Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN phạm thị hải yến TH đức chính 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.55 KB, 28 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến“Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu
cho học sinh lớp 4”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Luyện từ và câu.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Hải Yến

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 30/07/1975
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo Viên Trường Tiểu học Đức Chính
Điện thoại: 036 3948 728
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : Trường Tiểu học Đức Chính
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu
Lớp 4 - Trường Tiểu học Đức Chính- huyện Cẩm Giàng- tỉnh Hải Dương
7 . Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học.
- Giáo viên phải có lòng yêu nghề, nhiệt tình, tâm huyết với công tác giảng dạy.
- Học sinh phải có ý thức ham học hỏi, tìm tòi, khám phá kiến thức.
- Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng
cho giáo viên dạy khối lớp 4 giảng dạy từ năm học 2017 -2018 đến nay.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Phạm Thị Hải Yến
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD VÀ ĐT



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1


1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho
các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp
phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4 mới. Cùng tồn
tại với nó là từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp
vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất
máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh,
làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có
hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các
giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay
bản thân tôi.
Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng
như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về
từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình
dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn
đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ
khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết
dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập,
giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về
phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm
tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong
quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh
dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức
dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.

2 . Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến
2


- Ban giám hiệu quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học đặc
biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
- Đa số học sinh có ý thức ham học hỏi, ngoan, biết vâng lời, có ý thức tìm tòi.
Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
- Bản thân là giáo viên nhiều năm liền giảng dạy lớp 4, yêu nghề, nhiệt tình, tâm
huyết với nghề mà mình đã chọn.
2.2.Thời gian áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng cho giáo viên dạy khối lớp 4 giảng dạy
từ năm học 2017 -2018 đến nay.
2.3.Đối tượng:
- Học sinh lớp 4.
- Dạng: Các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
3.Nội dung sáng kiến :
Dựa trên thực trạng dạy và học môn Luyện từ và câu ở lớp 4 nói chung, dạy học
sinh làm thành thạo các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh nói riêng, tôi muốn
đưa ra một số ý kiến đổi mới để giúp các em nắm chắc cách cách làm các dạng bài
tập một cách sâu sắc, tránh bị nhầm lẫn, giúp các em nắm vững bài học và yêu thích
môn Luyện từ và câu hơn. Từ đó các em hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo
sử dụng từ ngữ, nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu
của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình.
4.Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Tôi khẳng định rằng việc tôi áp dụng những biện pháp dạy học nêu trên vào
giảng dạy đã mang lại những kết quả đáng mừng cho giáo viên và học sinh lớp tôi
chủ nhiệm. Tôi luôn hi vọng với giải pháp nhỏ này không những được áp dụng ở lớp
tôi mà còn được nhiều anh, chị đồng nghiệp tham khảo. Tôi rất mong nhận được

những lời góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để giải pháp ngày càng
được hoàn thiện hơn .
3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Học sinh tiểu học là thế hệ măng non của đất nước, các em "Học vì ngày mai
lập nghiệp". Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những
người công dân có ích cho xã hội. Vì vậy việc đào tạo thế hệ trẻ trở thành những
người năng động sáng tạo độc lập tiếp thu tri thức để trở thành một công dân thực thụ
là một vấn đề quan tâm hàng đầu của nền giáo dục nước ta. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này nhà trường Tiểu học phải bước đầu cung cấp cho học sinh những tri thức ban đầu
để hình thành và phát triển các năng lực nhận thức và trang bị các phương pháp kĩ
năng về hoạt động nhận thức, bồi dưỡng và phát triển tình cảm thói quen, đức tính tốt
đẹp của con người thông qua việc dạy các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói
riêng.
Môn Tiếng Việt trong chương trình bậc Tiểu học giúp học sinh biết đọc thông
viết thạo, biết sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác và có kĩ năng giao tiếp trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày. Những kiến thức của môn Tiếng Việt là tiền đề là cơ sở cho
học sinh tiếp cận với các môn học khác. Việc dạy và học môn Tiếng Việt trong nhà
trường luôn được chú trọng ngay từ lớp đầu cấp. Đặc biệt trong bộ môn Tiếng Việt
phân môn Luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng là chìa khoá mở ra kho tàng
văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người. Hơn nữa phân môn Luyện
từ và câu còn có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và rèn
luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói-viết), kĩ năng đọc cho học sinh.Cụ thể là:
- Mở rộng, hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản
về từ và câu.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng và nói thành câu, có ý thức sử

dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.Nhận thức được tầm quan trọng đó của phân
môn Lyuện từ và câu, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Phương pháp tổ chức dạy
các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.
4


