên cạnh những thành tựu đã
đạt được thì chưa chặt chẽ, ảnh hưởng nghiêm trọng trong công tác quản lý. Do
vậy tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn
thành phố có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao chất lượng quản lý về văn hóa
2
trên địa bàn thành phố nói riêng và trên toàn tỉnh Quản Ninh nói chung.
Trước tính thiết thực của việc nghiên cứu vấn đề thực tiễn trên, tôi chọn
đề tài "Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh" làm đề tài nghiên cứu là một việc làm cần thiết và cấp bách
nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về quản lý nhà nước về
vấn đề này cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi tại
địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số
giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống chính sách pháp luật về văn hóa nói
chung, nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật về văn hóa tại địa phương
và ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Đối với các giáo trình, tài liệu
Giáo trình quản lý nhà nước về văn hóa – giáo dục- y tế của trường học
việc hành chính quốc gia. Trong đó đã đề cập đến hoạt động QLNN về văn hóa
trong thực tiễn thông qua quy định cụ thể và rõ ràng về vấn đề này,
Cơ sở lý luận về quản lý văn hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội, năm 2014:
Trong đó giáo trình của Đại học văn hóa đã đề ra những cơ sở trên phương diện
lý luận trong hoạt động QLVH ở nước ta hiện nay. Điều là hoàn toàn cần thiết
trong hoạt động QLNN nói chung và trong lĩnh vực văn hóa nói riêng đối với
nước ta hiện nay,
Nghiên cứu Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện chính sách
văn hóa ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Tình (Nxb Văn hóa, thông tin – Hà
Nội): Trong nội dung tác phẩm tác giả đã trực tiếp nghiên cứu những chính sách
văn hóa trên thế giới và vấn đề hoàn thiện ở nước ta hiện nay. Tác giả đưa ra những
luận điểm nhằm hoàn thiện về hoạt động QLVH trong thực tế.
* Về tài liệu nghiên cứu trực tiếp có liên quan đến đề tài có một số tác
phẩm sau:
3
- Quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, những vấn đề lý luận và thực
tiễn – Vũ Thị Phương Hậu (2008): Tác giả đã đề cập đến vao trò quản lý nhà
nước trong lĩnh vực văn hóa. Thông qua các quy định pháp lý về vấn đề này,
tác giả đã chỉ rõ ra những thực tiễn áp dụng ở nước ta hiện, những khó khăn,
vướng mắc và phương hướng hoàn thiện nhằm đáp ứng với yêu cầu của hoạt
động QLNN trong lĩnh vực này.
- Luận văn thạc sỹ “ Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Từ
Liêm, thành phố Hà Nội” của tác giả Trần Thị An đã tiến hành thực hiện tại
huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nôi. Trong đó, tác giả trên cơ sở lý luận trong
hoạt động QNLL về văn hóa đã áp dụng vào thực tiễn từ đó, chỉ ra những khó
khăn vướng mắc và giải pháp hoàn thiện vấn đề này.
- Luận văn “Quản lý nhà nước về văn hóa ở thành phố Thái Nguyên” của
tác giả Bùi Quốc Chiều;
- Luận văn Quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
hiện nay của tác giả Lê Thị Thu Hương
- Luận văn “Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Tam Nông,
tỉnh Phú Thọ” của tác giả Trần Xuân Lực
- Luận văn Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành
phố Đà Nẵng của tác giả Ngô Trường Long năm 2017
- Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Văn Chấn
– tỉnh Yên Bái của sinh viên Vũ Văn Tuân
* Một số đề tài, bài viết có liên quan:
- Chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của nhà nước Việt Nam giai đoạn
hội nhập quốc tế của tác giả TS. Nguyễn Vinh Hưng – trường Đại học Quốc
gia Hà Nội : Bài viết đã đề cập đến chức năng quản lý văn hóa, giáo dục là chức
năng rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến hầu hết các hoạt
động của Nhà nước Việt Nam và nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn
hóa, xã hội. Mặt khác, văn hóa, giáo dục luôn là lĩnh vực nhạy cảm và phức
4
tạp, vì vậy, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa,
giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế luôn cần phải có sự xem xét để điều
chỉnh kịp thời.
