Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

ĐÁNH GIÁ tác DỤNG của VIÊN NANG NGỦ NGON DƯỠNG tâm ĐAN HV TRONG điều TRỊ BỆNH NHÂN rối LOẠN GIẤC NGỦ mạn TÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.32 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

HỌC VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

PHẠM QUANG THÀNH

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA
VIÊN NANG NGỦ NGON DƯỠNG TÂM
ĐAN HV TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN
RỐI LOẠN GIẤC NGỦ MẠN TÍNH

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

HỌC VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

PHẠM QUANG THÀNH

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG BÀI THUỐC
“NGỦ NGON DƯỠNG TÂM HV” KẾT HỢP
BÀI TẬP THƯ GIÃN TRONG ĐIỀU TRỊ
MẤT NGỦ KHÔNG THỰC TỔN
Chuyên nghành : Y học cổ truyền


Mã số

: 8 720 115

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Phạm Thúc Hạnh

HÀ NỘI - 2018


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BN

: Bệnh nhân.

NNDTHV : Ngủ ngon dưỡng tâm HV.
ICD

: International Classification Disease (Phân loại bệnh quốc tế).

MNKTT

: Mất ngủ không thực tổn.

MNMT

: Mất ngủ mạn tính.


NREM

: Non-Rapid Eye Movement (Không vận động nhãn cầu nhanh).

PSQI

: The Pittsburgh Sleep Quality Index
(Chỉ báo về chất lượng giấc ngủ).

REM

: Rapid Eye Movement (vận động nhãn cầu nhanh).

RL

: Rối loạn.

RLGN

: Rối loạn giấc ngủ.

TCYTTG

: Tổ chức y tế thế giới = WTO: World Health Organnization.

YHCT

: Y học cổ truyền.

YHHĐ


: Y học hiện đại.


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngủ là một trạng thái hiện tượng sinh lý quan trọng không thể thiếu
của con người, mỗi người dùng gần một phần ba cuộc đời để ngủ, ngủ giúp
bảo đảm các công năng sinh lý của cơ thể hoạt động bình thường và ổn
định. Vì vậy giấc ngủ được xem như một tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
cuộc sống [45].
Người bình thường cần được ngủ khoảng 7-8 giờ mỗi ngày. Tuy nhiên
cũng có người có nhu cầu nhiều hơn và cũng có người cần ít hơn [28].
Mất ngủ là trạng thái không thỏa mãn về số lượng giấc ngủ hoặc chất
lượng giấc ngủ, tồn tại một thời gian dài, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và khả
năng làm việc của người bệnh [19].
Mất ngủ tăng lên theo thời gian vì những căng thẳng trong cuộc sống
hàng ngày càng gia tăng, có khuynh hướng tăng lên trong giới nữ, những
người già. Theo các nghiên cứu dịch tễ học, tỷ lệ mất ngủ trong cộng đồng
dao động từ 20-30% và tỷ lệ này cao hơn ở người cao tuổi [44].
Mất ngủ đã được đề cập từ lâu và ngày càng trở thành một hiện tượng

khá phổ biến trong xã hội hiện đại. Theo Tổ chức y tế thế giới, nghiên cứu ở
15 khu vực khác nhau trên thế giới ước tính khoảng 26,8% người bị mất ngủ
được khám và điều trị tại các trung tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu [7].
Mất ngủ kéo dài sẽ dẫn đến giảm trí nhớ, khó tập trung chú ý, giảm sút
khả năng lao động và hậu quả tất yếu là làm giảm chất lượng sống, nguy cơ
phát sinh một số bệnh hoặc làm nặng thêm bệnh đang mắc. Bên cạnh đó, còn
có sự liên quan giữa mất ngủ và các rối loạn tâm thần, nghiện rượu, lạm dụng
thuốc, chức năng miễn dịch, tim mạch, tử vong [40],[47],[55],[56].
Hiện tại bệnh rối loạn giấc ngủ trong Y học hiện đại được điều trị bằng
nhiều phương pháp như thuốc an thần, tâm lý liệu pháp. Các thuốc điều trị


