Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy phụ đạo học sinh yếu kém môn ngữ văn lớp 12 ở trung tâm GDNN GDTX thành phố thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.33 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRUNG TÂM GDNN-GDTX THÀNH PHỐ THANH HÓA
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY
HỌC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN VĂN LỚP 12 Ở
TRUNG TÂM GDNN - GDTX THÀNH PHỐ THANH HOÁ

Người thực hiện: Lê Thị Liên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2019
-1-


MỤC LỤC
Trang

A. Mở đầu ………………………………………………………………….…...3
I. Lí do chọn đề tài………………………………………………………….…....3
II. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………...….4
III. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………..4
IV. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….4
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm ….......... ………………..……………….5
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.………………...…………………...5
II.Thực trạng và nguyên nhân của việc dạy phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ
văn lớp 12 ở Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hóa Thực trạng vấn
đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.……..........................……...…5



III. Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy phụ đạo học sinh
yếu, kém môn Ngữ văn lớp 12 ở Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố
Thanh Hóa...................................................................................................
8
IV. Kết quả đạt được:......................................………………....……………………..14
C. Kết luận, kiến nghị .…………………………………………………….….15
3.1. Kết luận..……………………………………………………………….….15
3.2. Kiến nghị..…………………………………………………………………15
Tài liệu tham khảo.……………………………………………………………..17
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng sáng kiến kinh nghiệm
ngành giáo dục và đào tạo tỉnh và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở
lên............18

-2-


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Văn học đến với mỗi người rất tự nhiên bỡi lẽ từ khi cịn nằm trong nơi
ai cũng nghe được những câu hát ru của bà của mẹ, văn học trở thành món ăn
tinh thần không thể thiếu của mỗi người dân Việt Nam.Vì vậy mơn văn có chức
năng quan trọng, có vai trị đặc biệt trong giáo dục mục đích, động cơ học tập
đúng đắn cho học sinh. Như vậy, mục tiêu bao quát và cao nhất của môn văn là
góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa
cho học sinh, một nhân cách cân đối tồn vẹn cả về trí tuệ lẫn tâm hồn, nhân văn
và thẩm mỹ, có hiểu biết và có kỹ năng hành động đáp ứng nhu cầu do thực tế
cuộc sống đòi hỏi.
 Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ
đạo học sinh yếu kém là mục tiêu cơ bản hàng đầu, là mối quan tâm lớn đối với

sự nghiệp giáo dục hiện nay. Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội
nghị TW 8 khóa XI về “ Đổi mới, căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ
đó cần phải tổ chức các hoạt động tích cực cho người học, từ đó khơi dậy và
thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tịi, khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức của người học để phát huy khả năng tự học của họ. Có thể nói, vấn đề học
sinh yếu kém hiện nay đang được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục
tình trạng này. Muốn vậy, người giáo viên khơng chỉ biết dạy mà cịn phải biết
tìm tịi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ
lệ học sinh yếu kém.
Hằng năm, qua các kỳ thi môn văn của các Trung Tâm GDNN - GDTX
cũng có đạt được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học sinh đạt
điểm cao môn văn lại chưa nhiều. Là một giáo viên được công tác và giảng dạy
tai Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá, tiếp cận với đối tượng
học sinh bổ túc trung học phổ thông – các em không đủ điều kiện vào các
trường THPT trên địa bàn thành phố. Điều đó cũng đồng nghĩa với tỷ lệ học sinh
yếu kém về văn hoá cao hơn so với các trường THPT. Với số lượng khoảng hơn
200 học sinh, chất lượng đầu vào kém, các em chưa có động cơ học tập, lười
học, chán học,...
Qua thực tế bản thân và đồng nghiệp trong những năm qua, tôi đã đúc rút
được : “ Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy phụ đạo học sinh yếu
kém môn Ngữ văn lớp 12 ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá
-3-


” với mong muốn các em học văn thật, thi văn thật và ngày càng yêu thích văn
chương.
II.Mục đích nghiên cứu
Mỗi người thầy đều luôn muốn học hỏi nâng cao, ln tìm cách dạy tốt nhất

truyền đạt những cái đúng, cái hay, cái đẹp, cái cần thiết đối với các em. Việc
phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không
chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của tồn xã hội. Bản thân tôi
luôn nỗ lực cố gắng trong mọi công việc, tôi là giáo viên giảng dạy môn ngữ văn
cho học sinh các khối lớp nhất là những học sinh học yếu kém, tôi giúp các em
tự tin hơn trong việc học của mình giúp các em yêu thích mơn văn, hiểu được
giá trị đích thực của văn học, biết yêu quý gia đình, yêu quê hương đất nước. đó
là nền tảng đê các em tiến lên xây dựng dất nước.
III. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc dạy và phụ đạo cho
học sinh yếu kém môn Ngữ văn lớp 12 ở Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố
Thanh Hóa .
IV. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu về giảm tỷ lệ học sinh yếu kém mơn Ngữ văn : Q
trình chuẩn bị bài, quá trình lên lớp, tìm hiểu đối tượng học sinh, tiến hành dạy
học theo giáo án đã xây dựng, khảo sát, phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánhđánh giá nhằm đưa ra một số biện pháp giảm tỷ lệ học sinh yếu kém môn Ngữ
văn khối 12 ở Trung Tâm GDTX Thành Phố Thanh Hóa .