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
văn hóa của tác giả THs. Nguyễn Thị Hằng (học viện chính trị khu vực II): Bài
viết khẳng định hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của Nhà
nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của Nhà
nước. Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở Việt Nam
đã đạt nhiều kết quả, song còn một số hạn chế, cần khắc phục.
- Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa trong tình hình mới của
tác giả Bình Minh. Trong đó, khẳng định phải tập trung đổi mới, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông
nói chung và trong lĩnh vực văn hóa nói chung.
- Đề tài Quản lý nhằ nước về Văn hóa, nghệ thuật trong cơ chế thị trường
– đề tài cấp bộ do Trần Quốc Bảng làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài nghiên cứu tập
trung đi sâu phân tích thực trạng về quản lý trong ngành văn hóa - thông tin
trong thời kỳ đổi mới. Trình bày những quan điểm cơ bản về quản lý văn hóa nghệ thuật, xác định cơ chế quản lý trong cơ chế thị trường. Kiến nghị những
giải pháp về quản lý nhà nước về văn hóa - nghệ thuật trong cơ chế thị trường.
- Sách Công cuộc đổi mới động lực phát triển lý luận văn hóa của tác giả
Phạm Quang Nghị
- Bài viết một số vấn đề quản lý nhà nước về văn hóa của tác giả Lê Thị
Bich Thuận đăng trên tạp chí Văn học nghệ thuật số 352, tháng 10 năm 2013
Trong giai đoạn bùng nổ của toàn cầu hóa và hội nhập và phát triển như
hiện nay thì công tác QLNN về văn hóa càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết,
tôi chọn đề tài: "Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn tại thành phố Hạ
5
Long, tỉnh Quảng Ninh" làm luận văn thạc sỹ để thể hiện tâm huyết và đóng
góp của bản thân đối với vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa tại Thành phố
Hạ Long, tỉnh Hạ Long nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số khía cạnh lý luận và pháp luật liên quan
đến quản lý nhà nước về văn hóa ở Việt Nam.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa tại Thành
phố Hạ Long, tỉnh Hạ Long. Từ đó, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của những ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước về văn hóa tại
Thành phố Hạ Long, tỉnh Hạ Long.
- Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về văn hóa tại Thành phố Hạ Long, tỉnh Hạ Long nói riêng,
trên địa bàn cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
QLNN về văn hóa là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp thuộc phạm
vi điều chỉnh của nhiều ngành chuyên ngành nhau. Trong khuôn khổ đề tài, tác
giả không có tham vọng giải quyết toàn bộ và trọn vẹn các vấn đề của công tác
QLNN về văn hóa về vấn đề này mà đi sâu vào nội dung này ở một số khía cạnh
sau: Vấn đề khẳng định vai trò của QLNN về văn hóa nói chung, cũng như các
quy định có liên quan nói riêng trong công tác thực thi trên thực tế. Trong đó, đi
sâu phân tích công tác QLNN về văn hóa thông qua các quy định của pháp luật
hiện hành và có sự so sánh, đối chiếu với các quy định có liên quan.
Thực tế áp dụng các quy định về QLNN về văn hóa tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu những hạn chế và
6
khó khăn trong quá trình áp dụng. Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện công tác QLNN về văn hóa nói riêng và cả nước nói chung trước yêu cầu
của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Về phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng và
quản lý nhà nước về văn hóa ở một số lĩnh vực như: quản lý hoạt động thông
tin tuyên truyền cổ động, quản lý hoạt động thư viện, quản lý các thiết chế văn
hóa, quản lý các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, quản lý các dịch
vụ văn hóa, di sản văn hóa.
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước
về văn hóa tại Thành phố Hạ Long, tỉnh Hạ Long . Luận văn có nghiên cứu so
sánh với một số địa phương khác có những nét tương đồng với Thành phố Hạ
Long, tỉnh Hạ Long
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về văn hóa
trên địa bàn Thành phố Hạ Long trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng cho toàn đề tài là tác giả sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin kết
hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm:
- Kết hợp giữa phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp làm rõ nội
dung cần nghiên cứu trong vấn đề nghiên cứu về vị QLNN về văn hóa thông
qua các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam được ghi nhận tại chương
1 cũng như thực tiễn áp dụng tại trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh và chương 2 của đề tài.
