Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG ĐÀO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG ĐÀO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ TUẤN HƯNG

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, TS. Vũ Tuấn Hưng cùng toàn thể quý
Thầy, Cô giáo của Học viện Khoa học xã hội, Cơ sở Học viện Khoa học xã hội tại
thành phố Đà Nẵng, Sở Nội vụ và Trung tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
thành phố Đà Nẵng đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, quan tâm cung cấp các tư liệu,
tài liệu, tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và chắp bút hoàn thành luận
văn. Luận văn được thực hiện dưới sự cố gắng và mong muốn góp phần hoàn thiện
hơn việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công
tại thành phố Đà Nẵng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, hạn chế nhất định, tác giả mong nhận được sự thông cảm và các ý kiến đóng góp
chân tình để luận văn được hoàn thiện tốt hơn, nhằm góp thêm phần nhỏ trong công
tác thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công cho
thành phố Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói chung ngày một hoàn thiện và phát triển
hơn trong thời gian đến.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khác./.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO KHU VỰC CÔNG ..9
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................................9
1.2. Kinh nghiệm thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu
vực công ........................................................................................................................31
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN

NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ........................................................................................................................... 34
2.1. Khái quát về thành phố Đà Nẵng và các nhân tố tác động đến phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao khu vực công ..........................................................................34
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực
công tại thành phố Đà Nẵng ..........................................................................................38
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu
vực công thành phố Đà Nẵng ........................................................................................47
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO KHU VỰC CÔNG TẠI THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG ...........................................................................................................61
3.1. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu .................................................................61
3.2. Một số giải pháp .....................................................................................................68
3.3. Đề xuất, kiến nghị ...................................................................................................75
KẾT LUẬN ..................................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH

Ban chấp hành

CBCCVC

Cán bộ, công chức, viên chức

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


CS

Chính sách

ĐH

Đại hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT-XH

Kinh tế - xã hội

KVC

Khu vực công

NNL

Nguồn nhân lực

NXB

Nhà xuất bản

TP


Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân

GRDP

Gross Regional Domestic Product

Tổng sản phẩm trên địa bàn

PCI

Provincial Competitiveness Index

Chỉ số đánh giá và xếp hạng chính
quyền các tỉnh, thành của Việt
Nam về chất lượng điều hành
kinh tế và xây dựng môi trường
kinh doanh thuận lợi cho việc
phát triển doanh nghiệp dân
doanh

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại thế giới



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Đánh giá công việc được bố trí

49

Bảng 2.2

Đánh giá chính sách thu hút nguồn nhân lực

55

Bảng 2.3

Đánh giá mức thu nhập

57

Bảng 2.4

Đánh giá cơ hội đào tạo


58

Bảng 2.5

Đánh giá cơ hội thăng tiến

59

Bảng 3.1

Nhu cầu nhân lực trình độ cao của các cơ quan hành chính

64

Bảng 3.2

Nhu cầu nhân lực trình độ cao của các đơn vị thuộc lĩnh vực
y tế

65

Bảng 3.3

Nhu cầu nhân lực trình độ cao thuộc lĩnh vực xây dựng, tài
nguyên - môi trường

66

Bảng 3.4


Nhu cầu nhân lực trình độ cao thuộc lĩnh vực khoa học công
nghệ

67


DANH MỤC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

Hình 2.1.

Tình hình tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội

36

Hình 2.2.

Cơ cấu ngành nghề đào tạo của chính sách thu hút

48

Hình 2.3.

Cơ cấu nhóm ngành đào tạo


50

Hình 2.4.

Bố trí công tác của học viên Đề án

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người được xem là nguồn lực quan trọng nhất, chi phối các nguồn lực khác
và có vai trò quyết định sự phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Do đó, trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1947, Bác Hồ đã viết
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”, đó là lời dạy của Bác cho cán bộ chúng ta. Đúng vậy, trong suốt
quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, yếu tố con người và nhất là trọng dụng
những nhân tài được các thế hệ cha ông quan tâm thì có những cách thức thể hiện
khác nhau. Điều đó càng thấy rõ hơn các quốc gia có nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên khan hiếm thì yếu tố con người, sự sáng tạo của con người trở thành nguồn lực
cơ bản để phát triển đất nước.
Đất nước ta, kể từ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, Đảng ta
đã nhận thức ngày càng đầy đủ về vị trí, vai trò, động lực của nguồn lực con người
đối với sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước cho nên các chủ trương, CS phát huy
NNL ngày càng cụ thể, rõ ràng và thiết thực hơn. Định hướng phát triển trong thời kỳ
CNH, HĐH, Đảng ta khẳng định phải “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”[9, tr.85]. Bởi vì “Con người và
nguồn nhân lực, là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [12, tr.201]. Từ đó, Đảng ta xác định một trong những
nhiệm vụ chủ yếu để phát triển KT-XH ở nước ta hiện nay là “Nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội đất nước” [13, tr.187].
Do vậy, ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, cùng với việc hoạch định các CS
phát triển KT-XH thì việc xây dựng đội ngũ CBCCVC làm việc trong hệ thống
chính trị nói chung và KVC nói riêng là khâu then chốt, đây là yếu tố quyết định đối
với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đội ngũ CBCCVC trong KVC
ở nước ta đang trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu đó là thừa về số lượng, thiếu về
chất lượng, bộ máy cồng kềnh, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu công việc đặt ra.
Bên cạnh đó, đất nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH đất nước để thực hiện