-4-


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Môn văn có chức năng quan trọng, có vai trò đặc biệt trong giáo dục mục
đích, động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Trước đây các môn văn- sử- địa
(khối C) được các em chọn khá nhiều để các em thi đại học cũng vì vậy số học
sinh học văn nhiều hơn. Hiện nay, các trường phổ thông đang chuyển biến theo
hướng gắn giáo dục với mục tiêu kinh tế - xã hội, do đó học sinh chỉ chú trọng
học các môn thuộc khối A,B và D.
Chính vì động cơ học tập lệch lạc, mờ nhạt dẫn đến kết quả học tập còn

yếu kém. Trong các giờ học môn ngữ văn chỉ một số học sinh chăm chú học
bài, còn một số học sinh khác rất mơ hồ, điều này không chỉ ở học sinh khối 10 ,
11 mà ngay cả học sinh khối 12 chuẩn bị thi tốt nghiệp cũng chưa chú trọng đến
giờ học môn văn. Các em viết những câu văn mơ hồ, sử dụng từ không đúng
nghĩa hoặc không đúng văn cảnh, thậm chí có em cịn viết sai tên tác giả, tên
nhân vật,...
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao bản thân khơng chỉ hồn thành
nhiệm vụ chun mơn mà cịn cần nắm bắt tâm lí học sinh, quan tâm giúp đỡ với
từng đối tượng cụ thể, kịp thời uốn nắn động viên , khích lệ, dạy phụ đạo cho
học sinh yếu kém môn văn để các em thấy được tầm quan trọng của môn văn
trong nhà trường, từ đó các em thích học văn, yêu văn chương và khơng chỉ đạt
kết quả tốt tại trường mà cịn có thể tham gia các kì thi đạt kết quả cao.
II. Thực trạng và nguyên nhân của việc dạy phụ đạo học sinh yếu kém
môn Ngữ văn lớp 12 ở Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hóa .
1.Thực trạng:
Trong những năm qua toàn thể đội ngũ cán bộ giáo viên của nhà
trường đã có nhiều nỗ lực để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Với sự
cố gắng đó chúng tôi đã đạt được một số kết quả nhất định: tỷ lệ học sinh khá,
giỏi tăng lên; học sinh đạt các giải cao trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh; học
sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng cũng tăng lên. Bên cạnh đó vẫn cịn
một bộ phận khơng nhỏ học sinh có kết quả học lực yếu, kém trong số những
học sinh yếu kém đó có cả học sinh khối 12. Đó là một thực trạng đáng buồn đối
với nhà trường nói chung và giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng.
Trong học tập là thế, nhưng các em lại rất hiếu động và dễ bị ảnh hưởng
bởi những hoạt động mới lạ. Chính vì thế mà các em dễ bị sa vào các trò game...
Khi bàn luận về vấn đề phim ảnh, những vấn đề vui chơi của giới trẻ thì các em
lại rất hào hứng và ngôn ngữ sử dụng phần nhiều là tiếng lóng, từ ngữ sử dụng
không đúng chính tả mà là ngơn ngữ của “chat” trên mạng như: “pít rùi” (biết
-5-



rồi); “h’ nèy” (giờ này); “cug” (cũng); “lun” (luôn); “zậy” (vậy); “bùn wá”
(buồn quá); “phẽ ko” (khỏe không)…
Như vậy, chúng ta thấy học sinh còn mắc rất nhiều lỗi khi viết văn, cảm thụ
tác phẩm chưa tốt, chưa hiểu hết được ý tưởng của tác giả,... không hào hứng
học tập .Vậy để có được kết quả tốt trong các kì thi môn văn cần có sự quan
tâm, sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường; giữa giáo viên và học
sinh
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 12 bản thân tôi thật sự
trăn trở và suy nghĩ phải làm thế nào để khắc phục tình trạng này. Trong q
trình giảng dạy, tơi đã tìm hiểu một số nguyên nhân khiến học sinh học tập còn
yếu kém.
2. Nguyên nhân :
Từ thực trạng của vấn đề bản thân tôi nghĩ rằng nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ
học sinh yếu, kém môn Ngữ văn khối 12 có rất nhiều nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra
một số nguyên nhân chủ yếu nhất:
2.1. Nguyên nhân từ phía gia đình:
Gia đình có vai trị quan trọng đối với con cái, do thiếu sự quan tâm và
giáo dục của các bậc phụ huynh ; cũng có nhiều gia đình có hoàn cảnh éo le, bố
mẹ chia tay hoặc bố mất, mẹ mất,...các em sao nhãng việc học tập. Bên cạnh đó
cũng có phụ huynh và học sinh cho rằng môn văn "dễ" nên không chú ý học. Có
phụ huynh rất quan tâm, lo lắng đầu tư cho con mình , cũng có những phụ
huynh khơng quan tâm thậm chí khơng biết con em mình học thế nào...
2.2. Ngun nhân từ phía người thầy:
Tất cả giáo viên dạy học phụ đạo đều phải tự soạn, tự nghiên cứu và tự
sưu tầm tài liệu . Giáo viên dạy phụ đạo vẫn phải hồn tất cơng tác giảng dạy
như mọi giáo viên, đơi khi cịn kiêm nhiệm nhiều cơng tác khác…nên khơng có
điều kiện đầu tư thời gian, trí lực cho việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ
năng làm bài cho học sinh. Thêm vào đó, thời gian tập trung dạy phụ đạo cũng
không nhiều .Các giáo viên ở Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố chúng tôi