2. Cơ sở lý luận của vấn đề
2. 1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
Phân môn Luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí quan trọng trong chương
trình Tiếng Việt lớp 4. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được
làm quen với lý thuyết của từ và câu. Sau đó chương trình được mở rộng thêm và
nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng
như trong lao động, học tập và giao tiếp.
Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ là đơn vị trung tâm của
ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng không có một
vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp giao tiếp. Việc
dạy từ và câu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập phát triển
toàn diện. Khả năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều
khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy logíc và các năng lực trí tuệ như trừu tượng
hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợp...và các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận,
cần cù. Ngoài ra phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn cho học sinh kĩ
năng nói, đọc, viết.
Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác trong
tất cả các cấp học sau cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc
sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó sử dụng Tiếng Việt văn hoá
một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học, giao tiếp và lao động.
2.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
Dạy phân môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói
riêng có nhiệm vụ cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và cần thiết
về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu...nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các em.

Dạy Luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái
niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ thể là Luyện từ
và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và câu.
5


Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết dùng từ,
câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra những từ
và câu không có văn hoá để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học còn nắm được văn hoá
chuẩn của lời nói.
Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy logic
cao và khả năng thẩm mĩ.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát triển
vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ(chính xác hoá vốn từ), quản lí
phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực
hoá vốn từ.
2. 3. Tác dụng của phân môn luyện từ và câu .
Xuất phát từ nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu đã được trình bày ở trên,
giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ và tiếng, các kiểu câu...trong đó biết dùng từ đặt
câu, biết mở rộng vốn từ và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu phù hợp, góp phần bổ
sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học sinh( Thông qua
các kĩ năng các em dùng từ để đặt câu).
Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được cấu tạo từ và mở rộng vốn từ,
giải nghĩa của từ, nắm được các kiểu câu, các dấu câu ( dấu chấm hỏi, dấu chấm than,
dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn), biết cách sử dụng từ và câu phù hợp
với ngữ cảnh và lời nói.
Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được
xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng
thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ
hơn, đạt kết quả cao hơn. Như vậy phân môn Luyện từ và câu có tác dụng to lớn trong

quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa.
6


Môn Luyện từ và câu lớp 4 cả năm có 62 tiết và được bố trí dạy 2tiết/ 1tuần.
Nội dung chương trình gồm:
- Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ theo chủ điểm ( Gồm 10 chủ điểm ).

Học kì I

Học kì II

Chủ điểm 1: Thương người như thể

Chủ điểm 1: Người ta là hoa đất - tài năng -

thương thân.

sức khoẻ.

Chủ điểm 2: Trung thực - Tự trọng

Chủ điểm 2:Vẻ đẹp muôn màu - cái đẹp.

Chủ điểm 3: Trên đôi cánh ước mơ

Chủ điểm 3: Những người quả cảm-Dũng


thực hiện ước mơ.

cảm.

Chủ điểm 4: Có chí thì nên - nghị lực - Chủ điểm 4: Khám phá thế giới - Du lịch ý chí.

Thám hiểm.

Chủ điểm 5: Tiếng sáo diều - Đồ chơi - Chủ điểm 5: Tình yêu cuộc sống-Lạc quan
Trò chơi

yêu đời.

- Cung cấp kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng và từ:
+ Cấu tạo của tiếng.
+ Cấu tạo của từ: Từ đơn và từ phức, các loại từ phức.
- Từ loại: Cung cấp kiến thức sơ giản về Danh từ, Động từ, Tính từ.
- Câu: Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về cấu tạo, công dụng và
cách sử dụng các kiểu câu như câu hỏi, câu kể (bao gồm: Ai làm gì?; Ai thế nào?; Ai
là gì?), câu khiến, câu cảm, thêm trạng ngữ cho câu.
- Ôn luyện kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng một số dấu câu: Dấu
hai chấm (: ), dấu ngoặc kép(" "), dấu chấm hỏi(?), Dấu ghạch ngang(-).
3.2.Đối với giáo viên.
- Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó nên một số giáo viên còn
lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận
dụng vào việc làm các bài tập .
7


- Một số giáo viên chưa chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác

kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh còn lệ thuộc vào đáp án, gợi ý
dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
- Hình thức tổ chức dạy học của một số giáo viên còn đơn điệu, hầu như ít sáng
tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Một số giáo viên còn chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ
cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
3.3. Đối với học sinh.
- Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn
Luyện từ và câu nên ít có hứng thú học tập, chưa dành nhiều thời gian để học môn
này.
- Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó việc nhận diện
phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn .
- Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót,
làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
- Học sinh thường nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém
thiếu chắc chắn.
* Chính vì một số nguyên nhân trên, sau khi học bài: "Từ ghép, từ láy", SGKTV4 Trang 38) tôi đã tiến hành khảo sát học sinh hai lớp 4 : lớp 4D (đối chứng) và lớp 4C
(thực nghiệm) để làm cơ sở kiểm chứng thực nghiệm sau này.
Đề bài : Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
Dáng tre mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai,
vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Kết quả khảo sát như sau:

Lớp

Tổng

Điểm 9- 10

Điểm 7- 8


Điểm 5 - 6

số HS

SL

SL

SL

TL%

TL%

TL%

Điểm dưới 5
SL

TL%
8


4C

27

2


7,4

7

26

13

48

5

18,6

4D

27

3

11

8

29,6

12

44,4


4

15

Từ kết quả trên tôi thấy chất lượng học sinh hai lớp là tương đương bởi tỉ lệ học
sinh đạt điểm 9 -10, điểm 7 - 8, điểm 5- 6, điểm dưới 5 luôn ngang nhau, tôi quyết
định lựa chọn một số giải pháp để ứng dụng, thực nghiệm mong muốn có kết quả tốt
để cải tiến cách dạy, cách học cho cá nhân và học sinh và có thể là giải pháp cho đồng
nghiệp.
4.Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Để có thể học tốt phân môn luyện từ và câu, ngay từ đầu tiết học giáo viên
phải khơi sự tò mò, hứng thú học tập cho học sinh.
Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng trong tâm lý đời sống mỗi
người. Hứng thú tạo điều kiện cho con người học tập lao động được tốt hơn. Nhà văn
M.Goóc ki nói "Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc".Việc bồi dưỡng hứng
thú học tập môn Tiếng Việt - Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là một việc làm cần
thiết. Để tạo được sự hứng thú học tập cho các em, người giáo viên phải tạo được sự
thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp và khả năng kì
diệu của ngôn từ, để kích thích vốn từ sẵn có của từng em. Nếu giáo viên biết gây
hứng thú học tập cho học sinh sẽ làm cho các em thích thú học tập không còn gây
cảm giác khô khan, chán học .
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài giáo viên có thể sử dụng nhiều phương
pháp, hình thức khác nhau (Phương pháp trò chơi, phương pháp động não, phương
pháp hỏi đáp) phù hợp với từng loại bài.
Ví dụ : Sử dụng phương pháp hỏi đáp khi giới thiệu bài " Mở rộng vốn từ:
Trung thực - Tự trọng" - Tuần 5 SGK trang 48-49.
Giáo viên đặt câu hỏi:

9



- Cậu bé Chôm trong truyện "Những hạt thóc giống"có đức tính gì đáng quý?
(Trung thực). Vậy theo em trung thực là gì? Còn tự trọng, em hiểu thế nào là tự
trọng?(Học sinh nêu ý kiến).
Giáo viên: Để giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được nghĩa và cách dùng
các từ ngữ theo chủ điểm Trung thực - Tự trọng. Hôm nay chúng ta sẽ mở rộng vốn từ
theo chủ điểm này.
Để thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức,
hướng dẫn làm bài tập giáo viên cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi sự hứng
thú đối với học sinh.
Ví dụ : Khi dạy bài Từ ghép - từ láy, Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi "Phân biệt nhanh".
*Mục tiêu : Giúp học sinh có khả năng phân biệt các kiểu từ trong Tiếng Việt.
Rèn tính nhanh nhẹn chính xác.
* Chuẩn bị: Bảng phụ ghi sẵn 5 từ ghép, từ láy; giấy bìa có ghi sẵn kí hiệu L(Từ
láy) - G ( Từ ghép)
Từ

Kí hiệu

1. Lung linh
2.Thông minh
3. Bờ bãi
4.Ruộng đồng
5. Chào mào.
* Thời gian : 3 phút.
* Cách tổ chức : GVchia lớp thành 3 đội, mỗi đội có 5 em tham gia. Giáo
viên cho các em từng đội nhận giấy bìa, trong thời gian 3 phút các em đính kí
hiệu đúng vào kiểu từ ở bảng phụ. Hết thời gian đội nào phân biệt đúng nhất,
nhanh nhất thì đội đó thắng cuộc .

10


Từ

Kí hiệu

1.Lung linh

L

2.Thông minh

G

3. Bờ bãi

G

4.Ruộng đồng

G

5. Chào mào.

G

 Tóm lại vì Luyện từ và câu được đánh giá là môn học hơi khô nên việc gây
hứng thú đối với học sinh là rất quan trọng. Tuy nhiên phải làm sao trong lúc học
mà chơi, không biến giờ học thành giờ chơi.