1


chiến lược “đi tắt đón đầu”. Vai trò của NNL, trong đó NNL chất lượng cao là yếu
tố thúc đẩy sự tăng trưởng KT-XH, đảm bảo sự phát triển bền vững. Vấn đề đào tạo
và sử dụng NNL chất lượng cao luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo
trong văn kiện ĐH lần thứ XII khẳng định: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính
sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là NNL chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội” [16].
Theo đó, ngày 16/10/2003, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW
về xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó
đề ra mục tiêu là xây dựng TP Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả
nước, là trung tâm KT-XH lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp,
thương mại du lịch và dịch vụ; là TP cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về
trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; một trong những trung tâm văn hóa - thể
thao, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí
chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước.
Đà Nẵng phải phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH và cơ bản trở thành TP công nghiệp trước năm 2020.
Để thực hiện được những mục tiêu trên, Nghị quyết ĐH Đại biểu Đảng bộ TP
Đà Nẵng lần thứ XX (2010-2015) và lần thứ XXI (2015-2020) tiếp tục khẳng định

nhiệm vụ “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” là một trong ba đột phá về
phát triển KT-XH của TP nhiệm kỳ 2015-2020. Để thực hiện chủ trương trên, ngày
07/7/2004, UBND TP Đà Nẵng ban hành Quyết định số 117/2004/QĐ-UB phê
duyệt chương trình phát triển đào tạo nguồn lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ CNH, HĐH, trong đó nhấn mạnh nội dung “Chú trọng đào tạo nguồn
lực có chất lượng, có tay nghề cao cho các ngành kinh tế trọng điểm của TP, đặc
biệt là các chuyên gia giỏi về quản lý và chuyển giao công nghệ”. Nhận thức tầm
quan trọng NNL chất lượng cao trong KVC cũng như đối với sự phát triển KT-XH
của TP, những năm qua Đà Nẵng ban hành nhiều CS khuyến khích về vật chất lẫn
tinh thần để thu hút nhân tài, NNL chất lượng cao về làm việc trong KVC của TP.
Sau khi Đà Nẵng trở thành TP trực thuộc Trung ương thì có nguy cơ thiếu hụt

2


nguồn lực, nhất là nguồn lực trong KVC. Để giải quyết tình trạng trên, TP Đà Nẵng
đã ban hành và triển khai kịp thời các CS phát triển NNL, đặc biệt là CS thu hút
NNL và đào tạo NNL chất lượng cao. Ngày 17/01/1998, UBND TP Đà Nẵng có
Công văn số 93/CV-UB về tiếp nhận, bố trí công tác đối với những người tốt nghiệp
đại học loại giỏi, khá chưa có việc làm. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về CS thu hút
NNL đến công tác tại cơ quan, đơn vị của TP. Cùng với CS thu hút NNL, ngày
06/9/2004, UBND TP Đà Nẵng có Quyết định số 151/2004/QĐ-UB về triển khai
“Dự án đào tạo bậc đại học tại các cơ sở trong và ngoài nước cho học sinh Trường
trung học phổ thông (THPT) chuyên Lê Qúy Đôn”.
Nhìn chung, các CS thu hút và đào tạo NNL chất lượng cao của TP là một chủ
trương đúng đắn, phù hợp với quan điểm chỉ đạo của cấp trên và yêu cầu phát triển
của TP, vai trò phát triển NNL thể hiện tầm chiến lược của TP, nhất là NNL chất
lượng cao trong KVC. NNL này đã đáp ứng được một phần về số lượng lẫn chất
lượng và đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của TP. Bên cạnh những kết quả

đạt được thì vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như vẫn còn một tỷ lệ thấp đối tượng
thu hút chưa đáp ứng yêu cầu công việc, hạn chế về kỹ năng nhưng chưa có đánh
giá sàn lọc để thực hiện phương châm có vào, có ra; Việc phối hợp quản lý và thực
hiện CS, chế độ đối với các đối tượng được thu hút chưa đồng bộ, chặt chẽ; CS
dành cho đối tượng thu hút có phần vượt trội, tuy nhiên mức lương và phụ cấp theo
quy định vẫn còn thấp, chưa đảm bảo cho đối tượng thu hút sống bằng lương, nhất
là các trường hợp ngoại tỉnh; Vấn đề phát huy năng lực của đối tượng thu hút còn
hạn chế, môi trường làm việc chưa đồng bộ cao, sản phẩm đối tượng thu hút mang
lại chưa có tính chất nổi trội, thuyết phục;…
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, học viên chọn đề tài “Thực hiện chính sách
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng”
nhằm góp phần hoàn thiện hơn việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao để
thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng cho quá trình phát triển KT-XH tại
địa phương trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

