Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số kinh nghiệm trong công tấc chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT DTNT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.41 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT – DTNT TỈNH THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TOÀN DIỆN HỌC
SINH TRONG TRƯỜNG THPT-DTNT

Người thực hiện: Trịnh Trúc Ly
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực : Công tác chủ
nhiệm

MỤC LỤC
1
THANH HOÁ, NĂM 2019


MỤC

TÊN MỤC

TRANG

I

MỞ ĐẦU


1-3

1

Lý do chọn đề tài

1-2

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Đối tượng nghiên cứu

3

4.

Phương pháp nghiên cứu

3

II

NỘI DUNG SKKN


4-18

1

Cơ sở lý luận

4-6

2

Đặc điểm tình hình lớp

7-8

3

Mặt mạnh, mặt yếu

8-9

4

Thực trạng vấn đề

9-10

5

Các nguyên nhân, yếu tố tác động


10-11

6

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

11-16

7

Hiệu quả của SKKN đối với HĐGD của bản thân và đồng nghiệp 16-18

V

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

19-20

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan SKKN này không trùng lặp với các SKKN khác và các công
trình nghiên cứu đã công bố. Các số liệu sử dụng trong SKKN này là kết quả tổng
hợp của tôi qua các năm tôi làm chủ nhiệm.
2


Tác giả đề tài:

Trịnh Trúc Ly

DANH MỤC VIẾT TẮT


1. CN: Chủ nhiệm.
2. KTX: Ký túc xá.
3


3. GVBM: Giáo viên bộn môn.
4. GVCN: giáo viên chủ nhiệm.
5. TTN: Thanh thiếu niên.
6. THPT-DTNT: Trung học phổ thông Dân tộc nội trú.
7. QL KTX: Quản lý ký túc xá.
8. HS: học sinh.
9. BGH: Ban giám hiệu.
10. SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm.

Tài liệu tham khảo:
[1]. Luật Giáo dục năm 2005.
[2]. Kỷ yếu hội thảo công tác chủ nhiệm ở trường DTNT.
( Tháng 10-2009)
4


[3]. Chuyên đề phòng chống tội phạm học đường.
( HCM – EDU)
[4]. Vấn đề bạo lực học đường và các giải pháp khắc phục
(Vgbc.org.vn)

I. MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
Sinh thời Bác Hồ đã từng nói “ Có tài mà không có đức là người vô dụng, có

đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”, lịch sử cũng đã chứng minh tầm quan
trọng của hai yếu tố tài và đức trong việc hình thành nhân cách con người. Xã hội
5


ngày càng phát triển yêu cầu về sự toàn diện của con người cả về tài lẫn đức ngày
càng cao. Đặc biệt, trong xã hội hiện nay vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội
trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh là rất quan trọng.
Một trong những vấn đề đổi mới GD&ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức
cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn
bản của Bộ GD&ĐT. Luật giáo dục năm 2005 đã xác định “ Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hoàn thành nhân cách con người Việt Nam
XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…” [1]
Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mặt tích cực tuy nhiên còn phát sinh nhiều
vấn đề mà chúng ta cần quan tâm : Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, những luồng
tư tưởng mới cũng du nhập vào reo rắc lối sống tự do tư sản, làm sói mòn những
giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một bộ phận Thanh thiếu
niên có dấu hiệu sa sút về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức
trong qua hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, thiếu ý chí, dễ bị lôi kéo,
bị cuốn vào những việc xấu, tệ nạn xã hội,…. Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy
biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem đến cho quá trình sống, học tập và rèn
luyện của học sinh (HS) ngày càng nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu
tố bất lợi đối với sự phát triển nhân cách các em. Nhu cầu được hỗ trợ về mặt tinh
thần để phát triển thuận lợi nhất ngày càng trở nên cấp bách hơn đối với thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó một số cán bộ quản lý, giáo viên chưa thực sự là tấm gương sáng cho
học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức khoa học mà thờ ơ không
chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh.
Trường THPT – DTNT Tỉnh Thanh Hóa là nơi con em đồng bào các dân tộc
thiểu số của 11 huyện miền núi Thanh hóa về đây sinh sống và học tập. Các em xa

gia đình, xa bố mẹ xa vòng tay ấm áp yêu thương trong độ tuổi rất nhạy cảm. Chính
6


vì vậy thầy cô giáo, đặc biệt là GVCN của lớp đóng vai trò là người cha, người mẹ,
là người anh, người chị và là những người bạn của các em, chăm sóc các em, bảo
vệ các em như chính con mình. Một tập thể lớp có vững mạnh hay không phụ thuộc
rất nhiều vào cách thức tổ chức, quản lý mọi hoạt động của GVCN. Không thể phủ
nhận vai trò quan trọng của GVCN trong công tác giáo dục toàn diện học sinh
trong Trường DTNT. Để làm tốt công tác chủ nhiệm không đơn giản và dễ dàng,
nhưng với tinh thần làm việc : “ Tất cả vì học sinh thân yêu”, các thầy cô giáo làm
công tác chủ nhiệm đã vượt lên chính mình bằng tấm lòng nhiệt huyết, yêu nghề,
yêu trò luôn phấn đấu không ngừng. GVCN thực sự là người thắp sáng ước mơ cho
các em, chuẩn bị hành trang cho các em bước vào đời, sau nhiều năm tham gia
công tác chủ nhiệm lớp và luôn muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chủ
nhiệm, nay tôi mạnh dạn đưa ra “ Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPTDTNT ”.
2. Mục đích nghiên cứu.
– Thấy được tầm quan trọng của GVCN trong quá trình giáo dục toàn diện cho học
sinh ở trường THPT nói chung và trường THPT-DTNT nói riêng, từ đó tìm hiểu
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giáo dục toàn diện học sinh, góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà nhà trường đặt ra trong thời kỳ mới.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Tập trung nghiên cứu “ Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT- DTNT ”.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- PP thống kê, xử lý số liệu.
7