4.2. Giáo viên cần phân ra các kiểu bài trong phân môn luyện từ và câu.
Với mỗi loại bài đều có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Vì
vậy để tiết học đạt hiệu quả cao giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình,
xác định các loại bài cụ thể trong phân môn để từ đó vận dụng các phương pháp, hình
thức dạy học phù hợp.
4.2.1. Đối với dạng bài mở rộng vốn từ.
Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con người,
từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là một hệ
thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định giữa các từ này
với từ khác có một nét gì chung khiến ta phải nhớ đến từ kia nên từ được tích luỹ
nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dung trong lời nói và khi sử dụng nhờ hệ
thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động lựa chọn từ phù hợp với yêu cầu
giao tiếp.
Với mục đích tích luỹ nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ một
cách dễ dàng, giáo viên nên đưa ra những từ theo một hệ thống và sử dụng linh hoạt
nhiều phương pháp, hình thức dạy học ( Thảo luận nhóm, trò chơi, đàm thoại, hỏi
đáp...) có sự hỗ trợ tích cực của đồ dùng dạy học.
11


Ví dụ : Khi tổ chức làm bài tập2 trang 17, tiết Luyện từ và câu bài " Mở rộng
vốn từ: Nhân hậu. - Đoàn kết" tuần 2.
Giáo viên xác định mục tiêu bài học và chuẩn bị đồ dùng cho tiết dạy như sau:
- Mục tiêu :Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ ngữ theo chủ điểm. Nắm được
cách dùng từ ngữ đó.
- Đồ dùng: Bảng ( Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người" và Từ có tiếng nhân
có nghĩa là "lòng thương người").
Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người"

Từ có tiếng nhân có nghĩa là"lòng thương

người"

+Bộ thẻ từ ghi từ đã cho :
nhân dân
nhân ái

nhân hậu
công nhân

nhân loại

nhân từ

nhân đức

nhân tài

- Cách thực hiện: Giáo viên chia lớp thành các nhóm ( nhóm 4), phát cho các
nhóm bộ thẻ từ, thảo luận và gắn vào hai cột trên bảng cho phù hợp.Các nhóm
trình bày kết quả (dán phiếu) trên bảng hoăc trên tường ở vị trí của nhóm.

Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người"

Từ có tiếng nhân có nghĩa là"lòng thương
người

12


nhân dân


hânhaaaaaaa
nhân hậu
anhaanhaaâ

công nhân

nhân đức

nhân tài
nhân loại

nhân ái
nhân từ

Ngoài việc tổ chức chia nhóm như trên giáo viên có thể tổ chức hoạt động học theo
hình thức trò chơi .
Ví dụ : Khi tổ chức làm bài tập 4 ở tiết Luyện từ và câu tuần 5 trang 148
SGK,Tiếng Việt 4, tập 1, bài "Mở rộng vốn từ: Đồ chơi - Trò chơi".
Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi " Mở rộng từ ngữ".
* Mục tiêu : Giúp học sinh củng cố mở rộng thêm từ, tích luỹ được vốn từ.
Giúp học sinh phát huy tính chủ động và tự tin .
* Chuẩn bị: Chuẩn bị bảng nhóm, bút lông.
* Thời gian : 3 phút
* Cách chơi: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi theo đội, mỗi nhóm học tập
là một đội, giáo viên giao việc cho các đội trong thời gian 3 phút, học sinh tìm tìm
các từ miêu tả tình cảm thái độ của con người khi tham gia các trò chơi và ghi vào
bảng nhóm các từ đúng theo yêu cầu thuộc chủ điểm. Hết thời gian các đội trình bày.
Đội nào tìm được nhiều từ đúng thì đội đó thắng .
Kết quả học sinh sẽ tìm được các từ như: hào hứng, say mê, say sưa, đam mê, mê,

ham thích ...
4.2.2. Dạng bài tập về cấu tạo từ- Tìm từ ghép, từ láy.
Dạy nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối
tượng của hiện thực trong nhận thức được ghi lại bằng tổ hợp âm thanh xác định. Để
làm tăng vốn từ cho học sinh, công việc đầu tiên giáo viên cần phải làm cho học sinh
hiểu nghĩa của từ.
13