tham gia dạy học, dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém còn gặp rất nhiều khó khăn
2.3. Nguyên nhân từ phía học sinh:
Đối tượng học sinh của Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh
Hóa thường tiếp thu chậm, hiểu nội dung mơ hồ, khả năng cảm thụ một tác
phẩm văn chương chưa tốt,...
* Ý thức học tập chưa tốt
Ý thức tự giác học tập ở các em chưa cao, không coi trọng các môn xã hội,
trong đó có môn Ngữ văn. Do các em chưa nhận thức được môn Ngữ văn là
môn học làm cơ sở để hỗ trợ cho nhiều môn học khác và bồi đắp nhân cách tâm
hồn cho con người nên còn xem nhẹ, coi thường và nghĩ rằng đó là môn học
không quan trọng, không cần đầu tư nhiều thời gian vì nó là mơn học khơng khó
-6-


chỉ cần học thuộc bài và đọc một số tài liệu tham khảo là đủ. Ở nhà các em
không chuẩn bị bài tốt, không đọc trước văn bản, đến lớp không chú ý nghe giáo
viên giảng bài, không ghi bài đầy đủ nên không tiếp thu được kiến thức bài mới.
Một số em bị hổng kiến thức từ những lớp dưới, năng lực học tập yếu, kém
nên càng tỏ ra chán nản trong việc học tập, đến lớp không nắm bắt được nội
dung bài mới, ngày càng lơ là bỏ bê việc học dẫn đến yếu, kém trong các kì
thi…
* Phương pháp học tập không phù hợp
Đa số học sinh đều nghĩ rằng học Văn không khó, không cần phải tư duy
như những môn khoa học tự nhiên khác nên các em chọn cách học thuộc bài một
cách máy móc như “học vẹt” học xong chẳng nhớ được gì, chẳng biết nội dung
tác phẩm đó bàn đến vấn đề gì nên khơng có khả năng phân tích và cảm thụ tốt
văn bản, không nắm chắc được phương pháp làm bài cho từng dạng bài cụ thể.
2.4. Một số nguyên nhân khác
Xã hội phát triển nên ngày càng có nhiều phương tiện giải trí hấp dẫn hơn
khiến học sinh ít hứng thú với việc tiếp cận sách vở đặc biệt là đọc tác phẩm văn

học để phục vụ tốt cho việc học tập môn Ngữ văn trong nhà trường.
Do xu thế chọn ngành nghề nên học sinh khối 12 không hứng thú với mơn
Ngữ văn vì đa số các em chỉ thi khối A, B mà không thi khối C, D vì vậy thái độ
học lệch rất rõ. Điều đó làm cho tiết dạy Ngữ văn kém hiệu quả.
Do chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay hay nhưng rất khó với
phần lớn học sinh. Chương trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nói chung và
lớp 12 nói riêng lượng kiến thức còn nặng so với tiết phân phối chương trình
điều này cũng gây ức chế tâm lí về thời gian đối với giáo viên và học sinh. Mặt
khác các em cịn học nhiều mơn, nhiều buổi nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng
môn Ngữ văn…
Thực trạng học sinh không học văn, không hiểu văn có rất nhiều
nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả dạy học văn hiện nay. Nhưng
nguyên nhân cơ bản là do các em học sinh không đọc tác phẩm, không chú ý
nghe giảng, không hiểu nghĩa của từ,…kết quả là các em học yếu kém mơn văn.
Trong q trình giảng dạy với mong muốn tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả
dạy phụ đạo học sinh yếu kém môn văn tôi luôn học hỏi , tìm tịi biện pháp ,
cách thức dạy văn đạt hiệu quả . Vì vậy tơi chọn đề tài " Một số biện pháp góp
phần nâng cao hiệu quả dạy phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn ở Trung
Tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hóa" giúp học sinh dễ hiểu và say mê
học văn đạt hiệu quả cao nhất.
III. Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy phụ đạo học sinh
yếu, kém môn Ngữ văn lớp 12 ở Trung Tâm GDNN - GDTX Thành Phố
Thanh Hóa.
1. Xác định đối tượng
-7-