7

chủ yếu là điều trị triệu chứng, nhưng cũng chưa được hiệu quả toàn diện,
nhược điểm của phương pháp này là khi dùng thì người bệnh dễ ngủ, ngưng
thuốc thì đâu lại vào đấy. Hoàn toàn phải lệ thuộc vào thuốc. Hay có tác dụng
phụ không mong muốn nên sử dụng cần thận trọng.
Mất ngủ trong Y học cổ truyền gọi là chứng “Thất miên”, “Bất mị”,
“Bất đắc miên”... Nguyên nhân sinh ra bệnh mất ngủ khá phức tạp, Trương
Trọng Cảnh nói: “Ngủ là gốc phần âm mà thần làm chủ, thần yên thì ngủ
được. Thần sở dĩ không yên thì một phần là do tà khí nhiễu động, hai là do
tình khí không đủ”. Thiên này đem chứng mất ngủ tóm tắt thành 5 nguyên
nhân là: Tâm tỳ hư, âm suy hỏa vượng, tâm hư đởm khiếp, vị khí không hòa,
suy nhược sau ốm [27].
Khác với thuốc chữa trị bệnh mất ngủ theo Y học hiện đại chủ yếu quan
tâm điều trị triệu chứng, điều trị bệnh mất ngủ theo Y học cổ truyền lại quan
tâm đến căn nguyên gây ra bệnh. Tùy vào thể bệnh nhân, độ tuổi, giới tính và
nguyên nhân gây ra bệnh mà thầy thuốc sẽ gia giảm các vị thuốc trong bài
thuốc chữa trị bệnh mất ngủ là khác nhau. Cho nên việc thừa kế và phát huy

vốn quý của Y học cổ truyền, tìm ra phương pháp điều trị mất ngủ có hiệu quả
cao cho bệnh nhân là một điều cần thiết.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tác dụng của
bài thuốc “Ngủ ngon dưỡng tâm HV” kết hợp bài tập thư giãn trong điều
trị mất ngủ không thực tổn”.
Nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá hiệu quả về lâm sàng của bài thuốc “Ngủ ngon dưỡng tâm
HV” kết hợp bài tập thư giãn trong điều trị mất ngủ không thực tổn.
2. Theo dõi tác dụng không mong muốn.


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về giấc ngủ
1.1.1. Sinh lý giấc ngủ
Ngủ là một trạng thái sinh lý bình thường của cơ thể có tính chất chu kỳ
ngày đêm; trong đó toàn bộ cơ thể được nghỉ ngơi, tạm ngừng các hoạt động
tri giác và ý thức, các cơ bắp giãn mềm, các hoạt động hô hấp tuần hoàn giảm
chậm lại [7]. Giấc ngủ là nhu cầu sinh lý bình thường của con người, hoạt
động của não trong giấc ngủ là một hoạt động hiệu quả nhằm đảm bảo sự
sống và phục hồi sức khoẻ của cơ thể sau một thời gian hoạt động. Ngay từ
khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ ngủ 20 giờ một ngày. Càng lớn lên trẻ ngủ giảm dần,
đến 6 tuổi trẻ vẫn còn ngủ 10-12 giờ mỗi ngày. Người trưởng thành ở lứa tuổi
hoạt động mạnh nhất (18- 45 tuổi), nhu cầu mỗi ngày từ 7-8 giờ. Sau 60 tuổi có
thể 6 giờ là đủ, thậm chí những người già ngủ ít hơn [48],[58]. Nói chung cả
cuộc đời một người khoẻ mạnh dành 1/3 thời gian cho ngủ và 2/3 thời gian thức.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng: Mất ngủ kéo dài có thể làm giảm chất
lượng cuộc sống, mệt mỏi chán ăn, giảm khả năng tập trung, giảm trí nhớ

giảm cân nặng, suy nhược cơ thể, giảm thân nhiệt của cơ thể. Mất ngủ kéo
dài, có thể dẫn tới rối loạn lo âu, trầm cảm, và một số bệnh tật khác [7].
Giấc ngủ tăng lên khi người ta lao động thể lực, tập thể dục, bị ốm, có
thai, bị căng thẳng tâm lý [7].
1.1.2. Các giai đoạn bình thường của giấc ngủ
Ngày nay người ta có thể ghi điện não đồ trong và ngoài giấc ngủ. Bằng
kết quả nghiên cứu điện sinh lý kết hợp với các hiện tượng tâm sinh lý khác,
người ta chia giấc ngủ thành 2 pha: pha nhanh hay còn gọi là pha vận nhanh
nhãn cầu (Rapid Eye Movement: REM) và pha chậm hay còn gọi là pha không
vận nhanh nhãn cầu (Non Rapid Eye Movement: NREM) [48], [51],[58].


9

Trong pha chậm NREM, người ta chia chúng làm 4 giai đoạn (từ giai
đoạn I đến giai đoạn IV). Hầu hết các chức năng sinh lý của con người trong
pha chậm NREM là thấp hơn so với lúc thức.
Giai đoạn 1: là bắt đầu của giấc ngủ. Đây là giai đoạn mà giấc ngủ
của chúng ta tương đối nông (ngủ nông), hay còn gọi là giai đoạn chuyển
tiếp giữa thức và ngủ. Ở giai đoạn này, bộ não phát ra sóng theta có biên độ
cao, tức là sóng não rất chậm. Giai đoạn này chỉ kéo dài trong thời gian rất
ngắn (chừng 5 – 10 phút). Nếu bạn đánh thức ai đó ngay vào thời gian này
thì họ có thể nói rằng họ chưa thực sự ngủ.
Giai đoạn 2: là giai đoạn ngủ nông khi mà các vận động của mắt dừng
lại. Sóng điện não chậm, thỉnh thoảng có những đợt bùng phát nhanh, xen kẽ
giữa các giai đoạn co cơ và giãn cơ.
Giai đoạn 3: ngủ sâu, giảm hình thoi và chỉ xuất hiện sóng chậm (2 - 4
Hz) trên điện não, chiếm từ 20 - 50% sóng delta.
Giai đoạn 4: ngủ rất sâu, chỉ còn sóng chậm trên điện não (2 - 4Hz),
chiếm tới 50% sóng delta. Khi đánh thức người ngủ đột ngột dậy, ở giai đoạn