Muốn thực hiện được điều này người giáo viên phải hiểu được nghĩa của từ,
phải biết vận dụng các phương pháp cũng như hình thức dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh.
Đối với các dạng bài tập này giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc theo
nhóm. Các nhóm thi làm bài và trình bày kết quả.
Đối với hình thức chia nhóm, giáo viên nên sử dụng theo nhiều cách khác nhau
tạo điều kiện cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác trong lớp. Giáo
viên có thể chia nhóm theo số điểm danh, theo màu sắc, theo tên các loại trái cây các
em yêu thích...Yêu cầu học sinh có cùng số điểm danh, cùng một màu, cùng một loại
trái cây yêu thích sẽ cùng vào một nhóm.
Ví dụ : Bài tập 2 trang 40 SGK tiết Luyện từ và câu " Từ ghép và từ láy".
- Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây:
a) Ngay

b) Thẳng

c) Thật

*Mục tiêu: Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt từ ghép với
từ láy, tìm được các từ ghép và từ láy đơn giản, tập đặt câu với các từ đó.
*Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị phiếu bài tập sau:

PHIẾU BÀI TẬP
Từ ghép

Từ láy

* Cách thực hiện:
14


- Giáo viên phát cho mỗi nhóm một phiếu bài tập như trên.
- Giáo viên yêu cầu học sinh các nhóm thảo luận và tìm từ phù hợp để viết trên
mỗi hình.
- Các nhóm trình bày kết quả. Cả lớp nhận xét.
Theo cách tổ chức này, các em rất thích thú và quan trọng là đảm bảo cho mọi
học sinh đều được làm tất cả các phần của bài tập.
Sau khi học sinh trình bày kết quả. Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn
từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy với từ ghép:
Giáo viên chốt :
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
Khi phân loại từ phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ : Nếu có
quan hệ về mặt ngữ nghĩa là từ ghép. Nếu có quan hệ về mặt ngữ âm là từ láy.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lấy thêm ví dụ:
- Từ ghép : nhà cửa, sách vở...
- Từ láy : chăm chỉ, luộm thuộm.....
4.2.3. Dạng bài về danh từ, động từ, tính từ, .
Với các dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh phân tích đề bài một cách
rõ ràng. Khi cần giáo viên có thể giải thích để các em nắm được yêu cầu của bài tập.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên cần phải nắm chắc trình tự giảng giải,
cần có những dự tính cho những tình huống và những lỗi học sinh mắc phải khi giải

quyết bài tập để sửa chữa kịp thời.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất (được in nghiêng)
trong đoạn văn sau:
`

Hoa cà phê thơm đậm và ngọt nên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa.

Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn hoa cà phê đã phải
thốt lên.
Hoa cà phê thơm lắm em ơi
15


Hoa cùng một điệu với hoa nhài
Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
Như miệng em cười đâu đây thôi...
Đây là dạng bài tập về tính từ dạng bài này hơi trừu tượng với học sinh nên
giáo viên cần cho các em phân tích đề bài trước vì yêu cầu của bài không quen thuộc
với học sinh , khi các em đã hiểu đề bài yêu cầu các em tìm những từ biểu thị mức độ
của đặc điểm tính chất của các từ in nghiêng.Cụ thể: Hoa cà phê thơm như thế nào?
( thơm đậm và ngọt) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm( trả lời cá
nhân theo phương pháp động não).
Thơm - lắm
Trong - ngà
Trắng - ngọc
Như vậy các em sẽ thấy quen với cách làm của bài này. Cuối cùng giáo viên
kiểm tra, đánh giá kết quả nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và muốn
học sinh có mẫu sản phẩm tốt nhất thì giáo viên phải chuẩn bị mẫu lời giải đúng và
dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh. Với những bài làm sai giáo viên không
nhận xét chung mà chỉ rõ bài học sinh sai ở đâu và chuyển từ lời giải sai sang lời giải

đúng.
4.2.4. Dạng bài tập về câu.
Với dạng bài tập này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để
học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt
câu. Vì vậy khi dạy dạng bài tập này giáo viên cần đặt trong hệ thống chương trình để
thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm. Đây chính là nội
dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.Trong mảng kiến thức về câu gồm có:
- Câu kể.
- Câu hỏi .
- Câu khiến .
- Câu cảm (Câu cảm thán)
16


Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh,để thực hiện
giảng dạy giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp,hình thức như:
trực quan, hỏi đáp,thảo luận nhóm, trò chơi , giúp học sinh rút ra kiến thức của bài
học.
Mục đích cuối cùng của việc dạy câu trong nhà trường là sử dụng chúng một
cách có ý thức để thực hiện chính xác tư tưởng, tình cảm trong hình thức nói và viết.
Vì vậy, thực hành câu nhất thiết phải được dạy một cách có định hướng, có kế hoạch
thông qua hệ thống bài tập câu.
Ví dụ : Khi dạy bài "Luyện tập về câu kể Ai là gì?", trang 78 SGK Tiếng Việt 4.
- Giáo viên chuẩn bị bảng (phiếu bài tập) đã ghi sẵn tên các bộ phận của câu, và
bộ thẻ từ:
+ Bộ thẻ ghi các câu kể có trong đoạn văn, được chia thành hai mảnh:
Cả hai ông
Nguyễn Tri Phương

là người Thừa Thiên.