Là học sinh lớp 12 dù đã xác định chọn khối thi và bắt đầu có xu hướng học
lệch nhưng các em phải thấy được tầm quan trọng của môn Ngữ văn khơng chỉ
là học kiến thức mà cịn học làm người vì vậy mỗi học sinh phải thật sự u

thích mơn Ngữ văn khơng được xem nhẹ.
Mỗi học sinh nhất là học sinh yếu, kém phải chịu khó đọc nhiều sách báo
để nâng cao năng lực đọc văn, cảm thụ văn bản và khả năng nói viết lưu loát, rõ
ràng, đúng chuẩn.
Phải tích cực tìm hiểu, tham khảo các tài liệu liên quan đến môn Ngữ văn, tham
gia các hoạt động ngoại khóa do tổ chuyên môn tổ chức để nâng cao hứng thú và
niềm yêu thích đối với mơn Ngữ văn
Một số em cịn hạn chế khả năng phân tích, cảm thụ, diễn đạt lưu lốt cũng như
nói viết đúng chuẩn… đòi hỏi học sinh phải đọc bài nhiều lần trước khi phân
tích văn bản. Vì vậy khả năng tiếp thu bài không tốt dẫn đến hậu quả không hiểu
bài , làm bài thi chỉ suy diễn không đúng nội dung bài học và phải nhận điểm
yếu kém môn Ngữ văn.
Học sinh yếu kém lớp 12 là những học sinh tiếp thu bài chậm, ý thức học
tập kém, ham chơi, hổng kiến thức nên nội dung công việc lại càng khó khăn
hơn.
Sau khi tìm hiểu và có sự phân loại học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu, kém và
chú ý nhiều hơn đến học sinh yếu kém. Từ đó xác định đối tượng học sinh tìm
hiểu nguyên nhân xem do đâu mà các em yếu, kém để có phương pháp dạy phụ
đạo thích hợp giúp các em tiến bộ.
2. Dạy phụ đạo học sinh yếu, kém môn văn lớp 12:
a. Xây dựng kế hoạch
Trung Tâm GDNN- GDTX Thành Phố Thanh Hóa với số lương học
sinh ít ỏi ,học sinh học giỏi văn là hiếm chỉ là những em học khá, trung bình và
cả yếu kém. Sau khi đã xác định được đối tượng học sinh học yếu kém môn văn
,tôi xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch dạy phụ đạo (Bao gồm cung cấp
kiến thức,ôn luyện đề, hướng dẫn tự học và rèn luyện kỹ năng). Trong phạm vi
bài viết này, tơi chỉ xin trình bày một vài kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ
năng làm văn cho học sinh.
b. Các bước rèn luyện kỹ năng làm văn
* Lựa chọn hướng ra đề

Tôi luôn ý thức một cách sâu sắc rằng, việc ra đề là khâu quan trọng
đầu tiên . Đề đúng và hay sẽ kích thích hứng thú làm bài của học sinh, giúp
người thầy nắm được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh. Từ đó có thể đánh
giá khách quan, chính xác, cơng bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của học
sinh. Ngược lại, đề thiếu chính xác, sáo mịn khơng những khơng đánh giá được
chính xác về năng lực học sinh, mà cịn giảm thiểu tính độc lập sáng tạo khơng
-8-


gây được hứng thú học văn. Và hậu quả của nó là việc rèn kỹ năng sẽ trở nên vô
nghĩa.
Một là, tăng cường các đề thi gắn với thực tiễn đời sống (nghị luận xã hội).
Có thể ra đề về những vấn đề gần gũi với học sinh, thanh niên đó là những vấn
đề về lý tưởng, đạo đức, lối sống… những vấn đề mang tính thiết yếu, cập nhật
của xã hội, đất nước, như về việc học tập, về đọc sách, giải trí, về văn hóa, thiên
nhiên, mơi trường v.v…
Hai là, với loại đề nghị luận văn học, cần coi trọng đánh giá năng lực vận
dụng chứ không phải là khả năng nhớ và thuộc bài. Vì thế, ngồi những văn bản
đã được giảng kỹ trong chương trình, đề có thể đưa ra những văn bản mới để thí
sinh thể hiện năng lực đọc hiểu của mình bằng cách vận dụng các tri thức ngữ
văn đã được tích lũy trong cả q trình học phổ thơng cùng với các kỹ năng cần
thiết đã được hình thành và rèn luyện qua việc đọc hiểu nhiều văn bản trong
sách giáo khoa...
Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề rèn luyện kỹ năng cho học sinh, tơi đã
hình thành một số dạng đề cơ bản sau:
* Đề kiểm tra khả năng cảm thụ tác phẩm văn học
Mục đích của dạng đề này là nhằm kiểm tra năng lực cảm thụ, đọc hiểu…
Chẳng hạn:
Đề : Cảm nhận của anh (chị) về một bài thơ yêu thích?
Qua dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh về tác

phẩm, như hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu khái quát giá trị nội dung - nghệ
thuật của tác phẩm; năng lực chọn lựa và cảm thụ tác phẩm trên nhiều cấp độ:
chỉnh thể tác phẩm - hình tượng - chi tiết, hình ảnh, ngơn ngữ…
Tuy nhiên, khơng nên chỉ giới hạn trong những tác phẩm đã có trong sách
giáo khoa. Làm như vậy học sinh rất khó thể hiện năng lực thật sự của mình.
Cần mạnh dạn đưa thêm những đoạn thơ, đoạn văn trong phần đọc thêm hoặc
chưa có trong sách giáo khoa. Cố nhiên, với những bài chưa có trong sách giáo
khoa, cần cung cấp văn bản và chỉ nên đưa ra một đoạn ngắn, yêu cầu người làm
bài phải suy nghĩ, vận dụng tổng hợp tri thức và năng lực tư duy.
* Đề kiểm tra kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ tác phẩm
Dạng đề này yêu cầu học sinh phải bao quát được những vấn đề cơ bản của lí
luận văn học và soi sáng nó vào những tác phẩm văn học cụ thể.
Chẳng hạn:
Đề 1: Anh chị hiểu như thế nào về lời nói của cổ nhân “thơ ca bắt rễ từ
lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”.
Hãy chọn và phân tích một bài thơ mà anh chị tâm đắc nhất trong chương trình
phổ thơng để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề 2: Bàn về thơ, R.Tagore viết: "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực
chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hồn thiện từ bên trong".Ý kiến anh chị?
-9-