4, đôi khi họ bị rơi vào tình trạng lú lẫn với khả năng nhận thức bị biến đổi.
Theo dõi trên lâm sàng nhận thấy các cơ bắp giãn mềm, nhịp tim và
nhịp thở chậm đều, thân nhiệt giảm dần, huyết áp đạt mức thấp trong giấc
ngủ,… Điều này chứng tỏ rằng vai trò lớn của giấc ngủ như trạng thái mà
trong đó đã diễn ra một cách tích cực nhất các quá trình hồi phục. Trái lại,
trong pha nhanh REM (chiếm khoảng 25% tổng thời gian ngủ) hoạt động của
não và các chức năng sinh lí giống với lúc thức. Khoảng 90 phút sau khi bắt
đầu ngủ, sẽ có pha nhanh REM đầu tiên. Thời gian này sẽ ngắn hơn ở những
bệnh nhân trầm cảm.
Về lâm sàng nhận thấy trong pha nhanh, nhịp tim và hô hấp nhanh,
huyết áp tăng nhẹ, nhãn cầu vận động nhanh (trong khi vẫn nhắm mắt), ở nam


10

giới thường gặp cương dương vật, nhu cầu tiêu thụ ôxy não tăng cao. Trong
pha nhanh xuất hiện giấc mơ, nếu chúng ta đánh thức người ngủ trong thời
điểm này thì họ cho biết là họ đang mơ. Giấc mơ là hiện tượng tâm sinh lý
bình thường, nếu giấc mơ bị phá vỡ thì giấc ngủ đó sẽ bị rối loạn và chúng ta
sẽ cảm thấy rất mệt.
Dấu hiệu đặc trưng nhất của pha nhanh REM là giấc mơ. Khoảng 6090% số người được đánh thức dậy ở pha nhanh REM thường nói họ có giấc
mơ. Giấc mơ trong pha nhanh REM là mơ hồ và không gắn với thực tế. Trong
đêm pha nhanh REM chiếm tổng cộng từ 90-100 phút. Chu kì của giấc ngủ là
đều đặn. Hầu hết các pha nhanh REM xẩy ra trong một phần ba cuối của đêm,
trong khi hầu hết giai đoạn 4 của pha chậm NREM xẩy ra trong một phần ba
đầu của đêm.
Các giai đoạn của giấc ngủ thay đổi trong đời người. Ở trẻ mới sinh, pha
nhanh REM chiếm 50% tổng thời gian, trẻ 4 tháng đến 1 tuổi, tổng số pha
nhanh REM chỉ còn chiếm 40% thời gian ngủ và xẩy ra sau pha chậm NREM.
Pha chậm NREM (75%) được chia làm 4 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: 5%
+ Giai đoạn 2: 45%
+ Giai đoạn 3: 12 %
+ Giai đoạn 4: 13%
Pha nhanh REM: 25%
Các tỷ lệ này không thay đổi theo lứa tuổi, mặc dù ở người già thời
gian ngủ giảm cả với pha nhanh REM và pha chậm NREM.
Trình tự của các pha ngủ 1,2,3,4,5 và ngủ REM hình thành chu kì ngủ. Mỗi
chu kì ngủ kéo dài chừng 1,5 giờ, do đó trong đêm có 4-5 chu kì ngủ [4],[10],[54].