3


NNL là nhân tố cơ bản nhất tạo động lực thúc đẩy quá trình phát triển KT-XH
nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng, vì thế nó luôn là mối quan tâm của
các nhà hoạch định, đánh giá CS cũng như giới nghiên cứu khoa học. Có nhiều công
trình nghiên cứu vấn đề phát triển NNL và NNL chất lượng cao; trong đó có một số
nghiên cứu điển hình như:
Một là, nhóm các công trình nghiên cứu về NNL nói chung gắn với yêu cầu
CNH, HĐH đất nước:
- Giáo sư-Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng cộng sự thuộc Viện Nghiên cứu Giáo
dục đã thực hiện đề tài khoa học cấp nhà nước thuộc chương trình KHXH-04 trong
cuốn sách “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa” do NXB Chính trị quốc gia Hà Nội phát hành năm 2001. Theo đó, đề tài đã
nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý luận, khoa học của chiến lược phát triển thể chất,
đạo đức, trí tuệ, năng lực nghề nghiệp của con người Việt Nam.
- PGS. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Từ việc phân tích vai trò của NNL, tác giả chỉ ra sự cần thiết và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng NNL.
- TS. Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả chỉ ra vai trò
quan trọng của NNL và khẳng định NNL là yếu tố quyết định sự thắng lợi của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Ngoài ra, vấn đề phát triển NNL ở nước ta còn được nhiều tác giả đề cập đến
thông qua bài viết trên các tạp chí, đề tài khoa học và trên các phương tiện thông tin
đại chúng như: “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” của TS. Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 1/2004;
Đặc biệt các công trình khoa học về “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế” của Phạm Văn Sơn, Tạp
chí Nhân lực khoa học xã hội, số 2/2017; “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0” của Nguyễn Thị
Tùng Lâm, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 9/2017.

4


Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu về đào tạo và phát triển NNL:
- Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào
tạo. Kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Tập sách phân tích một
số luận giải về phát triển NNL thông qua giáo dục và đào tạo ở Đông Á; đồng thời
nêu lên các vấn đề, các giải pháp, kinh nghiệm và một số lưu ý cho Việt Nam trong
phát triển NNL thông qua giáo dục và đào tạo từ bài học Đông Á.

- PGS.TS. Võ Xuân Tiến (2007), Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong
các cơ quan hành chính cấp quận (huyện), phường (xã) trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, Đề tài lĩnh vực kinh tế cấp Bộ. Đề tài đã làm rõ lý luận cơ bản liên quan đến
việc xây dựng và phát triển NNL trong KVC; đánh giá thực trạng trong khu vực hành
chính cấp quận (huyện), phường (xã), mà chủ yếu là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở TP Đà
Nẵng; đề xuất những biện pháp có tính khoa học, khả thi để xây dựng và phát triển
NNL hành chính đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
- BCH Trung ương Đảng khóa XI đã xây dựng Đề án “Tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”, Đề án đề cập đến tình hình và
nguyên nhân phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị từ Trung ương đến cơ sở; phân tích quan điểm, mục tiêu cần đạt được trong đổi
mới thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ; xây
dựng đội ngũ CBCCVC với số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.
- “Phát triển nguồn nhân lực trong Nghị quyết ĐH Đảng lần thứ XI”, tác giả
Trần Thắng năm 2013 đã khẳng định quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển của xã hội.
- Bài báo “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực tại Đà Nẵng” của PGS.TS Võ
Xuân Tiến trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Bài báo đã nêu bật mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa đào tạo và sử dụng NNL, làm rõ nội dung để phát triển NNL thì
không thể bỏ qua đào tạo NNL và sau khi đào tạo thì phải sử dụng NNL đó một
cách hợp lý hơn để không lãng phí nguồn tài nguyên to lớn đó.
- Luận án “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình Việt Nam

5


hội nhập quốc tế” của Tiến sĩ Chính trị học Phạm Đức Tiến năm 2016, Đại học
khoa học và xã hội, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu sâu việc phát triển NNL chất lượng