II. NỘI DUNG SKKN.
1. Cơ sở lý luận.
Nhiệm vụ giáo dục toàn diện học sinh không chỉ là nhiệm vụ của nhà trường
mà còn là nhiệm vụ của cha mẹ học sinh, nhiệm vụ của toàn xã hội. Công tác CN
trong trường THPT - DTNT có vị trí quan trọng, đòi hỏi ở người thầy có trình độ
chuyên môn giỏi, có phương pháp giáo dục tốt, có tình cảm trong sáng, say mê
công việc, yêu nghề, yêu trò, thắp sáng ước mơ cho các em. Biết tổ chức các
phong trào thi đua trong mỗi cá nhân, mỗi tập thể để tạo động lực phấn đấu vươn
lên cho học sinh. Không có giáo án, không công thức, không có bài giảng mẫu,
song mỗi GVCN đều tìm cho mình một cách hợp lý để đạt được mục tiêu giáo
dục đề ra. Chính vì vậy GVCN trong Trường THPT- DTNT có vai trò hết sức
quan trọng [2]:
- GVCN thay mặt nhà trường quản lý điều hành mọi công việc của lớp. Xây
dựng cho lớp có kế hoạch hoạt động cụ thể, giúp cho các em có nghị lực phấn
đấu vươn lên đạt được mục đích ước mơ của mình
- GVCN là người gần gũi chăm lo giáo dục giúp đỡ các em vươn lên trong
cuộc sống, đồng thời là người chăm sóc, bảo vệ học sinh.
- GVCN là cầu nối giữa tập thể học sinh, phản ánh những tâm tư, nguyện vọng
của học sinh với nhà trường, đồng thời GVCN cũng là cầu nối giữa các môi trường
giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội.
Với những vai trò quan trọng nêu trên, giáo viên chủ nhiệm lớp cần có phẩm
chất, năng lực tốt, tổ chức, điều hành mọi hoạt động của lớp và làm tốt một số
nhiệm vụ sau:
1. Giáo viên chủ nhiệm, trước hết phải mẫu mực về đạo đức, tác phong, ứng
xử, có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh, thực sự là
tấm gương sáng để học sinh noi theo.
8



2. Phải nắm vững nhiệm vụ, kế hoạch của nhà trường để chỉ đạo học sinh của
lớp mình thực hiện theo yêu cầu, kế hoạch đề ra. Triển khai và thực hiện tốt các
cuộc vận động của Đảng, Nhà nước, của Ngành như: Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Hai không”; “Xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực”… Với tư cách là nhà sư phạm, GVCN có trách nhiệm
truyền đạt tới học sinh tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường bằng sự
thuyết phục, cảm hóa, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự
giác, tự nguyện. Với kinh nghiệm sư phạm của mình, GVCN phải biến những chủ
trương, kế hoạch của nhà trường thành chương trình hành động của mỗi học sinh,
làm cho các em tự giác và say mê học tập, rèn luyện.
3. Cần nghiên cứu đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh dân tộc thiểu số để
có nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp nhiệt tình
có trách nhiệm, có uy tín với bạn bè, có khả năng điều hành, làm nòng cốt trong các
hoạt động của lớp. Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò cố vấn, quan sát, giúp đỡ, uốn
nắn các hoạt động của học sinh.
4. GVCN phải biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất
mọi hoạt động phù hợp với yêu cầu của lớp, của trường, từng tháng, từng học kỳ và
cả năm học.
5. Phải giáo dục học sinh toàn diện: Từ tư tưởng, đạo đức, nhân cách, kỹ năng
sống… đến truyền đạt kiến thức cho các em. Trong đó, giáo dục tư tưởng là quan
trọng vì các em có nhận thức đúng về trách nhiệm học tập, rèn luyện mới tự giác,
có khả năng vượt khó, mang lại hiệu quả trong học tập và rèn luyện. Công việc này
đòi hỏi GVCN phải làm thường xuyên, liên tục vì ở lứa tuổi các em suy nghĩ chưa
chín chắn, thiếu kinh nghiệm, rất dễ bị lôi kéo bởi những cám dỗ đời thường. Tuy
nhiên ở lứa tuổi của các em đang muốn khẳng định mình, giàu ước mơ, hoài bão,
GVCN khéo động viên, có nghệ thuật giáo dục rất dễ kích thích tư duy sáng tạo,
phát triển tiềm năng trí tuệ vốn có của các em.
9