đều không phải là người Hà Nội.

Hoàng Diệu

quê ở Quảng Nam

Ông Năm

là cánh tay kì diệu của các chú công
nhân.

Cần trục

là dân ngụ cư của làng này.

+ Phiếu bài tập:
PHIẾU BÀI TẬP
CN

VN

CN

VN

CN

VN

CN


VN

- Giáo viên chia lớp thành các nhóm 4, phát thẻ từ cho các nhóm. Trong nhóm, học
sinh đặt các mảnh ngửa trên bàn, xáo đều và xếp thành hai dãy. Từng em trong nhóm
17


lần lượt chọn hai mảnh từ hai dãy sao cho hai mảnh này khi đặt lại với nhau sẽ tạo
thành một câu kể Ai là gì? với hai vế câu có nội dung phù hợp và dán các thẻ câu trên
phiếu bài tập.
PHIẾU BÀI TẬP
Nguyễn Tri Phương
CN
Cả hai ông
CN
Ông Năm
CN
Cần trục
CN

là người Thừa Thiên.
VN
đều không phải là người Hà Nội.
VN
là dân ngụ cư của làng này.
VN
là cánh tay kì diệu của các chú công nhân.
VN


Sau khi các nhóm đã hoàn thành, các nhóm trình bày kết quả và nêu tác dụng của
từng câu.
4.2.5. Dạng bài về cách dùng trạng ngữ trong câu .
Trong câu, ngoài hai bộ phận chính câu còn có bộ phận phụ là trạng ngữ. Việc
nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai trò ngữ pháp,
trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu, nhưng thêm phần
trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan của người nói.
Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có quan hệ từ đứng trước. Trạng
ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất,
học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện.
Vì vậy khi dạy dạng bài này giáo viên cần đưa ra những câu hỏi mà học sinh dễ phát
hiện ra kiến thức của bài học.
Ví dụ : Khi tổ chức làm bài tập 1 trang 135, tiết Luyện từ và câu "Thêm trạng
ngữ chỉ thời gian cho câu".
18


- Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau:
Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo cho biết trước. Vừa
mới ngày hôm qua, trời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm
nứt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi. Thế mà qua một đêm mưa rào,
trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa
mùa đông rét mướt.
Đối với dạng bài tập này giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân.
Giáo viên hướng dẫn học sinh khi xác định các thành phần trong câu thì xác định
thành phần chính của câu trước, sau đó xác định đến thành phần phụ. Như thế sẽ
không bị nhầm thành phần phụ với thành phần chính. Đọc cả câu văn lên, xác định
mục đích cần thông báo. Mục đích ấy chính là thành phần chính trong câu.
Chẳng hạn ở câu 3 để xác định bộ phận trạng ngữ, ta cần đặt câu hỏi cho cả
câu. Trong câu này, có từ chỉ thời gian "qua một đêm mưa rào". Vậy thì có thể là trạng

ngữ chỉ thời gian nên ta chọn câu hỏi "khi nào trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu
đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt".Và câu trả lời sẽ là "qua
một đêm mưa rào", đây chính là trạng ngữ của câu.
Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh
nên nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Như vậy mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập
nữa mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu mà giáo viên đưa ra cho học sinh .
4.3. Để việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu được tốt, giáo viên còn quan
tâm đến một số điều sau:
4.3.1. Chú ý bồi dưỡng đối tượng học sinh hoàn thành xuất sắc và hoàn thành
thành tốt, nâng cao chất lượng đại trà.
Trong một lớp học bao giờ cũng có nhiều đối tượng như học sinh hoàn thành
xuất sắc, hoàn thành tốt, hoàn thành và có thể có cả học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức
kĩ năng. Các bài tập trong SGK theo yêu cầu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng thì mọi đối
tượng học sinh đều phải đạt được. Ngoài ra vì là lớp hai buổi có thời gian rèn luyện
19


thêm vào buổi chiều. Nên bản thân tôi thấy cần phải có các bài tập dành cho học sinh
hoàn thành xuất sắc, hoàn thành tốt, từng bước nâng cao chất lượng học sinh hoàn
thành và học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng
Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ: Ý chí - Nghị lực.
Sau tiết học, giáo viên cho các em rèn luyện thêm vào tiết luyện các bài tập như sau.
Bài tập 1: Chọn từ thích hợp trong các từ sau để điền vào ô trống ý chí, quyết
chí, chí hướng, chí thân.
a, Nam là người bạn ..... của tôi.
b, Hai người thanh niên yêu nước ấy cùng theo đuổi một.........
c, ....................của Bác Hồ cũng là.........của toàn thể nhân dân Việt Nam.
d, Không có việc gì khó.
Chỉ sợ lòng không bền