11

1.1.3. Cơ chế điều hòa giấc ngủ
Liên quan đến giấc ngủ có nhiều giả thuyết, nhưng đến nay vẫn chưa có
sự thống nhất trong việc giải thích cơ chế thức ngủ. Cơ chế giấc mộng cũng
như cơ chế về sự luân phiên có tính chu kỳ của giấc ngủ.
Thuyết Pavlov cho rằng giấc ngủ là trạng thái ức chế lan toả khắp hai
bán cầu và lan xuống cả vùng dưới vỏ.
Trung tâm ngủ tích cực ở gian não [38].
Trung tâm gây ngủ ở trong đồi thị [37],[38].
Giấc ngủ là trạng thái bình thường của hoạt động vỏ não. Còn trạng thái
thức được duy trì bởi sự hoạt động tích cực của cấu tạo lưới thân não. Cấu tạo
lưới vừa có ảnh hưởng ức chế đối với vỏ não, nghĩa là nó đóng vai trò hoạt
động dẫn truyền thần kinh, cũng như duy trì thức tỉnh. Hoạt hóa từ cấu tạo
lưới lên vỏ não là kiểu hoạt hóa không đặc hiệu trong đó có sự tham gia của
vùng dưới đồi, đồi thị [3],[23],[39].
1.1.4. Chức năng của giấc ngủ
Chức năng của giấc ngủ đã được kiểm tra bằng nhiều cách khác nhau.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng ý rằng giấc ngủ giúp phục hồi sức khỏe, giúp

làm cân bằng nội môi và có vai trò quyết định trong điều hòa thân nhiệt và bảo
tồn năng lượng. Giấc ngủ NREM tăng lên khi luyện tập thể dục và khi đói, tình
trạng này có thể liên quan đến nhu cầu thỏa mãn chuyển hóa [15].
Giấc ngủ REM đã được chú ý và tiến hành nghiên cứu từ lâu, và có
nhiều kết quả được đưa ra. Một số vai trò của giấc ngủ REM đáng chú ý là:
- Lọc sạnh các chất chuyển hóa tích tụ trong hệ thần kinh.
- Đảm bảo cho nguồn phát các xung động để kích thích vỏ não.
- Chuyển trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn.
- Bảo đảm cảm xúc diễn ra trong giấc mơ thích ứng được với môi
trường xung quanh khi thức – tỉnh.


12

- Tổ chức lại luồng xung động thần kinh bị rối loạn trong giấc ngủ
NREM, là giai đoạn chuyển tiếp sang thức – tỉnh, chuẩn bị tiếp nhận thông tin
mới [41].
1.1.5. Các rối loạn giấc ngủ (RLGN)
Trước đây thuật ngữ RLGN được hiểu như đồng nghĩa với mất ngủ
nhưng ngày nay RLGN là để chỉ những rối loạn về số lượng, chất lượng, về
tính chu kỳ của giấc ngủ và các rối loạn về nhịp thức ngủ. Nghĩa là những rối
loạn liên quan đến diễn biến của giấc ngủ: trước khi ngủ, trong khi ngủ, khi
tỉnh dậy. Hậu quả của những rối loạn này là làm cho chủ thể có cảm giác
không thỏa mãn về giấc ngủ (mệt mỏi, lo lắng….) và có ảnh hưởng đến hoạt
động lúc thức.
Nhờ những hiểu biết gần đây về nhịp thức ngủ về giấc ngủ nên trong
bảng phân loại bệnh lần thứ 10 (ICD 10) các RLGN được xếp vào mục “F51”
trong đó phân ra các rối loạn khác nhau về giấc ngủ [19].
o


(F51.0) Mất ngủ không thực tổn

o

(F51.1) Ngủ nhiều không thực tổn

o

(F51.2) Rối loạn nhịp thức ngủ không thực tồn

o

(F51.3) Chứng miên hành

o

(F51.4) Hoảng sợ ban đêm

o

(F51.5) Ác mộng

o

(F51.8) Các rối loạn giấc ngủ không thực tổn khác

1.2. Mất ngủ
1.2.1. Định nghĩa
Mất ngủ được định nghĩa là khó đi vào giấc ngủ, khó duy trì giấc ngủ
hoặc thức dậy quá sớm và không quay trở lại được giấc ngủ hoặc ngủ dậy có

cảm giác không ngon giấc và mệt mỏi [20].