6. Phải chăm sóc học sinh như người cha, người mẹ thứ hai của các em. Các
em đến trường hầu hết ở độ tuổi 15, 16, độ tuổi đang rất cần vòng tay nuôi dưỡng,
chăm sóc của cha mẹ mà cuộc sống tập thể nội trú là một gia đình lớn, có rất nhiều
vướng mắc cần giải quyết. Chỉ bằng tấm lòng, tình thương của cha mẹ, giáo viên
chủ nhiệm mới vượt lên chính mình để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đó, còn học
sinh luôn được chở che, được chăm sóc đầy đủ và yên tâm học tập.
7. Kết hợp với các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài trường để cùng giáo dục
học sinh, đây là nguyên tắc trong giáo dục nhằm thực hiện tốt chức năng phối hợp,
khép kín quá trình giáo dục về không gian, thời gian tác động đến học sinh, góp
phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
8. Liên hệ mật thiết với gia đình để cùng giáo dục học sinh. Gia đình nơi các
em sinh ra, lớn lên và đã được sự giáo dục, giáo viên cần liên hệ với gia đình để có
thêm thông tin chính xác về học sinh, kết hợp để cùng giáo dục học sinh, thông báo
kết quả học tập, rèn luyện của học sinh đến gia đình định kỳ hoặc đột xuất.
9. Định hướng cho học sinh chọn nghề trong tương lai. Do điều kiện ở vùng
khó khăn, các em và gia đình thiếu thông tin cần thiết về nghề nghiệp. Giáo viên
chủ nhiệm là người biết rõ khả năng của các em, giáo viên chủ nhiệm cần tư vấn để
các em chọn nghề phù hợp với khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội.
10. GVCN có trách nhiệm nắm vững tình hình của lớp về mọi mặt, báo cáo
cho BGH biết theo định kỳ hoặc đột xuất những vấn đề cần thiết để nhà trường có
hướng giải quyết kịp thời. Chịu trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng giáo
dục của lớp chủ nhiệm.
Với tinh thần làm việc: “Tất cả vì học sinh thân yêu” để các em luôn cảm
nhận được “ Trường là nhà, miền núi là quê hương, các dân tộc là anh em ruột
thịt”, GVCN thực sự là người thắp sáng ước mơ cho các em bay cao, bay xa tới
những chân trời mới, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp trồng người cho đất
nước, tô thắm trang sử truyền thống vẻ vang của dân tộc.
10



2. Đặc điểm tình hình lớp.
2.1. Thuận lợi.
Trong những năm gần đây, giáo dục luôn được sự quan tâm của tất cả các cấp
các ngành cũng như toàn xã hội. Trong các nhà trường nói chung và trường THPT
– DTNT nói riêng, công tác CN đã được thực sự chú trọng việc sắp xếp, phân công
công tác GVCN đầu năm học, chú trọng đến những giáo viên trẻ, nhiệt huyết, giáo
viên có năng lực và giàu kinh nghiệm làm công tác CN lớp nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục học sinh.
BGH nhà trường đã phối kết hợp với các bộ phận khác trong nhà trường nhằm
chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên trong công tác chủ nhiệm của giáo viên.
Phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục là nhà trường, gia đình và xã hội.
Đa số phụ huynh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục, đặc
biệt là giáo dục con em các dân tộc thiểu số trong hành trình đi tìm tri thức. Họ đã
có ý thức tự giác, có thái độ tích cực trong việc giáo dục con em mình . Đây là điều
rất cần thiết góp phần quyết định thành công của GVCN, của nhà trường.
Các em ăn ở, sinh hoạt và học tập tại trường cũng là một trong những thuận lợi
rất lớn trong việc tổ chức các câu lạc bộ nhằm phát triển toàn diện như: CLB “ em
yêu Vật lý”, CLB “ Tiếng anh”, phát triển năng khiếu như CLB guitar, CLB khiêu
vũ, tham gia chơi các môn thể thao như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, bóng
chuyền, võ Vovina… các hoạt động VH – VN - TDTT cũng được thường xuyên tổ
chức tạo ra một sân chơi lành mạnh cho các em.
2.2. Khó khăn.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của học sinh trường DTNT là các em sống xa gia
đình, người thân, bạn bè trong lứa tuổi quan trọng nhất phát triển và hoàn thiện
nhân cách. Trong thực tế vẫn còn tình trạng nhận thức chưa đúng đắn, chưa phù
11


hợp trong việc, coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp, chưa tập trung rèn luyện, đổi mới

phương pháp, kĩ năng trong công tác chủ nhiệm lớp. Trong khi đó mục tiêu giáo
dục của nước ta không chỉ giáo dục con người có tri thức mà còn cần đào tạo con
người, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khoẻ, thẩm mỹ, và kỹ năng sống có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
phát triển đất nước trong thời kì CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Một số phụ huynh học sinh vì lí do điều kiện kinh tế còn khó khăn, ở vùng biên
giới xa xôi, hoặc đi làm ăn xa, gia đình không hạnh phúc, … nên việc giáo dục con
cái của họ là “Trăm sự nhờ thầy”. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy học và
giáo dục của thầy cô ở trường, làm cho việc dạy học và giáo dục trở nên khó khăn
hơn, kém hiệu quả hơn.
3. Mặt mạnh – mặt yếu.
3.1. Mặt mạnh.
Đã nhiều năm làm GVCN lớp, phần nào đã có chút ít kinh nghiệm nhưng tôi
vẫn thấy công việc của một GVCN lớp ở trường THPT –DTNT mỗi năm luôn là ẩn
số rất khó khăn, rất phức tạp. Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì
phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi để
hiểu học sinh, để xử lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt hiệu
quả giáo dục cao. Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, không có tinh thần
trách nhiệm cao thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì hiểu rõ điều đó nên
trong những năm học qua, cùng với việc giảng dạy tốt các môn học theo qui định,
tôi luôn cố gắng phấn đấu làm tốt vai trò, nhiệm vụ của một GVCN lớp.
3.2. Mặt yếu:
Là HS ở lứa tuổi từ 15 đến 18 tuổi, lứa tuổi đang có sự chuyển biến rõ rệt trong
quá trình hình thành nhân cách . Ở lứa tuổi này, các em đã có nhiều thay đổi về
nhận thức, về tâm sinh lí, tình cảm và cả các mối quan hệ xã hội. Nhiều em đang
trong giai đoạn của tuổi dậy thì. Các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, bị xâm hại,…
12