Đào núi và lấp biển
.............ắt làm nên.
Lời giải: a.chí thân; b.chí hướng; c.ý chí; d. Quyết chí.
Bài tập2: Trong các câu tục ngữ dưới đây, câu nào không nói về ý chí, nghị
lực:
a. Có chí thì nên.
b.Thua keo này, bày keo khác.
c. Có bột mới gột nên hồ.
d. Có công mài sắt, có ngày nên kim.
e. Có đi mới đến, có học mới hay.
g. Thắng không kiêu, bại không nản.
Lời giải: c. Có bột mới gột nên hồ.
Như vậy đối với hai bài tập này, mục tiêu của giáo viên đề ra là với bài tâp 1
dành cho học sinh toàn lớp, bài tập 2 dành cho học sinh khá giỏi.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc quan tâm đến các đối tượng học

20


sinh là một việc làm quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giảng dạy, nhất là
những lớp học hai buổi/ngày. Với những bài tập rèn luyện thêm đã phát huy được khả
năng học tập của các em học sinh khá, giỏi, nâng cao chất lượng học sinh đại trà. Bên
cạnh đó còn rèn cho các em tính chăm chỉ, không chịu rừng lại ở những gì mình đã
biết. Về việc ra bài tập để các em rèn luyện, giáo viên cần căn cứ theo tình hình thực
tế ở lớp mình, tham khảo thêm các sách như: Tiếng Việt nâng cao lớp 4, Bồi dưỡng
học sinh giỏi Tiếng Việt 4 của nhà xuất bản Giáo Dục.
4. 3.2. Gắn kiến thức bài học với thực tế.
Kiến thức Tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế, nếu trong khi dạy ,
giáo viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập tốt hơn,
hứng thú hơn. Ngược lại sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần liên hệ thực

tế để giáo dục các em vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. có như vậy, các em
mới cảm thấy kiến thức bài học thật gần gũi, yêu thích môn học hơn.
Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ "Nhân hậu - Đoàn kết",Tuần 3, trang 33 SGK
Tiếng Việt 4, nếu dạy bài vào thời điểm nước ta đang chịu ảnh hưởng bão, lũ, giáo
viên có thể cho học sinh xem băng hình, phóng sự về cảnh bà con đang chống chọi
với thiên tai và cảnh khắp nơi đang tổ chức quyên góp, ủng hộ sẽ giúp học sinh tìm từ
và đặt câu theo từ ngữ dễ hơn. Ngoài ra, từ việc liên hệ thực tế đó, giáo viên sẽ làm
xúc động học sinh, khắc sâu, giáo dục tinh thần tương thân tương ái, sống nhân hậu
đoàn kết, và các em biết vận dụng vào cuộc sống bằng những việc làm cụ thể như:
ủng hộ lũ lụt, ủng hộ bạn nghèo đồ dùng học tập...
5. Kết quả đạt được.
Ở từng giai đoạn, từng tiết học cụ thể tôi thường áp dụng những phương pháp dạy
học phù hợp. Tiết học diễn ra thoải mái, nhẹ nhàng. Sau một thời gian suy nghĩ và áp
dụng những biện pháp trên dạy học trong thực tế tôi nhận thấy các em có rất nhiều
tiến bộ. Từ việc nắm cấu tạo từ không tốt các em đã biết sử dụng từ để đặt câu đúng
cấu trúc ngữ pháp. Tình trạng học sinh xác định không đúng các từ ghép từ láy...đã
giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử dụng các từ ghép, từ láy viết câu có hình ảnh
21


sinh động, giàu cảm xúc. Ngoài ra học sinh còn thể hiện được cái tôi của mình một
cách rõ ràng, bộc bạch được cái tôi của mình một cách trọn vẹn, linh hoạt hơn trong
giao tiếp.
Qua việc đi sâu nghiên cứu và vận dụng trực tiếp vào lớp 4C tôi đã thu được một số
kết quả đáng khích lệ. Để kiểm chứng phương pháp áp dụng trong sáng kiến, kinh
nghiệm của mình. Tôi đã tiến hành khảo sát thực nghiệm nhằm đối chứng chất lượng
giữa hai lớp 4C lớp thực nghiệm) với lớp4D (đối chứng). Dưới đây là bảng tổng hợp
kết quả khảo sát học sinh sau khi áp dụng được đối chiếu so sánh ở lớp 4C - cuối học
kì I năm học 2017 -2018 và lớp 4D (không áp dụng các biện pháp trên).
Đề bài :