13

1.2.2. Phân loại mất ngủ
Có nhiều cách phân loại mất ngủ, cách thông thường nhất là phân thành
2 loại theo thời gian mất ngủ là: mất ngủ cấp tính, mất ngủ mạn tính [20].
• Mất ngủ cấp tính
Gọi là mất ngủ cấp tính khi mất ngủ kéo dài dưới 1 tháng và có thể do
nhiều nguyên nhân gây ra: thay đổi múi giờ, thay đổi nghề nghiệp, mất người
thân, do môi trường quá ồn hoặc sử dụng quá nhiều cà phê.
• Mất ngủ mạn tính
Mất ngủ mạn tính xuất phát từ mất ngủ không thực tổn (Nonorganic
insomnia) hay còn gọi là trạng thái mất ngủ nguyên phát và được định nghĩa:
đó là trạng thái không thỏa mãn về số lượng và chất lượng giấc ngủ, tồn tại
một thời gian dài (ít nhất một tháng). Đặc trưng bằng các đặc điểm sau:
- Khó đi vào giấc ngủ: là than phiền thường gặp nhất, có hầu hết ở các bệnh
nhân.
- Khó duy trì giấc ngủ và thức dậy sớm: giấc ngủ của bệnh nhân bị chia cắt ra,
trong đêm thức giấc nhiều lần và rất khó ngủ lại.
- Mất ngủ có liên quan đến các stress đời sống, gặp nhiều ở phụ nữ, ở người lớn
tuổi, tâm lý bị rối loạn và những người bị bất lợi về kinh tế xã hội. Khi bệnh
nhân có cảm giác căng thẳng, lo âu, buồn phiền hoặc trầm cảm.
- Mất ngủ nhiều lần, dẫn đến mối lo sợ mất ngủ tăng lên và bận tâm về hậu quả
của nó, tạo thành một vòng luẩn quẩn có khuynh hướng kéo dài.
- Hậu quả ban ngày: cảm giác mệt mỏi, thiếu hụt giấc ngủ, ảnh hưởng đến hoạt
động xã hội và nghề nghiệp. Theo sổ tay chẩn đoán thống kê (Diagnostic and
statistical manual of mental disorder- 4th), gọi là mất ngủ nguyên phát [43].
- Gọi là mất ngủ mạn tính khi xuất hiện hơn 3 đêm trong 1 tuần và kéo dài trên

1 tháng.
- Mất ngủ mạn tính kéo dài trên 1 năm sẽ là yếu tố nguy cơ gây trầm cảm


14

nặng [43].
1.2.3. Dịch tễ học mất ngủ
1.2.3.1. Trên thế giới
Mất ngủ ngày càng trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Mất ngủ tăng theo thời gian vì những căng thẳng trong cuộc sống ngày càng
tăng lên, có khuynh hướng tăng cao trong giới nữ, người cao tuổi, người bị rối
loạn tâm lý và những người thiệt thòi về kinh tế xã hội [33].
Năm 1979 theo thông báo của trung tâm “Hội các rối loạn về giấc ngủ”
(Association sleep disorders center) cho biết số người mất ngủ chiếm 35% dân
số. Năm 1990 viện Gallup (Mỹ) công bố số liệu nghiên cứu ở 8 nước cho thấy:
Pháp có 31%, Italia có 35%, Anh có 34%, Đan Mạch có 31%, Bỉ có 27%, Tây
ban nha 23%, Đức có 23%, Mỹ có 27% người bị rối loạn giấc ngủ [53].
Về tuổi, nhiều nghiên cứu cho rằng, tuổi cao là một yếu tố nguy cơ của
mất ngủ. Năm 2001 Ohayon và cộng sự nghiên cứu 13057 đối tượng có độ
tuổi từ 15 trở lên thuộc nhiều quốc gia khác nhau gồm Anh, Đức, Italy nhận
thấy có hơn 1/3 số người từ độ tuổi 65 trở lên có triệu chứng mất ngủ [44].
Năm 1996, nghiên cứu của WHO tại 15 khu vực trên thế giới ước tính
có 26,8% người trên thế giới bị mất ngủ được khám và điều trị tại các trung
tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu, trong đó số tỷ lệ mất ngủ ở phụ nữ cao
khoảng 1,5 lần so với nam giới [32].
Tỷ lệ mất ngủ chung trong cộng đồng theo nhiều nghiên cứu dao động
20 – 30% [55]. Năm 2000, tại Pháp, Lerger và cộng sự nghiên cứu trên 12778
cá nhân thấy 29% bị mất ngủ thường xuyên. Năm 2001, Sutton và cộng sự
báo cáo 24% dân số Canada độ tuổi từ 15 trở lên bị mất ngủ. Năm 1999,

nghiên cứu của Ishigooka và cộng sự trên 6277 bệnh nhân ngoại trú của 11
bệnh viện ở Nhật Bản thấy có 20,3% bị mất ngủ, trong đó có 11,7% bị mất
ngủ từ 1 tháng trở lên [44].
Tỷ lệ các vấn đề về giấc ngủ đang tăng lên nhanh chóng ở các nước phát