Nhưng các em vẫn chưa chuẩn bị đủ những kỹ năng cần thiết để phòng, tránh, chưa

biết tự bảo vệ mình trước những cám dỗ đời thường. Vì vậy, các em rất cần được
GD tư tưởng và rèn luyện kĩ năng sống để tự tin hơn trong cuộc sống.
4. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
- Cùng với sự phát triển của kinh tế, những vấn đề xã hội nảy sinh ngày càng
nhiều. Trong đó, vấn đề trong học đường đang là mối bận tâm lớn, cần
được quan tâm và cần có những biện pháp giải quyết thiết thực.
4.1. Vấn đề xã hội nóng nhất hiện nay : bạo lực học đường
Thực tế, trong trường THPT- DTNT không có những vụ bạo lực học đường
nghiêm trọng như chia sẻ trên mạng, trên những phương tiện thông tin đại chúng.
Các vụ việc học sinh đánh nhau trong nhà trường ngày chỉ mang tính chất khóa
trước hỏi thăm, bắt nạt khóa sau. Nhưng những hành vi bạo lực học đường gây
nhiều hệ lụy nghiêm trọng, đặc biệt là ám ảnh tinh thần của đối tượng bị hại. Hành
vi này cũng ảnh hưởng đến thái độ học tập của học sinh, thầy cô cũng như hoạt
động giáo dục của nhà trường nói riêng.
4.2. Những vấn đề nóng hiện nay: Tình yêu tuổi học trò
Nếu như trước đây, tính yêu học trò được xem là thứ tình cảm trong sáng và
ngây thơ thì hiện nay tình yêu học trò không còn giữ đúng bản chất của nó. Đây
không còn là những rung động đầu đời bồng bột mà còn là trào lưu của giới trẻ hiện
nay. Cùng với sự phát triển của mạng Internet, học sinh được tiếp xúc với những
hình ảnh và thông tin đa chiều từ mạng xã hội, dẫn đến tình trạng đi quá giới hạn,
gây ảnh hưởng đến học hành, sức khỏe cũng như đời sống tinh thần cho các em.
Điều này cho thấy diễn biến phức tạp và mức độ trầm trọng của tình yêu học trò
hiện nay. Đây cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Đồng thời, cần triển khai và
thực hiện công tác giáo dục giới tính trong nhà trường, giúp học sinh nắm bắt được
những kiến thức sức khỏe- giới tính.
13


4.3. Vấn đề XH được quan tâm nhất hiện nay: Vấn đề trầm cảm
Đây cũng là một vấn đề nan giải trong nhà trường hiện nay. Trầm cảm là hiện

tượng học sinh cảm thấy mệt mỏi và chán nản, không có hứng thú học tập cũng như
giao tiếp bạn bè và xúc tiến những mối quan hệ xã hội. Hiện tượng trầm cảm của
học sinh ngày càng có diễn biến phức tạp, thậm chí, có những học sinh vì vượt quá
sức chịu đựng của bản thân đã dẫn tới tự tử hay nhiều hệ lụy đáng tiếc khác.
Nguyên nhân của thực trạng này rất nhiều nhưng một trong những nguyên nhân đó
là do những áp lực và tổn thương về mặt tâm lý cho các em. Đó cũng là do áp lực
học tập, mối quan hệ không tốt giữa thầy cô và bạn cùng lớp…. Ngoài ra thì đó
cũng do nguyên nhân xã hội hay tâm sinh lý của trẻ phát triển không bình thường.
4.4. Vấn đề nóng hiện nay: Vấn đề phòng chống tệ nạn xã hội trong học đường
Hiện nay, tệ nạn học đường xuất hiện ngày càng nhiều và phổ biến, đem đến
nhiều ảnh hưởng đến học sinh, gia đình và xã hội nói chung. Chính vì thế, những
chuyên gia giáo dục cho rằng, ngành giáo dục cần tăng cường công tác giáo dục
toàn diện cũng như quản lý học sinh, đảm bảo an ninh trật tự trong trường học và
phòng chống tệ nạn xã hội.
5. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
5.1. Về phía giáo viên.
– Trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên rất khó khăn trong
việc phân loại đối tượng học sinh vì học sinh trong lớp tham gia rất nhiều khối thi.
– Trong quá trình làm chủ nhiệm lớp, giáo viên chưa quan tâm được nhiều đến
hoàn cảnh gia đình của từng em, các em ở nhiều huyện khác nhau và rất xa, điều
kiện kinh tế còn rất khó khăn nhiều em trong hộ nghèo và cận nghèo của các huyện
miền núi, các em chủ yếu sống ở vùng 30A, hoặc vùng 135.