- So sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các
quan điểm khác nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các
giải pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế. Các phương pháp này được áp dụng
7
trong chương 2 và chương 3 của đề tài. Thông qua đó, tác giả muốn đưa ra một
bức tranh toàn cảnh về công tác QLNN về văn hóa trên địa bàn cũng như một
số biện pháp nhằm hoàn thiện yêu cầu đề ra của công tác này, đáp ứng với yêu
cầu hội nhập và phát triển đất nước. Phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Với những nội dung được trình bày trong đề tài hy vọng sẽ đem lại những
đóng góp thiết thực cho việc hoàn thiện những quy định của chính sách pháp
luật về QLNN về văn hóa, đồng thời góp phần xây dựng cơ chế hợp lý và hiệu
quả hơn trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa vững mạnh ở nước ta
hiện nay.
Luận văn này là kết quả của quá trình nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và
đánh giá về lý luận các quy định về QLNN về văn hóa và thực tiễn. Vì vậy, luận
văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo và cung cấp cho người đọc kiến
thức chung nhất về QLNN về văn hóa tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và phát luật của quản lý nhà nước về văn hóa
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về văn hóa tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1.1. Văn hóa và quản lý nhà nước về văn hóa
1.1.1. Nhận thức chung về văn hóa
Khái niệm về văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều
cách hiểu khác nhau. Khái niệm văn hóa rất phức tạp. Điều này được thể hiện
trong cuốn sách Culture, a critical review of concept and definitions [Văn hóa,
điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa] của A.L. Kroeber
và Kluckhohn năm 1952, trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa
về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Từ đó, khái
niệm văn hóa cũng được thể hiện một cách đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác
nhau. Tuy rằng khái niệm này được hiểu theo rất nhiều định nghĩa khác nhau
nhưng nhìn chung khi nghiên cứu văn hóa dựa trên khía cạnh tính cách con
người, văn hóa được tập trung vào hai nội dung chính, bao gồm:
Một là, văn hóa ngoài việc chứa đựng văn học và nghệ thuật còn chứa
đựng cả cách sống, phương thức chung sống… Trong Bản tuyên bố về những
chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do UNESCO (United Nations
Educational, Scientific and Cultural Organization) chủ trì từ ngày 26 tháng 7
đến ngày 6 tháng 8 năm 1982 tại Mexico, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt
tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay
của một nhóm người trong xã hội. Hơn nữa, Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” (Hồ Chí Minh). Theo đó, tính cách của dân tộc là
một trong những thành tố tạo nên nền văn hóa dân tộc.
9
Mặt khác, văn hóa được xem như một quá trình, là phương thức ứng xử
của con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa, dựa trên các đặc
trưng cơ bản, được hiểu là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Có thể nói, văn
hóa được tạo nên từ quá trình, từ phương thức ứng xử của con người đối với
môi trường từ nhiên và môi trường xã hội. Mặt khác, tính cách con người là
một thành tố trong quá trình sáng tạo văn hóa của con người.
1.1.2. Quản lý nhà nước về văn hóa
Hoạt động quản lý nhà nước là một công việc quan trọng trong quá trình
vận động của một Nhà nước của mỗi một quốc gia nói riêng. Khi tìm hiểu về
QLNN, trước tiên cần bàn về khái niệm QLNN. Khái niệm QLNN được coi là
một trong các khái niệm cơ bản và quan trọng của pháp luật Việt Nam. Để
nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái niệm “quản lý”.
Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động tác động
một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng quản
lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục tiêu nhất định đã
đề ra. Với cách hiểu trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thế quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể
là cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng
các công cụ, hình thức và phương pháp thích hợp, cần thiết và dựa trên cơ sở
những nguyên tắc nhất định.
Đối tượng quản lý (khách thể quản lý): Tiếp nhận sự tác động của chủ thể
quản lý.
Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định
do chủ thể quản lý đề ra. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác
động quản lý cũng như lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp. Điều
này là vô cùng hợp lý bởi, quản lý nói chung là đối tượng nghiên cứu của nhiều
10
ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Xuất phát điểm của các ngành
khoa học khác nhau thì sẽ có một định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của
mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời sống xã
hội. C.MÁC đã nói: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản
lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện
những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất,
sự vận động này khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó.
Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng”.
Dưới góc độ nghiên cứu của Mác thì quản lý là nhằm phối hợp các lao động
đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác
đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của quản lý. Dưới góc độ nghiên
cứu của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay thì Quản lý là sự tác
động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng với ý
trí của người quản lý (khái niệm này được tiếp cận dưới góc độ là quản lý là việc
tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm đạt được một mục đích của người
quản lý. Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục
đích quản lý nói chung). Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu
đã đề ra”. Hoặc tiếp cận thông qua mục đích thì quản lý được hiểu là việc đạt tới
mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác động
theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau ,các lĩnh vực
khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Như vậy, qua phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm khoa học về
11
QLNN được hiểu theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau:
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các
mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
XHCN”. Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà
nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong
quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.
Dưới góc độ pháp lý: Thuật ngữ quản lý nhà nước là chức năng quan
trọng trong vận hành thường xuyên bộ máy nhà nước bảo đảm hoạt động của
xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đồi sống xã hội vận động theo một hướng,
đường lối nhất định do NN đặt ra. Đây là hoạt động thực thi quyền lực NN
nhằm xác lập trật tự ổn định, phát triển theo mục tiêu mà giai cấp cầm quyền
đề ra. Có thể hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là việc hướng dẫn chấp pháp, điều
hành, quản lý hành chính do cơ quan hành pháp thực hiện và đc đảm bảo bằng
sức mạnh cưỡng chế.
Thông qua khái niệm trên có thể hiểu hoạt động quản lý nhà nước được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động
của bộ máy nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt
động tư pháp. Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành
pháp. Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà
nước theo nghĩa rộng; quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban
hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp
hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản
lý cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết
được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính
12
trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà
nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định
của pháp luật.
* Quản lý nhà nước về văn hóa
Như đã trình bày có thể hiểu quản lý là sự tác động có mục đích của chủ
thể vào các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra. Hiện
nay có rất nhiều cách hiểu về hoạt động quản lý trong công tác văn hóa có thể
hiểu sơ lược là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu vào các
yếu tố có liên quan đến hoạt động về văn hóa bằng một hệ thống đồng bộ các
biện pháp kinh tế - xã hội , tổ chức kĩ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt
được kết quả, hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất trong điều kiện cụ thể do chủ
thể là các cơ quan nhà nước tiến hành.
Hoạt động văn hóa là một trong những lĩnh vực được xem là một trong
những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của mỗi một
quốc gia. Vấn đề này có sự tác động không nhỏ đối với cộng đồng. Để đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước cũng như điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã
hội, thì hoạt động quản lý NN về vấn đề này luôn được chú trọng, sửa đổi, bổ
sung một cách hoàn thiện hơn. Quản lý nhà nước về văn hóa cũng có thể hiểu
là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực của mình tác động có tổ chức và điều
chỉnh các quan hệ nảy sinh trong hoạt động này nhằm đảm bảo cho hoạt động
về văn hóa diễn ra theo đúng quy định của pháp luật, và thực hiện đúng chức
năng nhiệm vụ của nó. Hoạt động này là một quá trình từ việc xây dựng, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến kiểm tra, tuyên
truyền, phổ biến, chế độ, chính sách pháp luật; tổ chức thực hiện cũng như
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hoạt động của chương trình có
liên quan đến vấn đề văn hóa.