Chú chuồn nước mới đẹp làm sao. Màu vàng trên lưng chú lấp lánh, bốn cánh
mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ tinh
a)Tìm từ đơn, từ ghép, từ láy trong đoạn văn trên.
b)Đặt một câu với một từ đơn, từ ghép, từ láy em vừa tìm được.
Tổng

Điểm 9- 10

Điểm 7- 8

Điểm 5 - 6

số HS

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

4C


27

12

44.4

8

29.6

7

26

0

0

4D

27

5

18.5

7

26


12

44,4

3

11.1

Lớp

Điểm dưới 5
TL%

- Nhìn vào bảng thống kê chất lượng theo từng đợt đánh giá tôi thấy các phương
pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 mà tôi sử dụng
đã thực sự mang lại hiệu quả. Rõ ràng, khi đối chiếu kết quả bài làm của hai lớp với
đề như nhau, tôi thấy chất lượng bài của học sinh lớp 4C tốt hơn. Bài của nhiều em
lớp 4C đã tiến bộ rõ rệt. Các em nắm vững cấu tạo từ, xác định đúng từ ghép,từ
láy,đặt câu chính xác có hình ảnh sinh động, giàu cảm xúc…
Điều này chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập Luyện từ
và câu là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của học sinh.
22


Cùng với việc nghiên cứu của mình, tổ chức cho các em được hoạt động có hiệu quả,
học sinh được hướng dẫn thực hành phù hợp với từng bài. Dần dần các em đã hình
thành được thói quen làm việc có kế hoạch, linh hoạt với từng dạng bài.
6. Bài học kinh nghiệm
Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh
nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu

được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện
xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng
cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần:
+ Phải có tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi, trao đổi kiến thức, cập
nhật những vấn đề mới của xã hội.
+ Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh
trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng
dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học
sinh, gây được hứng thú học tập cho các em.
+ Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy.
+ Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh
lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải.
+ Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương
pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được
áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu
cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh
nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc
lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có
hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc
cho học sinh.
+ Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo
nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu…Để học sinh nắm

23


vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm
sau:
+ Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.
+ Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học

sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các
hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt
hiệu quả giờ dạy.
+ Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng
chính tả cho học sinh.
7. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Đây là một số kinh nghiệm về “Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện
từ và câu cho học sinh lớp 4”.Tôi thấy chuyên đề này có thể áp dụng được cho tất cả
các giáo viên ở các trường trong huyện (đặc biệt là giáo viên khối 4), trong tỉnh và
đặc biệt những trường học 2 buổi trên ngày như hiện nay. Nó sẽ phát huy tốt hơn ở
những trường có đủ thiết bị dạy học.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận:
Thực tế cho thấy trong phân môn Luyện từ và câu thì kỹ năng dùng từ để đặt
câu là rất cơ bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập Luyện từ và câu
24


đúng và không sai yêu cầu học sinh phải nắm chắc lý thuyết và các các quy tắc, định
nghĩa và kĩ năng làm bài tập.
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp
4, tôi thấy để đạt được những kết quả trên, người giáo viên cần chú ý:
- Nghiên cứu kĩ bài dạy để soạn bài có chất lượng.
- Thường xuyên đọc các tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau dồi kiến
thức phân môn Luyện từ và câu với các đồng nghiệp.
- Tổ chức học tập bằng nhiều hình thức: học cá nhân, học nhóm, đổi mới
phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng trực quan để tạo hứng thú học tập cho học sinh và nhớ
nhanh nội dung bài học.

- Dùng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tìm được những từ có nghĩa để
đặt câu.
- Cần quán triệt phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh làm chủ
thể của hoạt động nhận thức, biến các em thành người chủ động trong quá trình học
tập, lĩnh hội tri thức. Các em phải hoàn toàn tự mình tham gia mọi hoạt động nhận
thức và giao tiếp.
1. Khuyến nghị:
-Đối với học sinh cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của phân môn
Luyện từ và câu. Các em cần được động viên khuyến khích kịp thời để các em có
nhiều cố gắng vươn lên trong học tập.
- Đối với giáo viên cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, tích luỹ kinh nghiệm từ
đồng nghiệp, tài liệu thông tin sách vở và từ chính học sinh. Ngoài ra giáo viên cần
nắm chắc nội dung chương trình,ý đồ sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa
chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mỗi dạng bài. Và đặc biệt
giáo viên cần phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, gần gũi, động
viên giúp đỡ học sinh.
25


×