14


– Việc nắm bắt tâm lý của các em, tâm tư tình cảm của các em đôi khi còn chậm,
việc giải quyết vấn đề đôi khi còn theo tình cảm cá nhân.
5.2. Về phía học sinh.
– Một số học sinh chưa xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm học, hay

vi phạm nội quy, quy định của nhà trường, nhất là trong việc thực hiện nội quy nội
vụ trong KTX, việc thực hiện nội quy học đường .
– Chưa nắm được phương pháp học tập và mất căn bản kiến thức ở lớp dưới.
– Do các em ăn ở, học tập xa gia đình nên nhiều cha mẹ chưa quan tâm đúng mức
đến việc học của các em, còn khoán trắng cho nhà trường. Bên cạnh đó các trò chơi
vô bổ như: điện tử, lén sử dụng điện thoại di động, đã trực tiếp tác động làm ảnh
hưởng không ít đến việc học tập và rèn luyện của các em.
– Một số em lại sa vào chuyện tình cảm của tuổi học trò làm ảnh hưởng không nhỏ
đến việc học tập rèn luyện của bản thân.
– Chất lượng học sinh trong lớp không đồng đều.
6. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Mỗi GVCN lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn đề ra các biện
pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học
sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy, ngay
từ ngày đầu nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác điều tra thông qua phiếu sau đây
và yêu cầu các em điền đầy đủ các thông tin trong phiếu:
GIỚI THIỆU LÝ LỊCH BẢN THÂN
1. Họ và tên học sinh:
2. Quê quán:
3. Hoàn cảnh gia đình : - Họ và tên bố, mẹ:
- Anh chị em ruột:
15

- Nghề nghiệp:
- Hình thức liên lạc với gia đình:


4. Năng khiếu, sở thích:
5. Môn học yêu thích:
6. Nguyện vọng theo khối thi:

- Qua phiếu điều tra này, tôi cơ bản nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết
để ghi vào Sổ CN. Và quan trọng hơn cả là tôi đã hiểu một phần về học sinh của
mình, điều đó rất có lợi cho tôi trong công tác giảng dạy và giáo dục . Sau khi
điều tra phân loại từng đối tượng học sinh đầu năm. Tôi đã trực tiếp trao đổi với
phụ huynh đồng thời nhận được những thông tin phản hồi tích cực từ phía phụ
huynh, từ đó kịp thời có những kế hoạch cụ thể để tập trung cho từng học sinh.
* Đối với vấn nạn bạo lực học đường hiện nay: Để có thể khắc phục bạo lực học
đường hiện nay, cần có những giải pháp thiết thực và hợp lý và thực hiện một
cách nghiêm ngặt.
Về phía học sinh, sinh viên, cần có ý thức rèn luyện và tìm hiểu, nâng cao ý
thức về hành động cũng như hậu quả của những hành động bạo lực đó. Trong lớp,
cần tổ chức những nhóm bạn cùng tiến để nâng cao nhận thức và tăng cường sự
trao đổi, tự khắc phục lẫn nhau trong học tập và rèn luyện. Đối với một số học sinh
cá biệt, cần có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường để uốn nắn, điều hướng các
em vào phong trào của lớp, tránh sự phân biệt đối xử.
Theo những tin tức tư vấn học đường, cũng cần nhìn nhận cách giáo dục trẻ trong
gia đình. Thực tế, có rất nhiều gia đình chỉ chú trọng đến kết quả học tập của con
mà không chú ý đến việc các em nghĩ gì hay cách xử sự của con với bạn bè. Vì thế,
thay vì chu cấp cho con nhiều về mặt vật chất, gia đình, và đặc biệt là cha mẹ cần là
những người bạn đồng hành của con cái. Tránh tạo vỏ bọc cứng nhắc vì sẽ tạo tâm
lý ý lại, dựa dẫm và hưởng thụ.
* Đối với học sinh học yếu: GVCN phải nắm bắt được và trao đổi với GVBM để
có biện pháp giúp đỡ các em, đồng thời sắp xếp chỗ ngồi cho một số bạn học tốt
16


môn học mà các em còn yếu ngồi cạnh để có thể giúp đỡ khi các em có vướng mắc.
Phát động phong trào thi đua “ Đôi bạn cùng tiến”, phân công các bạn trong ban
cán sự lớp chữa bài cho lớp trong các buổi sinh hoạt 15 phút hoặc trong các buổi tự
học buổi chiều hoặc tối, đồng thời nhờ các thầy cô trong CĐ cán bộ giáo viên tham