cao trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, từ những năm của thập niên 90 trở lại đây có nhiều nghiên cứu
về phát triển NNL một cách có hệ thống, nhất là ở một số nước phát triển như Mỹ,
Đức, Nhật, Anh,… Tiêu biểu nhất là các nghiên cứu của các tác giả sau đây:
- Priyanka Rani và M.S.Khan trong “Impact of Human Resource Development
on Organisational Performance”-“Tác động của phát triển nguồn nhân lực lên hiệu
năng của tổ chức” [32]. Nhóm nghiên cứu đưa ra kết quả sự phát triển NNL là tích
cực, tác động lên kỹ năng, thái độ và hành vi mà còn cải thiện đến hiệu năng tổ chức.
- Adeyemi O. Ogunade (2011) trong “Human capital investment in the
developing world: an analysis of praxis” - “Đầu tư vào vốn nhân lực ở các nước
đang phát triển: một phân tích của tập quán” đã khẳng định vai trò quan trọng của
vốn nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển.
- KellyD.J., nhóm nghiên cứu thuộc Tổ chức Hợp tác kinh tế Thái Bình
Dương công bố năm 2001, đưa ra khái niệm về phát triển NNL đăng trên tạp chí
Human Resource Development Outlook cho rằng phát triển NNL là một phạm trù
trong tổng thể quá trình thuộc về sự nghiệp phát triển con người, phát triển NNL sẽ
giúp tổ chức tạo ra lợi thế cạnh tranh và đạt hiệu quả cao hơn.
Tóm lại, đến nay đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu và đóng góp về ý nghĩa
khoa học, làm sáng tỏ nhiều vấn đề về NNL, NNL chất lượng cao cũng như vị trí,
vai trò của nó trong sự phát triển của đất nước. Các công trình trên ở mức độ khác
nhau đã cung cấp tư liệu, lý luận và thực tiễn về xây dựng và phát triển NNL chất
lượng cao ở KVC. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại trên địa bàn TP Đà Nẵng chưa
có công trình nào nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về CS phát triển NNL chất
lượng cao KVC, trong đó liên quan đến vấn đề về xây dựng, phát triển NNL chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong KVC trên địa
bàn TP. Do vậy, việc nghiên cứu đánh giá quá trình triển khai thực hiện CS phát
triển NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng hiện nay là rất cần thiết.

6



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng
cao KVC tại TP Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC.
- Phân tích thực trạng triển khai thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao
KVC tại TP Đà Nẵng thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện CS phát
triển NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao trong KVC tại TP Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: TP Đà Nẵng.
- Thời gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hiện CS phát triển NNL chất
lượng cao KVC giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2016.
- Nội dung: Thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC có rất nhiều
vấn đề, nhưng luận văn chỉ tập trung phân tích việc thực hiện một số CS cơ bản
trong đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, nhằm nâng cao chất lượng NNL trong
KVC tại TP Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp cận các phương pháp luận, quan
điểm Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng
hợp, thu thập thông tin, thống kê, đánh giá… để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu một

cách khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

7


Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về NNL, NNL chất lượng
cao và thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC.
Đánh giá một cách khách quan về kết quả đạt được, hạn chế, từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL chất lượng cao KVC tại TP Đà Nẵng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp cho TP
hoàn thiện hơn trong thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC. Luận văn
cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao khu vực công.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện trong thực hiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công tại thành phố Đà Nẵng.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO KHU VỰC CÔNG
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Nhân lực và nguồn nhân lực
Nhân lực hiểu là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này có thể gồm:
lực, trí lực của mỗi con người được đem ra sử dụng trong quá trình lao động sản
xuất [18, tr.7]. Vậy thể lực, trí lực của con người được hiểu: Thể lực chỉ sức khỏe
của thân thể, nó phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của từng người, mức sống, chế
độ dinh dưỡng, làm việc và nghỉ ngơi, tuổi tác,… còn trí lực chỉ sự hiểu biết, kỹ
năng, sự tiếp thu kiến thức, tài năng cũng như quan điểm, nhân cách của từng người
[19, tr.8].
Theo PGS.TS Trần Xuân Cầu và PGS.TS Mai Quốc Khánh: Nhân lực là sức
lực của con người, nằm trong mỗi người và làm cho con người hoạt động. Sức lực
đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể và đến một mức nào đó,
con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động và có sức lao động [7].
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân lực, nên có thể khái niệm
nhân lực tổng hợp tất cả sức lực cơ thể con người, làm cho con người có thể tham
gia vào các hoạt động văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, sản xuất, kinh doanh...
Nguồn nhân lực: NNL là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, là
nguồn lực con người nên có nhiều yếu tố khác với nguồn lực khác. Bởi con người là
một thực thể sinh vật xã hội trong quá trình vận động, NNL chịu tác động của các
yếu tố tự nhiên, xã hội tâm lý,… NNL một mặt là động lực thúc đẩy sự phát triển
của tổ chức, mặt khác NNL là mục tiêu của chính sự phát triển của tổ chức. NNL
gồm số lượng và chất lượng; số lượng là lực lượng lao động và khả năng cung cấp
lực lượng lao động cho sự phát triển KT-XH, còn chất lượng thể hiện ở thể lực, trí