Đề 3: Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: "Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn
người ta bởi cách nhìn mới, tình cảm mới, về những việc, những điều mà ai
cũng biết cả rồi" (Nhà văn nói về tác phẩm - NxbVH, 1998, tr. 260).
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên và phân tích sức hấp dẫn của một tác phẩm
văn học mà anh (chị) cho là lớn.
Đề 4: Trong tác phẩm Đaghextan của tôi, Raxun Gamzatốp viết: "Bài
ca là sứ giả của nỗi buồn hay của niềm vui sướng. Bài ca là tấm chứng minh thư
của lòng trung thực và lòng dũng cảm, của ý nghĩ và việc làm".

(Quyển II, Nxb Cầu Vồng, 1984, tr. 187)
Với ý nghĩa "bài ca" là những tác phẩm thơ ca, anh (chị) hãy bình luận về ý kiến
trên.
Với dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức của học sinh về những
vấn đề lí luận văn học cơ bản, như: đặc trưng văn học, đặc trưng thể loại, phong
cách nghệ thuật, bản chất của lao động nghệ thuật, giá trị và chức năng của văn
học, vai trò của văn học đối với đời sống v.v… đồng thời củng cố kiến thức cơ
bản về tác phẩm văn học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay, cái đẹp
của tác phẩm. Qua lí luận văn học, học sinh có căn cứ khoa học để hiểu sâu hơn
tác phẩm. Và ngược lại, qua tác phẩm, học sinh hiểu và biết khái quát những vấn
đề lí luận văn học cơ bản.
* Đề rèn luyện kỹ năng so sánh văn học
Đề ra dạng này là dạng đề khó, nhưng học sinh dễ có cơ hội để phát
huy năng khiếu . Nó đòi hỏi học sinh vừa nắm được những vấn đề cụ thể, chi
tiết, vừa biết khái quát tổng hợp và lý giải vấn đề. Có thể so sánh tác phẩm cùng
đề tài, cảm hứng trong một giai đoạn văn học, của một tác giả hoặc của nhiều tác
giả trong những giai đoạn văn học khác nhau.
Chẳng hạn:
Đề 1: Hình tượng người lính qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
và Tây Tiến của Quang Dũng.
Đề 2: Những tương đồng và khác biệt trong cách cảm nhận và thể hiện
số phận người nông dân nghèo qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tơ Hồi) và
Vợ nhặt (Kim Lân).
* Đề văn nghị luận xã hội
Dạng đề này thường gắn với đời sống xã hội, văn hóa, tư tưởng… yêu cầu
học sinh phải có kiến thức thực tiễn, có năng lực vận dụng, trình bày suy nghĩ,
hiểu biết, quan niệm của mình về những vấn đề đó. Trong xu hướng đổi mới
việc dạy và học hiện nay, dạng đề này đang được nhiều người quan tâm. Sau đây
là một số đề ví dụ:
Đề 1:

Bàn về việc học môn văn hiện nay.
Đề 2:
- 10 -


Quan niệm của anh (chị) về lòng nhân ái.
Đề 3:
Qua cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong vở kịch Hồn Trương Ba da làng
thịt, hãy bàn về lẽ sống.
Đề 4:
Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận với chủ đề "Con đường phía trước"
Đề 5
Em ơi em ,đất nước là máu xương của mình
Phải biết găn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời
( Đất nước-Nguyễn Khoa Điềm)
Em hãy viết một bài văn nghị luận xã hôi nói về trách nhiệm của cá nhân đối với
đất nước.
* Rèn luyện kỹ năng phân tích đề
Rèn luyện kỹ năng phân tích đề, về thực chất là tìm hiểu đề. Bao gồm:
nhận diện kiểu dạng đề, xác định yêu cầu đề, phạm vi tư liệu cần bao quát. Thao
tác này có ý nghĩa định hướng cho việc xử lý đề bài của học sinh. Cần phải cho
học sinh thấy rằng, không thể có bài làm tốt nếu xác định sai yêu cầu, kiều dạng
đề ra.
Sau khi đã nhận diện đúng yêu cầu đề, việc xác định thao tác nghị luận
chỉ cần củng cố và hệ thống lại. Điều cần lưu ý với học sinh là dù đề thi có yêu
cầu hay không, học sinh vẫn phải vận dụng nhiều thao tác nghị luận khác nhau
trong một bài làm (Phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận, so sánh…) và
phải xác định thao tác nào là chính, thao tác nào là hỗ trợ. Nắm chắc yêu cầu

này, học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lý và khoa học
cho bài viết. Đây cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao tác hỗ trợ thường
gắn với những ý phụ, ý bổ tsung, giúp cho nội dung bài viết hoà chỉnh, trọn vẹn.
* Rèn kỹ năng lập dàn ý:
Bước đầu tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý tôi thường yêu cầu học sinh
phải lập dàn ý sơ lược theo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết.
Thứ hai, xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của
mỗi luận điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của bài.
Thứ ba, sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học.
Để giúp học sinh thực hiện được những yêu cầu trên, tôi thường hướng dẫn các
em đặt hệ thống câu hỏi và tự trả lời. Chẳng hạn:
Câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn đề cần giải
quyết có thể triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào?
- 11 -


Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh,
phương diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập
trung và rõ nét các yêu cầu trọng tâm của đề?
Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh, nội dung cần nghị luận được
trình bày như thế nào là tối ưu nhất?
Những nội dung này học sinh được suy nghĩ trong vịng 25-30 phút, sau
đó học sinh sẽ trình bày ngắn gọn bằng hình thức nói (yêu cầu phải nói rõ căn cứ
để nhận thức đề, đề xuất luận điểm và sắp xếp ý). Cuối cùng giáo viên mới nhận
xét, sửa chữa hồn chỉnh.
Xin được lấy một ví dụ:
Đề ra:
Trên một bức tường cũ kĩ của một đấu trường cổ ở La Mã, người ta đã đọc được
những dòng chữ sau: “Sai lầm luôn nên tránh nhưng nếu đã phạm phải sai lầm

thì đó là điều cần thiết và khơng nuối tiếc”.
(Hạt giống tâm hồn- NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh )
Anh, (chị) có suy nghĩ gì về câu nói của người La Mã cổ đại?
Ở đề trên, học sinh cần đề xuất được các luận điểm chính sau:
Luận điểm 1:
- Con người luôn có khao khát hướng tới sự hoàn mĩ, nhưng vẫn có thể
phạm phải sai lầm. Điều quan trọng là phải biết chấp nhận để rút kinh nghiệm và
tránh sai lầm.
- Sai lầm không đồng nghĩa với thất bại. Sai lầm là nhận thức, là việc làm
trái với yêu cầu khách quan hoặc với lẽ phải, dẫn đến hậu quả khơng hay. Cịn
thất bại là bị thua, là hỏng việc, không đạt kết quả.
- Con người có nhu cầu hịan thiện mình, có ước muốn tránh được mọi sai
lầm trong cuộc đời. Song cuộc sống vốn phức tạp, con người không thể không
mắc sai lầm. Như có người nói Con người không phạm phải sai lầm, trừ phi
người ấy khơng làm việc gì, đó mới là sai lầm của người ấy. Nói cách khác, đòi
hỏi con người khơng được mắc sai lầm là siêu hình, là duy tâm.
Luận điểm 2
Một lần sai lầm có thể huỷ hoại con người, nhưng cũng có thể giúp cho
con người trưởng thành. Đối với người có ý chí kiên cường, một lần vấp ngã là
một lần thử thách ý chí, để họ chiến thắng bản thân. Sai lầm không làm ta tuyệt
vọng. Phải có thái độ nhìn nhận sai lầm một cách tích cực, để thấy rằng mình có
đầy đủ sức mạnh vượt lên chính mình. Sai lầm là bài học đắt giá mà ta phải trả
cho sự trưởng thành của bản thân, đó là điều cần thiết và không nên nuối tiếc.
Luận điểm 3
- Câu ngạn ngữ của người Hi Lạp, thể hiện một quan niệm nhân sinh đúng
đắn, có tính phổ quát.
- 12 -


- Phê phán thái độ lẩn tránh, không giám thừa nhận sai lầm, hoặc không

biết rút ra bài học từ sai lầm.
Ở bước này, phần làm việc của học sinh ở nhà là tiếp tục viết thành văn
phần mở, kết bài và các câu, đoạn chuyển ý.
Kỹ năng này nếu được làm một cách nghiêm túc, thường xuyên sẽ giúp
các em chủ động, độc lập tư duy, khắc phục dần tình trạng ngẫu hứng, nghĩ đến
đâu viết đến đó, thậm chí làm bài xong khơng biết mình viết gì. Tác dụng của
khâu này là giúp các em khi đọc đề bài có thể nhanh chóng hình thành hệ thống
luận điểm, định hướng kiến thức cho bài trong một khoảng thời gian ngắn (1530 phút); bài viết của các em sẽ đủ ý và mạch lạc
Thực tế cho thấy, các em học sinh khi được rèn luyện ,được giáo viên dạy kĩ
thì các em cũng có khả năng nhận diện đề và lập dàn ý khá nhanh và tự tin, có ý
thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ thống luận điểm trước khi bắt tay vào viết bài.
* Rèn luyện kỹ năng viết văn
Đây là kỹ năng quan trọng có ý nghĩa quyết định chất lượng một bài làm
văn của học sinh. Bởi lẽ, nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm hợp lý, có kiến
thức phong phú, suy đến cùng mới chỉ là điều kiện ban đầu. Một bài viết tốt, học
sinh phải biết trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình
một cách mạch lạc, sáng sủa, giàu cảm xúc và có sức thuyết phục. Năng khiếu
văn chương của học sinh được thể hiện rõ nhất là ở đây.
Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tơi thường tiến hành theo hình thức
nâng dần độ khó; đi từ nhỏ tới lớn; từ một ý đến nhiều ý và hoàn thiện:
- Viết thành văn một đoạn văn được xác định rõ yêu cầu (giải thích một luận
điểm; chứng minh một luận điểm; bình luận nâng cao...)
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên
chữa (khoảng 2 bài /1 tuần).
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp trong thời gian quy định. Yêu cầu
trước hết đối với học sinh là phải diễn dạt lưu loát rõ ý; chữ viết sạch sẽ, dễ đọc,
khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. Từ đó nâng dần yêu cầu học sinh phải
viết được những đoạn văn hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ, có
giọng văn riêng, thể hiện được dấu ấn, phong cách của người viết.
Để đạt được những yêu cầu đó, học sinh phải tham khảo những bài