gia trực tự học giúp đỡ tháo gỡ những vướng mắc của các em, tạo cho các em một
môi trường học tập tốt, các bạn trong lớp luôn yêu thương, giúp đỡ biết sẻ chia với
nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống. Bên cạnh đó, tôi thường xuyên kiểm
tra và theo dõi việc học tập ,rèn luyện của các em.
* Đối với học sinh có năng khiếu: Tôi có những trao đổi cần thiết với các
GVBM tìm biện pháp tối ưu để các em bộc lộ đúng sở trường của mình, phát huy
thế mạnh của mình để tìm được trường ĐH phù hợp, các em thực hiện được ước
mơ và sống với đam mê của mình, phát huy hết tiềm năng và nhất là để các em
không còn day dứt, hối hận vì đã chọn không đúng ngành nghề và không đúng sở
trường.
* Đối với học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn: Luôn quan tâm,
hỏi thăm các em kịp thời động viên, để các em cố gắng học tập, rèn luyện tốt như
phát động phong trào “Lá lành đùm lá rách” , luôn đồng hành cùng các phong trào
“ Mái ấm công đoàn”, trao thưởng “Học sinh nghèo vượt khó” của Hội khuyến học
nhà trường được tổ chức hàng năm. Trao đổi với phụ huynh để bàn bạc và tìm giải
pháp khắc phục khó khăn tạo điều kiện cho con em học tập thật tốt.
* Đối với những em có tâm lý đặc biệt: Học sinh được tư vấn tâm lý trực tiếp
qua các buổi sinh hoạt hoặc trong các buổi tối vào chơi với các em, hoặc qua email,
Facebook về các biểu hiện bệnh lý như: trầm cảm, tự kỷ, gặp các rắc rối trong quan
hệ với bạn bè, với thầy cô,…trong công tác hướng nghiệp. Từ thực tế, tôi đã tham
khảo ý kiến của chuyên gia tâm lý học đường để thực hiện các hoạt động giáo dục
tâm lý mang tính chuyên sâu hơn, giúp học sinh phát triển toàn diện. Trong lớp một
17


số học sinh đã chia sẻ về các vấn đề tình yêu, tình bạn, áp lực học tập, thi cử, mối
quan hệ bất ổn với người lớn. Từ các buổi nói chuyện cùng các em, tôi đã phát hiện
nhiều biểu hiện tâm lý bất thường của HS, từ đó đưa được những giải pháp giải
quyết kịp thời giúp các em vượt qua khó khăn.
Giải pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề này là sức khỏe tâm thần tốt sẽ giúp học

sinh quản lý tốt cảm xúc, tạo kết quả học tập tốt và thiết lập các mối quan hệ xã hội
tốt. Do đó, điều gì cản trở kết quả học tập và phát triển của học sinh thì cần sớm có
giải pháp. Cụ thể là giải pháp cho con người, chính sách, cơ chế…Nhà trường và
GVCN cần phải ý thức sâu sắc vai trò quan trọng của vấn đề này, có cơ chế huy
động xã hội và phụ huynh cùng tham gia ủng hộ đưa các hoạt động tham vấn tâm lý
học đường. Mỗi thầy cô giáo, cán bộ Đoàn trong trường học cần tìm hiểu về tâm lý
lứa tuổi học sinh, vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm sẵn có để hỗ trợ tâm lý
cho học sinh khi cần thiết.
Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt cuối tuần tôi luôn phải thay đổi hình thức
sinh hoạt, tổ chức lồng ghép cho các em các tiết sinh hoạt ngoại khoá về giáo dục
kỹ năng sống, phổ biến pháp luật cho các em nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng
tự phòng vệ trong “ Tình bạn-Tình yêu” ,“ Sức khỏe sinh sản”, “ Các hành vi xâm
hại tình dục ”, giáo dục về tinh thần cảnh giác khi đi trên xe có người lạ nhờ mang
hộ, cầm hộ túi đồ. Để phát huy tính tích cực học tập và rèn luyện của HS, các em
đề xuất cách khắc phục những tồn tại của lớp. Qua đó học sinh có điều kiện học mà
vui, vui mà học giảm bớt đi sự căng thẳng và quan trọng nhất là tôn trọng sự bình
đẳng trong lớp.
* Đối với học sinh cá biệt trong lớp: Trong một tập thể lớp, bên cạnh những
học sinh ngoan hiền, chăm chỉ thì cũng có vài em nghịch ngợm. Các em luôn làm
cho giáo viên phải đau đầu để tìm cách “cảm hóa”. Nhiều phương pháp được áp
dụng nhưng vẫn không hiệu quả mà còn phản tác dụng, nhưng cuối cùng thì sự gần
18


gũi của GVCN đã nhận được sự tương tác tốt của các em cá biệt.Thứ nhất, các em
đang ở độ tuổi TTN, có biểu hiện tâm lý thay đổi ở tuổi mới lớn. Nếu không được
uốn nắn kịp thời các em dễ dàng bị đối tượng xấu lôi kéo, rủ rê, dẫn đến sa vào các
tệ nạn xã hội. Hãy đặt mình vào các em, hiểu được tâm lý của tuổi dậy thì. Đây là
độ tuổi mà tâm sinh lý thay đổi một cách rõ rệt, lứa tuổi này các em thường thích
thể hiện bản thân, chứng tỏ cho người khác thấy mình đã lớn và có thể tự quyết