9


lực và phẩm chất tâm lý xã hội của nguồn lực con người. Do vậy, thuật ngữ NNL
được định nghĩa khác nhau như:
Theo Liên Hiệp Quốc, “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,

kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển
của mỗi cá nhân và của đất nước” [30]. Còn GS.VS Phạm Minh Hạc cho rằng:
“Nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước,
một địa phương sẵn sàng tham gia vào một công việc nào đó”[20]. Nguồn lực con
người được coi là nguồn lực quan trọng nhất “quý báu nhất, có vai trò quyết định,
đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”
[11, tr.9].
Dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu nguồn nhân lực là những
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động cùng các tiêu chí về trí lực, thể
lực và nhân cách con người mà được quốc gia hay địa phương huy động vào quá
trình lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
1.1.1.2. Nguồn nhân lực chất lượng cao
Ngày nay các quốc gia trên thế giới rất quan tâm đến chất lượng NNL do xã
hội ngày càng phát triển. Đối với nước ta để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế thì đòi hỏi đội ngũ NNL có chất lượng,
năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng nhanh với khoa học, kỹ thuật, công
nghệ hiện đại. Do vậy, hình thành nên thuật ngữ NNL chất lượng cao nhưng đến
nay thì thuật ngữ NNL chất lượng cao được các nhà nghiên cứu quan niệm và hiểu
theo nhiều cách khác nhau như:
Theo GS.VS. Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực chất lượng cao là đội ngũ
nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao
công nghệ tiên tiến, thực hiện có kết quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt
nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa” [21, tr.147-148].
Tại ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đưa ra quan niệm NNL chất lượng
cao là bộ phận ưu tú nhất của NNL đất nước, đó là những “cán bộ lãnh đạo, quản lý
giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ
khoa học công nghệ đầu đàn” [14, tr.130].

10



Các Mác (Karl Marx) thì quan niệm NNL chất lượng cao là “Những con người
có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ
thống sản xuất trong thực tiễn”. Theo Giáo sư Chu Hảo thì “NNL chất lượng cao
trước hết phải được thừa nhận trên thực tế, không phải dạng tiềm năng. Điều đó có
nghĩa là nó không đồng nghĩa với học vị cao. NNL chất lượng cao là những người
có năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao xuất sắc nhất, sáng tạo và có
đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội”. Khái niệm này xem xét NNL ở
góc độ năng lực thực tế của người lao động được đo bằng chất lượng, hiệu quả mà
không dựa trên bằng cấp đã qua đào tạo. Tuy nhiên, thực tế vẫn xem NNL chất
lượng cao là những lao động được đào tạo có bằng cấp đầy đủ.
Theo TS. Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm
để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề về chuyên
môn kỹ thuật ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về
chuyên môn kỹ thuật nhất định như trên đại học, đại học, công nhân kỹ thuật lành
nghề” [8].
Như vậy, khái niệm NNL chất lượng cao mang tính chất tương đối, một người
có thể có tài năng trên lĩnh vực này nhưng lại bình thường trên các lĩnh vực khác.
Vì thế, khi xem xét một người có thuộc NNL chất lượng cao hay không phải xác
định tài năng của người đó trên một ngành, lĩnh vực, phạm vi nhất định.
Ngoài những quan niệm trên, thuật ngữ NNL chất lượng cao có nội hàm cụ thể
hơn để chỉ những người lao động có trình độ, năng lực trong các lĩnh vực sản xuất
vật chất mang lại hiệu quả cao như nghệ nhân, chuyên gia, công nhân lành nghề hay
trong lĩnh vực sản xuất tinh thần có những thuật ngữ như nhà chuyên môn, bác học,
nhà khoa học, chuyên gia, nhân tài,... để tôn vinh NNL chất lượng cao.
Từ các quan niệm nêu trên, có thể khái quát: NNL chất lượng cao là bộ phận
tinh túy của NNL, gồm những người đã qua đào tạo bài bản, có khả năng sáng tạo,
thích ứng nhanh với khoa học, công nghệ hiện đại. Đây là lực lượng nòng cốt trong
quá trình lao động đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhằm góp phần cho
sự phát triển chung của đất nước.

1.1.1.3. Nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công

11


Đến nay, chưa có nghiên cứu cụ thể về khái niệm KVC, do vậy có thể hiểu
thuật ngữ “khu vực công” là “khu vực nhà nước”. Theo đó, khu vực nhà nước là
khu vực thuộc sở hữu nhà nước, thực hiện các hoạt động của xã hội, trong đó nhà
nước giữ vai trò quyết định và chi phối như đất đai, sông ngòi, khoáng sản,… thuộc
sở hữu nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sở hữu nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh
và cung cấp dịch vụ; hệ thống các trường công lập; hệ thống các bệnh viện công;…
Hay phân biệt KVC và khu vực tư theo nguồn tài chính, theo đó KVC được nhà
nước cấp ngân sách để hoạt động. Các nguồn thu của KVC chủ yếu từ thuế, phí và
lệ phí dùng để chi tiêu cho các hoạt động của các cơ quan nhà nước như lương,
thưởng, chi phí cho các hoạt động cung cấp dịch vụ công,... Tóm lại, KVC là khu
vực tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phục vụ các nhu cầu phát triển chung của xã
hội. KVC có chức năng chủ yếu là bảo đảm trật tự xã hội thông qua hoạt động quản
lý nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công ích cho xã hội.
Như vậy, có thể hiểu KVC là khu vực hoạt động do nhà nước làm chủ sở hữu,
được nhà nước trao quyền lực để thực hiện việc quản lý xã hội bằng các văn bản
luật và văn bản dưới luật, nhằm đảm bảo trật tự xã hội thông qua hoạt động quản lý
nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công để hướng đến lợi ích chung cho cộng
đồng xã hội.
NNL chất lượng cao KVC được coi là đội ngũ CBCCVC đang làm việc trong
các cơ quan nhà nước có phẩm chất và sức khỏe tốt, có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ, biết sáng
tạo, vận dụng kiến thức đã được đào tạo vào quá trình thực hiện nhiệm vụ nhằm góp
phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao của cơ quan, đơn vị công tác đem lại
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. NNL chất lượng cao KVC là những cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi, những chuyên gia, nhà nghiên cứu khoa học, công nghệ hay