15

triển, gần bằng tỷ lệ được thấy ở các nước phát triển. Điều này là do sự gia tăng
về tỉ lệ mắc các vấn đề như trầm cảm và lo âu. Như Tanzania, Kenya và Ghana
có tỷ lệ 8,3% - 28,5%, Indonesia là 3,9% ở nam giới và 4,6% ở nữ giới [24].
1.2.3.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, rối loạn giấc ngủ chiếm tỷ lệ khá cao (50-80%), thường
gặp rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu và các bệnh lý tâm sinh [7].
Theo trung tâm sức khỏe cộng đồng TPHCM cho biết, mỗi ngày nơi
đây có khoảng 200 người đến khám liên quan đến giấc ngủ, bệnh rối loan giấc
ngủ rất phổ biến như các chứng ngáy, tay chân không yên, khó ngủ [18].
Theo Lương Hữu Thông tỷ lệ mất ngủ khác nhau ở 2 giới: nam 34,540%, nữ 60,0% - 65,5% [32].
Năm 2008, Lý Duy Hưng nghiên cứu đặc điểm lâm sàng 51 bệnh nhân
rối loạn giấc ngủ trong các rối loạn liên quan đến stress thấy 96,1% có hiệu
quả giấc ngủ dưới 85%, trong đó 68,7% có hiệu quả giấc ngủ dưới 65% [16].
Năm 2009, Nguyễn Xuân Bích Huyên và cộng sự lần đầu tiên tiến hành
nghiên cứu tỷ lệ hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ trên bệnh nhân
Việt Nam có ngáy và rối loạn giấc ngủ tại khoa Hô hấp, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định qua kết quả đa ký hô hấp hoặc đa ký
giấc ngủ. Tác giả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân mắc hội chứng này trong nhóm
bệnh nhân đến khám vì ngáy và rối loạn giấc ngủ là 88,3% [18].
Năm 2011, Trần Mai Phương Thảo khảo sát tình hình sử dụng thuốc
điều trị mất ngủ tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương trên 50 bệnh nhân, đã chỉ
ra được một số đặc điểm lâm sàng của mất ngủ, đồng thời cho thấy hiệu quả

điều trị của các nhóm thuốc ngủ là khác nhau [31].
Năm 2012, tác giả Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,
đa ký giấc ngủ và đánh giá hiệu quả thở áp lực dương liên tục ở bệnh nhân có
hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ thấy hiệu quả giấc ngủ giảm, đạt


16

61,6% và chứng minh phương pháp này mang lại những kết quả đáng kể [6].
1.2.4. Sinh lý bệnh mất ngủ
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến mất ngủ như:
- Các bệnh lý gây đau như thoái hóa khớp, viêm khớp, loãng xương, đau
do thiểu năng động mạch vành,… các bệnh gây tiểu đêm như u xơ tiền liệt
tuyến, đái tháo đường,…các bệnh gây khó thở như suy tim, viêm phế quản,
hen phế quản,… thường xảy ra vào lúc nửa đêm về sáng làm cho người bệnh
tỉnh giấc giữa chừng sau đó rất khó ngủ lại.
- Các bệnh lý tâm thần kinh: Trầm cảm, hay lo âu, stress (về công tác
xã hội, công việc gia đình, tài chính của bản thân và gia đình,…), sa sút trí
tuệ là những bệnh thường hay gây rối loạn giấc ngủ ở người cao tuổi.- Có một số trường hợp bị mất ngủ mạn tính ngay từ khi còn nhỏ.
- Yếu tố gia đình, cũng như vai trò của nhân cách: chưa có tài liệu nào
khẳng định cụ thể.
- Do thuốc: Một số loại thuốc khi sử dụng ảnh hưởng tới giấc ngủ như
thuốc mê, thuốc lợi tiểu, một số thuốc chống suy nhược, các thuốc loại
steroid, các thuốc loại chẹn beta giao cảm, thuốc giảm đau chứa caffeine,
một số loại thuốc ho, nếu đang sử dụng thuốc an thần hoặc thuốc ngủ mà
dừng đột ngột có thể là nguyên nhân gây mất ngủ trở lại.
- Sử dụng chất kích thích: Rượu, bia, cà phê, thuốc lá,…
- Do rối loạn lịch thức ngủ trong ngày như lịch làm việc thay đổi thất
thường, làm việc theo ca không thường xuyên (53% công nhân ca đêm ngủ
gật ít nhất 1 lần trong tuần), do thay đổi múi giờ chênh lệch như khi đi du

lịch đến các vùng có mức chênh lệch múi giờ từ 6 - 24 giờ. Thói quen của
người ngủ cùng như ngáy,…
- Các yếu tố môi trường: Ánh sáng, tiếng ồn, nhiệt độ, thoáng khí, thay
đổi nơi ngủ,…