Việc quản lý nhà nước về văn hóa có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát
triển của kinh tế- xã hội nước ta nói chung. Trong quan hệ pháp luật về văn hóa
13
đã xây dựng các quy phạm pháp luật quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của
tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa; Với các quy định như trên thì hoạt
động quản lý nhà nước về văn hóa đã điều chỉnh một cách tương đối hợp lý các
vấn đề liên quan đến việc áp dụng những quy định từ lý luận đến thực tiễn. Tạo
ra nền tảng pháp lý cơ sở cho các hoạt động có liên quan đến văn hóa ở nước
ta trong tiến trình hội nhập kinh tế - quốc tế.
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước về văn hóa
1.2.1. Thẩm quyền quản lý nhà nước về văn hóa
Thông qua quy định quản lý nhà nước về di sản văn hóa thì đã quy định rõ
ràng tại Điều 54 và 55 Luật di sản văn hóa 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Đây chính là cơ sở quan trọng và tiền đề cho hoạt động quản lý nhà nước đối
với hoạt động quản lý và phát huy những giá trị chiến lược quan trọng đối với
các di sản văn hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đáp ứng với yêu
cầu xây dựng đất nước ta của hoạt động hội nhập và phát triển đất nước nói
chung giai đoạn hiện nay, cụ thể như sau:
* Tổ chức bộ máy quản lý, triển khai hoạt động quản lý nhà nước về di
sản văn hóa ở nước ta hiện nay
Theo quy định tại Luật DSVH và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các
cơ quan nhà nước co thẩm quyền trong việc quản lý nhà nước văn hóa bao gồm:
Chính phủ, Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch, Bộ, các cơ quan ngang bộ và Ủy
ban nhân dân các cấp có trách nhiệm trong công tác quản lý, hướng dẫn việc
thực hiện quản lý quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Đối với cơ quan cấp trung ương thì Chính phủ thống nhất quản lý về văn
hóa, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về di sản văn hóa, trong đó, ban hành các quy hoạch,
kế hoạch về quản lý DSVH, quản lý văn hóa xã hội...
14
Cơ quan quản lý chuyên ngành văn hóa có trách nhiệm: Hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát thực hiện các quy định. Tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ về quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát về quản lý nhà nước về di sản văn hóa..
Trách nhiệm của uỷ ban nhân dân các cấp:
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm ban hành các quy định, chính
sách, hướng dẫn về hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. Chỉ đạo xây dựng
quy hoạch quản lý nhà nước về văn hóa tập trung và lập kế hoạch thực hiện
việc quản lý nhà nước về văn hóa tập trung. Chỉ đạo các sở, ban, ngành có liên
quan phối hợp quản lý việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Chỉ đạo tổ chức
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước
về văn hóa.
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với các phòng, ban,
ngành liên quan tổ chức triển khai quy hoạch quản lý nhà nước về di sản văn
hóa. Quản lý hoạt động về văn hóa.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm Phối hợp với cơ quan có thẩm
quyền quản lý nhà nước về văn hóa.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về văn hóa
Văn hoá là nền tảng tinh thần của mọi xã hội. Sự quản lý nhà nước đối với
văn hoá chính là để định hướng cho văn hoá phục vụ cho mục đích của giai cấp
, của dân tộc. Nhưng văn hoá là một lĩnh vực phức tạp, đa chiều nhà nước phải
có được một hình thức quản lý hiệu lực và hiệu quả nhất. Quản lý theo hình
thức pháp luật là một trong những hình thức cơ bản nhất trong quản lý văn hoá.
Điều này bắt nguồn từ bản thân đặc trưng văn hoá và vai trò của pháp luật cả
trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Về cơ bản, quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức,
có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy nhằm phát triển
15
văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực
văn hóa và liên quan.
Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa là Nhà nước, được tổ chức
thống nhất từ trung ương đến địa phương, quyền quản lý được phân cấp: cấp
trung ương, cấp tỉnh (tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện
(huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường
thuộc quận). Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp
ấy là chủ thể quản lý. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp xã thì UBND xã là
chủ thể quản lý nhà nước. Công chức văn hóa - xã hội xã được giao nhiệm vụ
quản lý nhà nước về văn hóa giúp UBND xã có thể được coi là chủ thể quản lý
nhà nước về văn hóa trên địa bàn xã.