đội ngũ công nhân, lao động lành nghề… đây là lực lượng nòng cốt, đầu tàu đáp
ứng nhanh yêu cầu phát triển KT-XH.
NNL chất lượng cao KVC là một bộ phận của NNL hoạt động trong các cơ
quan nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân nên phải tôn trọng, thực hiện
quyền lợi hợp pháp cho nhân dân; đồng thời, đảm bảo tính công khai, minh bạch,

12


dân chủ, công bằng và chỉ được làm những gì pháp luật cho phép nhưng phải tuân
thủ nguyên tắc thống nhất, liên tục theo trình tự, thứ bậc hành chính. Do vậy, để có
NNL chất lượng cao KVC ngoài việc thu hút những người có trình độ cao từ các cơ
sở đào tạo có uy tín thì cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn,
lý luận chính trị, quản lý nhà nước, kỹ năng làm việc,… cho đội ngũ NNL hiện có
cũng như có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho NNL thu hút được.
Trên phương diện tiếp cận NNL chất lượng cao đối với sự phát triển của xã
hội, các nhà khoa học quan niệm “Nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực
công là những người có sức khỏe, có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn cao,
có năng lực công tác tốt, có phẩm chất đạo đức công vụ, luôn chủ động học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, chủ động trong hội nhập...”[6].
Tóm lại, NNL chất lượng cao KVC gồm những lao động qua đào tạo hoặc tự
tích lũy lại, những người có chức vụ trong các cơ quan nhà nước, sức khỏe tốt, có
chuyên môn, nghiệp vụ cao, có kỹ năng lao động giỏi, có khả năng thích ứng nhanh
với sự thay đổi của môi trường, khoa học, công nghệ, xã hội và đem lại hiệu quả,
năng suất hoạt động cao cho tổ chức, đơn vị và cho xã hội.
Để có được NNL chất lượng cao KVC thì người lao động phải có một thời
gian dài để đào tạo và tự tích lũy trong quá trình công tác. Khi nói đến năng lực
công tác của người lao động thì cần nói đến yếu tố về thái độ, kỹ năng và kiến thức.
Trong đó, yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của người lao động với công
việc cũng như với tổ chức đó là yếu tố thái độ. Một người có thể có kiến thức sâu

rộng, kỹ năng chuyên nghiệp nhưng thái độ bàng quan với cuộc sống, không có
trách nhiệm trong công việc và xã hội thì chưa chắc đã làm tốt công việc [25].
1.1.1.4. Chính sách và chính sách công
Trước khi tìm hiểu thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao KVC, cần
phải tìm hiểu qua các quan niệm về CS, CS công:
- Chính sách: Thuật ngữ CS được sử dụng rộng rãi trên sách, báo, phương tiện
thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn giản, CS là tập hợp
các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của Chính phủ, nó bao gồm
các mục tiêu mà Chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện được các mục

13


tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội,... James Anderson cho rằng “CS là một quá trình hành động có
mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà
họ quan tâm” [34].
Như vậy, CS có thể đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau như CS
của Liên Hiệp Quốc, CS của Đảng, CS của Chính phủ, CS của chính quyền địa
phương, CS của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội doanh nghiệp,…
- Chính sách công: CS công là khâu quan trọng trong hoạt động chính trị của
nhà nước, là yếu tố quyết định tính chính đáng của quyền lực chính trị, quyền lực nhà
nước. Do đó, nó luôn nhận được sự quan tâm của các chủ thể chính trị cũng như các
nhà khoa học chính trị. Mặt khác, xuất phát từ vai trò và chức năng xã hội của nhà
nước ngày càng cao, để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước thì cần phải
nghiên cứu về CS công một cách khoa học.
Đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về CS công bởi mỗi người có cách
tiếp cận, cách hiểu không giống nhau như: Nhà khoa học của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng CS công là “Chương trình hành động
của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể” [32, tr.114]. Còn Thomas Dye lại
đưa ra định nghĩa: “Là cái Chính phủ lựa chọn làm hay không làm” [36]. Tuy có

nhiều điểm khác nhau, nhưng các quan điểm trên đều xem xét CS công với tư cách
là sản phẩm có mục đích của nhà nước, chính quyền nhằm tác động đến đời sống
của nhân dân.
Từ phân tích trên, thuật ngữ CS công có thể hiểu như sau: Chính sách công là
tổng thể các quyết định, chương trình hành động do nhà nước lựa chọn để giải quyết
những vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra
trong mỗi thời kỳ và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững.
1.1.1.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu vực công
Từ các khái niệm về nhân lực, NNL, NNL chất lượng cao KVC, CS, CS công
thì khái niệm về phát triển NNL chất lượng cao KVC hiểu như thế nào. Trước hết
có thể hiểu phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, từ đơn giản đến phức
tạp, từ thấp đến cao, từ ít hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