văn mẫu do giáo viên lựa chọn, định hướng; Có thể học tập cách viết của các
bạn của mình (những đoạn, những ý mà giáo viên cho là đúng và hay). Hình
thức này rất có hiệu quả bởi đó là những đoạn văn, bài văn hay do chính các em
viết. Các em rất tự hào khi có được bài văn, đoạn văn hay mà được thầy cô và
bạn mình trân trọng, kịch thích hứng thú học tập cho các em.
* Chấm và chữa bài
Đối với các em học sinh, khi chấm bài giáo viên phải chỉ ra được
điểm mạnh, yếu cơ bản của mỗi bài; theo dõi và động viên kịp thời mức độ tiến
- 13 -


bộ của mỗi học sinh trong từng bài viết. Khi chấm, giáo viên phải chỉ ra các lỗi
cụ thể về dùng từ, viết câu, tổ chức ý… phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân
và định hướng cách chữa để học sinh có thể tự sửa chữa các lỗi của mình. Và để
tạo hứng thú, giáo viên có thể tổ chức hưỡng dẫn học sinh đọc và chữa bài cho
nhau. Thay đổi cách chấm điểm phải đi liền với sự thay đổi việc dạy và
học.Theo ý kiến của cá nhân tôi và cũng là kinh nghiệm giảng dạy của tôi với
những bài, những đề học sinh đã làm và được giáo viên chấm chữa thì khi học
sinh đi thi gặp phải những bài những đề như vậy bao giờ cũng làm tốt hơn nhiều
với kết quả rất cao.
IV. Kết quả đạt được:
Người giáo viên nào cũng vậy, họ rất vui khi nhìn thấy học trị của mình
thành cơng - đó là những bông hoa điểm mười : kết quả cao trong học tập, đạt
thành tích cao trong kì thi và sau nữa là bước chân vào các trường đại học.
Trung Tâm GDNN- GDTX thành phố Thanh Hóa với số lượng học sinh
ít, chất lượng đầu vào kém . Hơn nữa mỗi năm có 2- 4 lớp 12 , các năm học tôi
đều được giao nhiệm vụ dạy môn Văn lớp 12, bằng kiến thức vốn có, học hỏi
đồng nghiệp và sự nổ lực không ngừng của bản thân đạt được kết quả :
Năm học 2014-2015: Tổng số HS khối 12 có 67 em tham gia thi tốt
nghiệp THPT đều đậu : 67 HS (đạt 100%)

Năm học 2015-2016: Tổng số HS khối 12 có 75 em tham gia thi tốt
nghiệp THPT đậu được 74 HS ( đạt 98,6%.)
Năm học 2016-2017: Tổng số HS khối 12 có 70 em tham gia thi tốt
nghiệp THPTQG đậu được 70 HS ( đạt 100%.)
Năm học 2017-2018: Tổng số HS khối 12 có 127 em tham gia thi tốt
nghiệp THPTQG đậu được 125 HS ( đạt 98%.)
Năm học 2018-2019: Tổng số HS khối 12 có 64 em tham gia thi tốt
nghiệp THPTQG. Tôi đã và đang cố gắng ôn luyện phụ đạo cho những em học
yếu kém giúp các em đậu tốt nghiệp đạt 100%

- 14 -


C -

PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:
Dạy văn, học văn nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học và vận
dụng kiến thức kỹ năng vào cuộc sống quả là một công việc không dễ chút nào.
Trong nhà trường phổ thông không có môn khoa học nào có thể thay thế mơn
Ngữ văn vì đây là mơn học vừa cung cấp kiến thức, vừa hình thành nhân cách và
bồi đắp cho tâm hồn con người những tình cảm tốt đẹp để con người tìm đến với
con người, trái tim hòa cùng nhịp đập với trái tim. Nhưng sự thật đáng buồn
ngày nay các em học sinh không nhận thức được điều đó nên có thái độ coi
thường, xem nhẹ vì vậy mà tỷ lệ học sinh yếu kém mơn Ngữ văn ngày càng cao.
Giáo dục là một quá trình, việc phụ đạo học sinh yếu kém cũng vậy. Phải trải
qua một khoảng thời gian nhất định, có sự tích lũy cần thiết thì mới đạt được kết
quả.
Để đạt được kết quả cao trong việc phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn

khối 12 không phải là việc làm một sớm một chiều mà phải làm thường xuyên,
liên tục. Để thực hiện phụ đạo có hiệu quả ngoài sự lựa chon phương pháp, giải
pháp phù hợp và sự tận tâm của người thầy cần phải có sự cộng tác từ nhiều
phía: sự chỉ đạo của nhà trường, ý thức của người học…
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tơi đã tích lũy được từ “ Một số biện
pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn
lớp 12 ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá ”. Với mong muốn
gãp thªm mét sè kinh nghiƯm , mét sè biƯn pháp của mình
vào vốn kinh nghiệm và phơng pháp của tất cả giáo viên dạy
văn nói chung và đối với giáo viên tại trung tâm GDNN- GDTX
Thành Phố Thanh Hoá nói riêng góp phần bồi dỡng tri thức cho
các em có đủ đức đủ tài phục vụ đất nớc trong thời đại CNHHĐH. Là một giáo viên luụn c gng song có thể bài sáng kiến kinh nghiệm
của tôi chưa được hoàn hảo nhưng với sự tiến bộ của học sinh, tơi đã mạnh dạn
trình bày. Rất mong được sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa học, quí bạn
bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng được hoàn thiện
hơn.
2. Kiến nghị:
* Về giáo viên dạy phụ đạo:
Giáo viên giữ vai trò quan trọng trong kết quả của các em. Giáo viên
dạy phụ đạo trước hết phải là người có nhiệt huyết, đam mê với nghề và phải
thực sự có năng lực và tận tâm với học sinh, nắm được mặt mạnh, mặt yếu của
học sinh, tích lũy được kinh nghiệm. Những giáo viên này sẽ chịu trách nhiệm
trực tiếp với nhà trường. Không nên bố trí giáo viên khơng trực tiếp giảng dạy ở
lớp có học sinh yếu kém vì những giáo viên đó sẽ có ít thời gian để theo sát và
nắm vững mức độ học tập của học sinh.
- 15 -


* Động viên, khuyến khích :
Để hỗ trợ cho cơng tác dạy phụ đạo học sinh yếu kém có hiệu quả, các

cấp lãnh đạo nhà trường, các tổ chức đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm… cần thấy
được tính đặc thù của môn văn, quan tâm, tạo điều kiện tối đa cho giáo viên và
học sinh, xem đây là một nhiệm vụ quan trọng cần đầu tư lâu dài. Chẳng hạn:
bớt tiết nghĩa vụ, bớt công tác kiêm nghiệm, thưởng công thỏa đáng cho giáo
viên, động viên kịp thời đối với các giáo viên và học sinh khi nỗ lực cố gắng…;
quan tâm theo dõi và đáp ứng các yêu cầu chính đáng của giáo viên và học sinh
về phịng học, mua tài liệu, photo bài học, bài tập…
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm
2019
Tơi xin cam đoan đây là
SKKN của mình viết, khơng
sao chép nội dung của người
khác

Lê Thị Liên

- 16 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn kiến thức – Kĩ năng lớp 12
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 12
3. Sách giáo viên Ngữ văn 12
4. Tài liệu hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THPT năm học 2017-2018
5. Tài liệu hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THPT năm học 2018-2019
6. Thiết kế bài dạy Ngữ văn 12 tập 2 – Lưu Đức Hạnh (chủ biên)
7. Lập kế hoạch học, ôn luyện thi môn ngữ văn của Nguyễn Đức Hiền
8. Dạy và học mơn ngữ văn- PGS.TS Nguyễn Trí- Nhà xuất bản Giáo dục.

9. Ôn tập và tự kiểm tra kiến thức ngữ văn THCS-Luyện thi vào lớp 10Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Bình luận văn chương, Tạ Đức Hiển, TS Nguyễn Trung Kiên. PGS
Nguyễn Kim Hoa- TS Lê Thuận An, Nhà xuất bản Hà Nội 2005.
11. Phương pháp làm bài thi đại học môn văn .Nguyễn Phước Bảo Khôi- trường
chuyên Lê Hồng Phong.
12. Luyện văn - ôn thi đại học.Lê Xuân Lít- Đỗ Kim Hồi-Lê Lưu Oanh- tạ Đức
Hiền của Nxb Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh.

- 17 -


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Liên
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trung tâm GDNN- GDTX TP Thanh
Hóa.

TT

1.

2.

Cấp đánh giá
xếp loại

Tên đề tài SKKN


(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

“ Một số biện pháp góp
phần nâng cao hiệu quả dạy
và học từ ngữ trong giảng
văn ở Trung tâm GDTX-DN
Thành Phố Thanh Hoá

(QĐ Số
539/QĐSGD&ĐT ngày
18/10/2011 của
Giám đốc sở
Giáo Dục và
Đào Tạo Tỉnh
Thanh Hóa

Loại C


2010-2011

“ Một số biện pháp góp
phần nâng cao hiệu quả
dạy bồi dưỡng học sinh
giỏi môn văn ở Trung tâm
GDTX Thành Phố Thanh
Hoá ”

QĐ Số
753/QĐSGD&ĐT
ngày
3/11/2014 của
Giám đốc sở
Giáo Dục và
Đào Tạo Tỉnh
Thanh Hóa

Loại C

2013-2014

- 18 -



×