định các hành động của mình. Cho nên, GVCN cần tìm hiểu kỹ về tình hình học tập
và tính cách của từng em. Bởi vì nếu nắm được tính cách của các em thì mới cảm
hóa được. Vì vậy, cách tốt nhất để giúp các em thay đổi và sự nhẫn nại và sự tận
tâm của GVCN, GVBM, của các bạn trong lớp và của các cô chú Quản lý KTX.
Thứ hai, đừng phân biệt các em bởi cách xưng hô như “học sinh cá biệt”, “bất
trị”,”hư hỏng”…bởi đó sẽ làm các em tổn thương và phản kháng mạnh hơn, càng
chống đối và nổi loạn hơn vì biết chẳng có ai hiểu mình. Kéo các em vào tham gia
các hoạt động phong trào của lớp, giao trách nhiệm, gần gũi tạo mối quan hệ thân
thiết, lắng nghe và đồng hành cùng các em. Khi cảm thấy được sự quan tâm, tôn
trọng thì sẽ có sự thay đổi.
Thứ ba, hãy dùng chính tình yêu thương để thay đổi một con người. Sự yêu thương
chân thành của thầy cô đã chạm được tới các em.
Bên cạnh đó có một hiện tượng nữa luôn làm cho GVCN đau đầu nhất đó là
việc các em lấy cắp đồ của nhau từ những vật dụng nhỏ như đèn sạc, quần áo, đồ
dùng thiết yếu đến máy tính, tiền bạc, lớn hơn nữa là điện thoại di động…[3].
Nguyên nhân thứ nhất, đó là do xuất phát từ lòng tham, muốn sở hữu tài sản
của người khác không phải của mình và do nhận thức, hiểu biết pháp luật còn hạn

19


chế nên các em đã không đánh giá được mức độ nguy hiểm của hành vi. Các em rất
dễ bị lôi kéo, chưa có đủ bản lĩnh để tránh xa những cám dỗ đời thường.
Nguyên nhân thứ hai, do ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ
tài sản của người khác trong học sinh còn chưa cao công tác bảo vệ tài sản còn
nhiều hạn chế, mất cảnh giác.
Hành vi đó của các em gây mất an ninh trong nhà trường, gây mất đoàn kết
trong nội bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập tu dưỡng của các em, làm
các em mất niềm tin vào những điều tốt đẹp nhất mà đáng ra các em được hưởng.
Do vậy, việc tuyên truyền giáo dục tư tưởng, phẩm chất, lối sống lành mạnh

trong trường PT nói chung và trường THPT- DTNT nói riêng là một nội dung vô
cùng quan trọng mà GVCN đóng vai trò lớn không thể thiếu được. Bên cạnh đó,
GVCN còn phải là người tuyên truyền pháp luật để các em hiểu hơn về các hành vi
đó nguy hiểm như thế nào? Độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu?
Mức độ nặng nhẹ như thế nào? Do làm tốt công tác tuyên truyền mà trong những
năm làm CN của tôi đã không xảy ra những sự việc nghiêm trọng làm ảnh hưởng
đến an ninh trật tự trong nhà trường và các em không bị ảnh hưởng đến quá trình
học tập và rèn luyện của các em. Tập thể lớp luôn là tập thể đoàn kết, yêu thương
và đùm bọc lẫn nhau.
7. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục của bản thân và đồng
nghiệp.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ, kết hợp
của BGH nhà trường, tập thể giáo viên, đồng nghiệp, phụ huynh học sinh, bản thân
tôi và đồng nghiệp đã mạnh dạn áp dụng đầy đủ các biện pháp nêu trên tại các lớp
học trên thì chất lượng giáo dục học sinh có sự chuyển biến tích cực. Trước khi áp
dụng đề tài tôi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh 3 lớp 12 năm
học 2017 – 2018 và so sánh với kết quả đạt được trong sau 1 năm học .
20


Chất lượng giáo dục và chất lượng dạy học cụ thể như sau:
     Lớp 12A1 gồm 29 học sinh.
Lớp 12A1 KQ lớp 11
T: 27 (92,6%)
HK

K: 2 (7,4%)
G: 4 (13,8%)
K: 20(70%)


HL

TB: 5 (16,2%)

KQ ĐH

20/29 ĐH

Học kỳ 1

Học kỳ 2

Cả năm

T: 29 (100%)

T: 29(100%)

G: 6 (20,7%)

G: 8 (27,5%)

G: 8(27,5%)

K: 20(70 %)

K: 20 (70 %)

K: 21 (72,5%)


TB: 3 (9,3%)

TB:1 (2,5%)

4/29 DBĐH

5/9 đi XKLĐ

T: 28(96,6%)
K: 1 (3,4%)

(70%)
(13,8%)
(16,7%)
     Lớp 12A2 năm học 2017­2018 gồm 25 học sinh.
Lớp 12A2 KQ lớp 11
T: 22 (88%)
Hạnh kiểm

K: 2 (8%)
TB: 1(4%)
G: 4 (16%)

Học lực

KQ ĐH

K: 19 (76%)
TB: 2(8%)
18/25 ĐH


Học kỳ 1
T: 23(92%)
K: 2(8%)
G: 4(16%)
K: 21 (84%)
TB: 0
4/25 DBĐH

Học kỳ 2

Cả năm

T: 25(100%)

T: 25 (100%)

G: 6 (24%)

G: 5 (20%)

K: 19 (76%)

K: 20 (80%)

3/25 XKLĐ

(72%)
(16%)
(12%)

      Lớp 12B năm học 2017­2018  gồm 30 học sinh.
Lớp 12B KQ lớp 11
HK
T: 27 (90%)
K: 2 (6,7%)