Thứ hai, khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan,
tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh
vực văn hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ
thể là: các hoạt động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng
tạo…) và các giá trị văn hóa (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể).
Mặt khác, theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp,
không phải toàn bộ hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn
hóa quản lý. Văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ… do cơ quan giáo dục,
khoa học công nghệ quản lý.
Thứ ba, mục đích quản lý nhà nước về văn hóa là giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoạt động
quản lý nhà nước về văn hóa ở từng cấp, từng địa phương, từng hoạt động cụ
thể thì mục đích quản lý nhà nước về văn hóa phải được xác định cụ thể sát với
yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, quản lý nhà nước chương trình
mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thì cấp trung ương mục đích là gì,
16
cấp tỉnh, quận huyện, xã phường là gì phải được xác định một cách cụ thể. Có
như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về văn hóa là hiến pháp, luật
và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy quản lý nhà nước nói chung
và quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các
văn bản có tính pháp quy. Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí
của nhà quản lý.
Thứ năm, cách thức quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích
chứ không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của
nhà quản lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý.
Hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá bao gồm các mảng cơ bản sau:
- Quản lý nhà nước đối với văn hoá nghệ thuật;
- Quản lý nhà nước đối với văn hoá - xã hội;
- Quản lý nhà nước đối với di sản văn hoá.
Hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá bao gồm những nội dung sau:
Một là, hoạt động xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp
luật về văn hoá
Chính sách văn hoá được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư
tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát
triển nền văn hoá. Chính sách văn hoá đặt ra các nguyên tắc chung của sự
nghiệp phát triển văn hoá phù hợp với mục tiêu phát triển văn hoá chung của
đất nước.
Các chính sách về quản lý và phát triển văn hoá hiện nay có thể kể đến:
sáng tạo các giá trị văn hoá; bảo tồn, phát huy tài sản văn hoá; phát triển văn
hoá cơ sở; giao lưu văn hoá quốc tế; hiện đại hoá kỹ thuật và phương thức sản
xuất, phân phối sản phẩm văn hoá; đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ
sỹ; đảm bảo ngân sách, điều kiện pháp lý cho phát triển văn hoá; nâng cao tính
tự quản và phân cấp quản lý văn hoá...Chính sách văn hoá có ý nghĩa quan
17
trọng trong công tác quản lý nhà nước về văn hoá song chính sách văn hoá
không thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về văn
hoá nhằm phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành nhân cách, nâng cao
chất hượng cuộc sống tinh thần của con người.
Thứ hai, hoạt động tổ chức thực hiện của bộ máy các cơ quan quản lý nhà
nước về văn hoá. Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về văn hoá là Chính
phủ; Bộ văn hoá, thể thao và du lịch (cấp trung ương); UBND là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hoá
trong địa phương mình theo quy định của pháp luật. Hoạt động này bao gồm
các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng và chỉ đạo quy hoạch,
kế hoạch; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy; hướng dẫn,
tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy phép, giấy chứng nhận… Đây là những hoạt
động trên thực tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về văn hoá theo
mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính cho văn hoá cũng đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Trong đầu tư tài chính cho văn hoá, xuất phát từ vấn đề quan
tâm đến phát triển nguồn nhân lực nên nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách
cho giáo dục. Đẩu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là đầu tư cho hoạt động
sản xuất cần được tính toán đến hiệu quả, cần xem văn hoá cũng làm ra lợi
nhuận cho nhà nước, cho nhân dân, đồng thời cũng cần tận dụng cơ chế thị
trường cho sự phát triển văn hoá đúng hướng.
Thứ ba, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hoá
Đây là một hoạt động có vai trò quan trọng của công tác quản lý nhà nước
về văn hoá, sự tác động trực tiếp của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trò
đặc biệt quan trọng. Bởi vì văn hoá có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, nó
có tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trong xu hướng xã hội hoá văn hoá hiện nay, các tác động tiêu cực nảy sinh
ngày càng nhiều, vì vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý cần phải được
18
quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp tổ chức hoạt
động một cách chặt chẽ với các bộ, ngành khác. Như vậy mới có khả năng thực
hiện tốt chức năng và nhiệm vụ mà công tác quản lý nhà nước về văn hoá đã
đề ra.