14


Như vậy, phát triển NNL chất lượng cao là sự phát triển kỹ năng, năng lực và
sự đáp ứng yêu cầu về việc làm của tổ chức, hiểu một cách sâu hơn đó là phát triển
năng lực của con người để tiến tới việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề
nghiệp và cuộc sống cá nhân. Phát triển NNL chất lượng cao là phát triển về quá
trình nâng cao kiến thức, kỹ năng và năng lực của tất cả mọi người trong tổ chức và
được thể hiện qua chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo, kinh nghiệm công tác hoặc
vị trí việc làm; do vậy năng lực thường gắn với kiến thức, kỹ năng và thái độ. Kiến
thức là những hiểu biết chung và hiểu biết chuyên ngành về một lĩnh vực cụ thể.
Kiến thức có được thông qua các phương diện khác nhau trong quá trình đào tạo và
công tác. Còn kỹ năng là làm chủ khả năng áp dụng các kỹ thuật, phương pháp và
công cụ để giải quyết công việc.
Để đạt được kỹ năng thì phải áp dụng các phương pháp cụ thể qua một công
việc thực tế, thông qua tình huống hoặc mô phỏng thực tế. Đây là một trong những
tiêu chí để đánh giá mức độ thành thạo công việc. Ngoài kiến thức và kỹ năng thì

hành vi, thái độ của người lao động cũng rất quan trọng đối với NNL nói chung và
NNL chất lượng cao nói riêng. Nếu làm chủ thái độ, hành vi, trạng thái tinh thần
của bản thân thì đây là một điều kiện hình thành kỹ năng và ý thức đáp ứng yêu cầu
của vị trí làm việc.
Cũng có ý kiến cho rằng phát triển NNL chất lượng cao là quá trình tăng lên
về số lượng NNL và nâng cao về mặt chất lượng NNL, tạo ra cơ cấu NNL ngày
càng hợp lý. Cả ba mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu trong phát triển NNL gắn chặt
với nhau, trong đó yếu tố quan trọng nhất của phát triển là chất lượng của NNL phải
được nâng cao. Phát triển NNL chất lượng cao thực chất là nâng cao giá trị NNL
con người để phát huy tối đa hiệu quả sử dụng chúng trong thực tiễn phát triển, để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tổ chức và nhu cầu của người lao động.
Từ các vấn đề trên, phát triển NNL chất lượng cao là quá trình phát triển về số
lượng, chất lượng và cân đối về cơ cấu những người lao động có trình độ chuyên
môn cao, có kỹ năng làm việc tốt đang làm việc trong các ngành, lĩnh vực, các
thành phần kinh tế. Đó là quá trình phát triển về trí lực, thể lực, đạo đức, lối sống
nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho người lao động mà họ có thể đảm nhiệm

15


công việc đạt được mục tiêu đặt ra, góp phần phát triển bền vững KT-XH quốc gia.
CS phát triển NNL chất lượng cao KVC là một bộ phận của CS phát triển
NNL. CS này là để phát triển một lực lượng NNL có chất lượng cho KVC, do các
cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương ban hành. CS phát triển NNL
chất lượng cao KVC là một loại chính sánh cụ thể của CS công. CS ban hành nhằm
mục đích thu hút được một lượng NNL có trình độ, năng lực chuyên môn vào KVC
để làm việc, đem lại hiệu quả hoạt động cho KVC.
Từ những phân tích trên, có thể khái quát CS phát NNL chất lượng cao KVC
như sau: CS phát triển NNL chất lượng cao KVC là tổng thể các quan điểm và biện
pháp của nhà nước về thu hút và sử dụng NNL chất lượng cao vào làm việc trong

KVC nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KVC. Đặc biệt chú trọng
đến phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao thể lực, trí tuệ và phẩm chất tâm lý
xã hội để tạo ra NNL chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền
vững của đất nước.
1.1.1.6. Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khu
vực công
Thực hiện CS là tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ CS theo
yêu cầu quản lý của Nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu đề ra của CS. Thực hiện
CS là trung tâm kết nối các bước trong chu trình CS thành một hệ thống, nhất là với
giai đoạn hoạch định CS có vị trí đặc biệt quan trọng.
Thực hiện CS công là giai đoạn đưa CS vào thực hiện trong đời sống. Đây là
giai đoạn tổ chức thực hiện các giải pháp CS đã lựa chọn và kiểm tra việc thực hiện.
Có thể nói giai đoạn này có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của
một CS công, thực hiện CS là một khâu hợp thành của chu trình CS nếu không có
công đoạn này thì CS không thể tồn tại. Thực hiện CS chính là giai đoạn biến ý đồ,
mục tiêu CS thành hiện thực, từng bước thực hiện các mục tiêu CS, qua đó khẳng
định tính đúng đắn của CS và giúp CS ngày một hoàn thiện hơn. CS sau khi ban
hành phải được triển khai thực hiện trong đời sống xã hội, CS là một dạng vật chất
đặc biệt nên nó cũng cần thực hiện những chức năng để tồn tại. Song muốn thực
hiện được chức năng đó phải có sự tham gia phối hợp giữa các bên thì mới tồn tại.