Học kỳ 1
Học kỳ 2
T: 28 (93,3%) T: 30(100%)
K: 2 (6,7%)
21

Cả năm
T: 30 (100%)


TB: 1(3,3%)
G: 2 (6,7%)
K: 22(73,3%)

HL

TB: 6 (20%)

KQ ĐH

18/30 ĐH

G: 4 (13,3%)
K: 23 (77,7%)

TB: 3 (10%)
6/30 DBĐH

G: 5 (16,7%) G: 5 (16,7%)
K: 25 (83,3%) K: 25 (83,3%)
6/30 đi làm

(60%)
(20%)
(20%)
- Đặc biệt trong lớp 12B năm học 2017-2018 là tập thể lớp có nhiều học sinh cá
tính mạnh, cá biệt của lớp, của trường các em luôn tự làm theo ý mình, không quan
tâm đến sự nhắc nhở của thầy cô giáo và các cô chú cán bộ QL Ký túc xá, nhưng
bằng tất cả sự nỗ lực, tấm lòng yêu trò và nhiệt huyết với nghề, chúng tôi đã phối
hợp chặt chẽ mối quan hệ mật thiết giữa các bộ phận trong nhà trường, giữa nhà
trường, gia đình và địa phương nơi các em sinh sống để công tác giáo dục đạt hiệu
quả cao hơn. Kết quả rèn luyện của các em tiến bộ rõ rệt trong học kỳ 2 và trong cả
năm học đều đạt hạnh kiểm loại tốt.
– Mặc dù kết quả đạt được còn khiêm tốn nhưng đây là bước chuyển biến tích cực
đối với học sinh trường THPT-DTNT . Điều này chứng tỏ đề tài mà tôi đang thực
hiện đã góp phần từng bước hoàn thiện hơn về công tác chủ nhiệm lớp nhằm giáo
dục toàn diện cho học sinh THPT- DTNT.
SKKN của tôi không có gì là lớn lao, những biện pháp tôi đã làm cũng rất đỗi
bình thường. Nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này,
tôi thấy kết quả giáo dục toàn diện học sinh đạt kết quả tốt. Điều đó làm tôi rất vui
mừng và vơi đi những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng gắn
bó và thân thiện .
Trong các năm học qua, lớp tôi vẫn luôn duy trì sĩ số 100%, không có học sinh nào
quá cá biệt để phải giải quyết cho các em về quê, đa số các em đều đạt được
22



nguyện vọng 1 khi xét tuyển ĐH, CĐ mà các em dự định đăng ký vào với tỉ lệ phần
trăm cao. Kết quả giáo dục 100% học sinh đạt HK tốt. Tập thể lớp đạt TTXS đứng
thứ 2/18 chi đoàn. Ngoài ra, trong lớp có 4 em có thành tích xuất sắc được tham gia
lớp cảm tình Đảng do Đoàn khối các cơ quan tỉnh tổ chức. Một số em luôn dẫn đầu
trông các hoạt động VH-VN-TDTT của trường, là hạt nhân của các CLB như :
CLB võ thuật, CLB Guitar, CLB khiêu vũ, nhảy Dân vũ, trong Đội văn nghệ nhà
trường. 100% học sinh lớp đều tích cực tham gia các buổi sinh hoạt tập thể.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Trong quá trình công tác, tôi không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, chịu
khó nghiên cứu, tìm tòi học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, bản thân đã nhận thấy điều
đó là tất cả mọi vấn đề đều có thể giải quyết một cách tốt đẹp. Điều quan trọng là
có lòng đam mê với nghề, yêu học trò, tình đồng nghiệp, đồng chí, có tình yêu quê
hương đất nước.
Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề trong sáng kiến kinh nghiệm:
Đã được thực hiện thành công trong các lớp chủ nhiệm.
Một số biện pháp trên hoặc một số nội dung trong các biện pháp trên cũng đã
được tôi thực hiện và đều mang lại hiệu quả. Điều quan trọng là các biện pháp có
mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ tích cực cho nhau trong quá trình thực hiện
công tác chủ nhiệm lớp. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả thực sự cao, khi thực
hiện cần áp dụng đầy đủ, triệt để các biện pháp trên.
2. Kiến nghị.
Đề tài “ Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT- DTNT ” đã được áp dụng
và thực sự mang lại hiệu quả trong công tác CN lớp tại một số lớp ở trường tôi.
23



Ngoài những biện pháp trong đề tài này, có thể còn có những biện pháp khác,
bản thân người viết chưa nhận thấy và mong rằng các đồng nghiệp đọc sáng kiến
kinh nghiệm này đóng góp ý kiến. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi
đã nghiên cứu, tìm tòi, phát triển và vận dụng, trong công tác chủ nhiệm lớp. Mặc
dù đã có nhiều chuyển biến về kết quả giáo dục toàn diện học sinh khi vận dụng đề
tài nhưng không thể trách khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong sự góp ý của
quý thầy cô để đề tài đạt được hiệu quả cao hơn bổ sung cho đề tài được hoàn thiện
hơn, để bản thân người viết có thêm điều kiện để có thể tiếp tục mở rộng, nghiên
cứu về đề tài trong thời gian tới.
Thanh Hóa, ngày 01 tháng 5 năm 2019
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị:

Người thực hiện đề tài:

Trịnh Trúc Ly

24



×