17

1.2.5. Lâm sàng
1.2.5.1. Các triệu chứng ban đêm
- Thời lượng giấc ngủ giảm: tất cả các bệnh nhân đều giảm số lượng thời
gian ngủ, chỉ ngủ được 3-4 giờ/24 giờ, thậm chí có bệnh nhân thức trắng đêm.
- Khó đi vào giấc ngủ: Đây là than phiền hay gặp đầu tiên. Bệnh nhân
không thấy có cảm giác buồn ngủ, trằn trọc, căng thẳng lo âu, thường mất từ
hơn 30 phút đến 1 giờ 30 phút mới đi vào giấc ngủ.
- Hay tỉnh giấc vào ban đêm: giấc ngủ của bệnh nhân bị chia cắt ra, giấc
ngủ chập chờn, không ngon giấc, thường tỉnh giấc và khi đã tỉnh giấc thì rất
khó ngủ lại.
- Thức giấc sớm: đa số bệnh nhân phàn nàn là ngủ ít quá, tỉnh dậy sớm. Các
bệnh nhân thường có thói quen nằm lại trên giường để xem có ngủ lại được không,
vì vậy nhiều khi họ rời khỏi giường rất muộn so với lúc họ chưa bị mất ngủ.
1.2.5.2. Các triệu chứng ban ngày
- Trạng thái kém thoải mái, mệt mỏi vào ban ngày: Là hậu quả của trạng
thái thiếu hụt giấc ngủ. Bệnh nhân mô tả thấy suy yếu, thụ động, ít quan tâm
đến công việc, luôn suy nghĩ tập trung vào sức khỏe và giấc ngủ của họ.
- Đau đầu, cảm giác chóng mặt vào buổi sáng.
- Giảm trí nhớ: hay quên, giảm chức năng nhận thức.
- Khó tập trung chú ý, hay quên, giảm hứng thú trong công việc, tiếp xúc
bạn bè, gia đình….
- Trạng thái trầm cảm.

- Lo âu.
- Dễ ức chế cảm xúc, cáu gắt, bực tức.
Sự cảnh tỉnh chủ quan vào ban ngày đặc biệt giảm hơn vào lúc trưa, chiều
12h-16h. Ngủ gà nhiều vào buổi trưa và hoạt động kém vào lúc 20 giờ và lúc đi
ngủ. Như vậy cả ngày sự cảnh tỉnh của họ xấu hơn so với người bình thường.


18

1.2.5.2. Các rối loạn tâm thần kèm theo
Các triệu chứng tâm thần thứ phát sau mất ngủ:
- Khó tập trung chú ý, hay quên.
- Trạng thái trầm cảm tăng nhẹ.
- Lo âu kéo dài
- Dễ ức chế cảm xúc, cáu gắt, bực tức.
1.2.6. Các phương pháp đánh giá rối loạn giấc ngủ trên lâm sàng và cận
lâm sàng
1.2.6.1. Phương pháp đánh giá trên lâm sàng
* Đánh giá chất lượng giấc ngủ: bằng thang Pittsburgh (PSQI) của Daniel
J.Buyse năm 1989, nhằm đánh giá các chỉ số về chất lượng giấc ngủ [46].
Chỉ báo chất lượng giấc ngủ Pittsburgh được chuẩn hóa ở Mỹ năm 1988
và được công bố năm 1989, thang điểm này đang được các nhà lâm sàng nhìn
nhận như một công cụ hữu hiệu để đánh giá giấc ngủ, khắc phục được tính
chất chủ quan trong các khám nghiệm trước đây. Năm 2001, ở Việt Nam
PSQI đã được chuẩn hóa. Các tác giả đã nhận thấy thang đo này có giá trị sử
dụng đáng tin cậy trong lâm sàng để đánh giá mức độ mất ngủ và có thể dùng
nó để theo dõi tiến triển mất ngủ [30]. Đánh giá các thành tố như sau:
Không có rối loạn giấc ngủ: 0 điểm; Rối loạn nhẹ: 1 điểm; Rối loạn vừa:
2 điểm; Rối loạn nặng: 3 điểm.
Tổng điểm được cộng tử 7 thành tố trên.

* Chất lượng giấc ngủ
* Giai đoạn thức ngủ
* Thời lượng giấc ngủ
* Hiệu quả của thói quen đi ngủ
* Các rối loạn trong giấc ngủ
* Các rối loạn trong ngày
* Sự sử dụng thuốc


19

Phân loại mức độ mất ngủ:
* Không có rối loại giấc ngủ: 0-4 điểm
* Rối loạn mức độ nhẹ: 5-10 điểm
* Rối loạn mức độ vừa: 11-18 điểm
* Rối loạn mức độ nặng: ≥ 19 điểm
1.2.6.2. Phương pháp đánh giá trên cận lâm sàng
Test tâm lý: Đánh giá chất lượng giấc ngủ: bằng thang Pittsburgh
(PSQI) của Daniel J.Buyse năm 1989, nhằm đánh giá các chỉ số về chất
lượng giấc ngủ [42].
Năm 2001, ở Việt Nam, PSQI đã được chuẩn hóa. Các tác giả đã nhận
thấy thang đo này có giá trị sử dụng đáng tin cậy trong lâm sàng để đánh giá
mức độ mất ngủ và có thể dùng nó để theo dõi tiến triển mất ngủ.
Điện não đồ: Điện thế pha chậm của giấc ngủ có sự tăng chậm và tới
mức thấp hơn trong các bảng delta và theta.
Trong những năm gần đây, một số tác giả sử dụng điện não đồ như một
phương tiện để chẩn đoán, theo dõi diễn biến và điều trị bệnh tâm căn suy
nhược [4]. Các sóng điện não là những dao động có tần số, biên độ, hình dáng
khác nhau [4],[21]. Để đánh giá một bản điện não đồ, người ta dựa vào một số
tiêu chuẩn hoặc đặc tính như sau:

- Tần số của mỗi sóng (tính bằng Hz)
- Biên độ của sóng (tính bằng μV)
- Hình dáng các sóng.
- Vị trí, điều kiện xuất hiện các sóng.
- Điều kiện làm thay đổi các sóng [25].
Dựa vào các tiêu chuẩn trên người ta xác định được các sóng trên điện
não đồ cơ sở ở người.