16


Thực hiện CS công được hiểu là quá trình đưa CS đó vào thực tiễn đời sống xã
hội thông qua việc ban hành các quy định, quyết định, dự án, chương trình nhằm
hiện thực hóa mục tiêu của CS. Nói cách khác là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của
chủ thể trong CS thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu.
Từ quan niệm trên, có thể hiểu thực hiện CS phát triển NNL chất lượng cao
KVC là toàn bộ quá trình đưa CS phát triển NNL chất lượng cao KVC vào thực tiễn

cuộc sống xã hội, thông qua việc thể chế hóa các văn bản pháp luật, chủ trương của
Nhà nước nhằm chăm lo, tạo điều kiện giáo dục công dân thúc đẩy sự phát triển của
NNL chất lượng cao KVC, đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò, tiêu chí và ý nghĩa của chính sách phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao khu vực công
1.1.2.1. Đặc điểm
NNL chất lượng cao KVC được hiểu là NNL có trình độ cao làm việc trong
các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước được tổ chức theo hệ thống thứ bậc
hành chính từ Trung ương đến địa phương. Nguồn nhân lực chính trong KVC là đội
ngũ CBCCVC được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử vào cơ quan
nhà nước theo bậc, ngạch theo quy định của Luật Cán bộ, công chức.
Quá trình hình thành và phát triển NNL trong các cơ quan nhà nước cũng tuân
thủ và chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường lao động và đặc thù riêng của tổ chức
nhà nước như trình độ học vấn, chuyên môn được đào tạo, kiến thức về quản lý nhà
nước, chính trị, kỹ năng hành chính, trách nhiệm, đạo đức công vụ.
Là những người thực thi công vụ và cung ứng dịch vụ cho KVC, là đội ngũ
nhân lực chuyên nghiệp và được Nhà nước đảm bảo lợi ích khi thực thi công vụ. Là
một bộ phận trong NNL có trình độ chuyên môn, tay nghề cao. Kết quả hoạt động
của NNL chất lượng cao không chỉ phụ thuộc vào bản thân mà còn phụ thuộc vào
môi trường xã hội. Chất lượng NNL phụ thuộc vào chất lượng đào tạo, giáo dục của
mỗi quốc gia.
Bộ máy các cơ quan nhà nước được thành lập theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức do Chính phủ quy định, tạo thành một chỉnh thể thống

17


nhất, có mối quan hệ chặt chẽ nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước.
Những người làm việc trong các cơ quan nhà nước chỉ làm những việc mà

pháp luật cho phép, tuân thủ theo nguyên tắc thống nhất, phục vụ lợi ích cho dân,
công khai minh bạch, tôn trọng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Cơ hội thăng tiến chủ yếu theo thâm niên công tác, theo ngạch bậc và muốn trở
thành lãnh đạo thì phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
NNL chất lượng cao KVC còn thể hiện ở tính nghề nghiệp, tính quan liêu, tính
thứ bậc, được nhà nước trả lương thông qua thực thi công vụ, tính phục vụ nhân
dân, đội ngũ nhân lực trong KVC, nhất là các đối tượng NNL chất lượng cao được
thu hút phải thể hiện được tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân thông qua hiệu quả
thực thi công vụ và các kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong quá trình giải quyết các yêu
cầu của công dân. Bên cạnh đó, NNL chất lượng cao thể hiện được tinh thần sẵn
sàng hội nhập để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức; theo đó, ngoài
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, họ phải có những kỹ năng nhất định như sử dụng
ngoại ngữ, giao tiếp và ứng dụng công nghệ thông tin trong công việc chuyên môn.
1.1.2.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao khu vực công
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, khi nền kinh tế chủ yếu
dựa trên tri thức thì NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò
quyết định. Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
nên vai trò của NNL chất lượng cao KVC càng thể hiện rõ nét hơn.
CS phát triển NNL chất lượng cao cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước về thu hút, đào tạo và phát triển NNL chất lượng cao để góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động KVC. Là cơ sở cải cách nền hành chính nhà nước ngày càng trở
nên khoa học, nhờ những kiến thức, kỹ năng của NNL chất lượng cao và nắm bắt
kịp thời với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Nâng cao về chất
lượng NNL, giảm về số lượng trong KVC, đây cũng là biện pháp phù hợp với quan
điểm tinh giản bộ máy hành chính của nhà nước. Bổ sung một lực lượng NNL có
chất lượng cho KVC, khắc phục tình trạng thiếu hụt NNL có trình độ cao trong
KVC hiện nay. Đảm bảo đầy đủ cả về số lượng và chất lượng NNL cho KVC.

18



×