1.2.3. Quyền, nghĩa vụ của chủ thể bị quản lý nhà nước về văn hóa
Cùng với hoạt động thực hiện công tác QLNN về văn hóa ở nước ta thì
các chủ thể bị quản lý văn hóa có quyền văn hóa nhằm áp dụng trong thực tiễn
thực hiện một số quyền sau:
+ Tự do ngôn luận, tự do báo chí;
+Tự do tôn giáo, tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào;
+ Học tập, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng kiến cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia
các hoạt động văn hoá khác;
+ Quyền được thông tin;
+ Các bảo đảm của Nhà nước để thực hiện quyền văn hoá.
Các quyền về văn hóa được ghi nhận trong các văn bản sau:
Hiến pháp 2013, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, đoạn tuyệt với cơ chế tập
trung kế hoạch hoá, xác lập nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Các quyền văn hoá được qui định rõ ràng, rộng rãi cùng với các quyền cơ bản
khác, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế hội nhập trong khu vực và trên thế
giới: các điều về quyền của văn hóa và các nghĩa vụ tương ứng của nhà nước
nhằm bảo vệ quyền như đưa ra các qui định nghiêm cấm hạn chế và vi phạm
quyền hoặc bảo đảm cho quyền văn hoá được thực hiện là nền tảng cơ bản trong
việc thực hiện các quyền trong hoạt đông QLNN về văn hóa nói chung. Bên
cạnh Hiến pháp là nguồn cơ bản để các luật và văn bản dưới luật về quyền văn
hoá được ban hành một cách đồng bộ:
-Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Xuất bản; Luật Báo chí ; Luật di sản văn
hóa; Luật điện ảnh; Luật sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, còn hàng trăm các văn bản
quy phạm pháp luật dưới hình thức Thông tư, Chỉ thị của các bộ, cơ quan ngang
19
bộ ban hành nhằm cụ thể hoá các quy định của pháp luật. Có thể nói, với hệ
thống pháp luật trên, Việt Nam đã hội nhập được với thế giới về quyền và nghĩa
vụ trong hoạt văn hoá – chế định pháp lý quan trọng và là sự kết tinh của trí tuệ
triết học pháp quyền của nhân loại.
Hiện nay, chúng ta đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới ( WTO), trong
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị, (Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ
chính trị ngày 24 tháng 5 năm 2005) Việt Nam sẽ tiếp tục cải cách thể chế nói
chung và hoàn thiện quyền trong hoạt động về văn hoá của công dân trên cơ sở
hệ thống pháp luật hiện đại, hội nhậpquốc tế trên cơ sở "tiếp tục phát triển sâu
rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn
hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội"như Văn kiện đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã chỉ ra.
1.2.4. Cấp phép trong quản lý nhà nước về văn hóa
Việc tổ chức thực hiện quản lý về văn hóa được tiến hành qua các khâu:
Cấp giấy chứng nhận trong hoạt động văn hóa. Trình tự thủ tục cơ quan
chức năng tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra và cấp phép cho các chủ thể về sự thừa
nhận của nhà nước trong hoạt động QLNN về văn hóa. Trình tự thực hiện bao
gồm: Cơ quan QLNN văn hóa có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra tính
pháp lý, nội dung đăng ký, các giấy tờ liên quan. Sau 5 ngày tiếp nhận hồ sơ
nếu hồ sơ của cơ sở đầy đủ yêu cầu cơ quan chức năng tiến hành thành lập đoàn
kiểm tra việc thực hiện các qui định về điều kiện, tiêu chuẩn trong lĩnh vực về
văn hóa… đối với cơ sở. Nếu cơ sở đáp ứng đủ các yêu cầu thì sẽ được cơ quan
nhà nước xác nhận và tiến hành cấp giấy chứng nhận cho các chủ thể. Hiện nay,
việc áp dụng các hoạt động này được thực hiện theo quy định tại Luật và các
văn bản hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực văn hóa
Sau khi cơ sở được cấp phép và tiến hành hoạt động cấp phép cơ quan
20