20

+ Nhịp alpha (α):
Nhịp alpha được Berger mô tả lần đầu tiên năm 1920, nên còn gọi là
nhịp Berger [4]. Bình thường ở người trưởng thành, nhịp alpha xuất hiện đều
đặn. Biên độ nhịp alpha rất khác nhau giữa các cá thể, thay đổi theo trạng thái
và thời gian trên một cá thể. Biên độ nhịp alpha thường ở khoảng 35-70 μV,
cao nhất ở vùng chẩm. Berger cho rằng sóng alpha có biên độ 15-20 μV, còn
theo Cobb biên độ sóng alpha dao động từ 0 đến 40-60 μV. Đa số nhịp alpha
có biên độ từ 5-20 μV, rất hiếm trên 100μV ở người trưởng thành [25]. Tần số
nhịp alpha khoảng 8-13Hz, thường gặp 9-10Hz. Chỉ số nhịp alpha bình
thường khoảng 70% ở vùng chẩm.
Nhịp alpha ghi ở những điểm đối xứng của hai bán cầu não thường có
tính chất đồng bộ cả hai bên. Nếu tình trạng không đối xứng về biên độ không
vượt quá 25-30% thì vẫn coi là bình thường [4]. Nhịp alpha thường có dạng
hình sin, thành chuỗi sóng hình thoi, xuất hiện rõ và nhiều nhất ở vùng chẩm,
khi nhắm mắt, không suy nghĩ, không vận cơ, không bị kích thích khác của
môi trường tác động.
* Nhịp beta (β)
Berger cũng đã mô tả nhịp beta lần đầu tiên năm 1920. Nhịp beta còn gọi
là nhịp căng thẳng, là nhịp thay đổi nhiều nhất trên điện não đồ [4],[25]. Có

nhiều tác nhân làm thay đổi nhịp beta: no, đói, vận động, căng thẳng tinh
thần… Nhịp beta xuất hiện trên tất cả các vùng của não, nhưng ưu thế ở vùng
trước của não, tức là ở vùng trán, vùng thái dương và thường không đối xứng
ở hai bán cầu não [4]. Tần số nhịp beta khoảng 14-35Hz, hay gặp ở 14-24Hz.
Nhịp beta ghi được ở nữ giới nhiều hơn ở nam giới. biên độ nhịp beta bình
thường khoảng 5-15μV, hay gặp 8-10μV, đôi khi đạt đến 30μV. Chỉ số nhịp
beta trên từng người rất ổn định, chỉ số beta tăng lên biểu thị của tăng trương
lực của vỏ não [4],[25],[26].


21

Hình ảnh điện não đồ trên bệnh nhân tâm căn suy nhược cho thấy giảm
biên độ và chỉ số nhịp alpha, sóng điện não dẹt, chỉ có 30-35% trường hợp có
xuất hiện từng đọt sóng alpha. Có sóng nhanh beta, sóng chậm theta, delta
trên tất cả vùng não [26].
1.2.7. Tiêu chuẩn chẩn đoán mất ngủ không thực tổn
1.2.7.1. Theo tiêu chuẩn của ICD-10 mục F51.0
- Phàn nàn cả về khó đi vào giấc ngủ hay khó duy trì giấc ngủ, hay chất
lượng giấc ngủ kém.
- Rối loạn giấc ngủ đã xảy ra ít nhất là ba lần trong một tuần trong ít nhất
là một tháng.
- Rối loạn giấc ngủ gây nên sự mệt mỏi rõ rệt trên cơ thể hoặc gây khó
khăn trong hoạt động chức năng lúc ban ngày.
- Không có nguyên nhân tổn thương thực thể, như là tổn thương hệ thần
kinh hoặc những bệnh lý khác, rối loạn hành vi, hoặc do dùng thuốc [19].
1.3. Quan niệm của Y học cổ truyền về mất ngủ
Bệnh danh bất mị (thường gọi là thất miên) là một chứng bệnh trong
YHCT có biểu hiện đặc trưng là vào giấc ngủ khó khăn, trường hợp nhẹ thì
bệnh nhân khó vào giấc ngủ, khi đã ngủ lại dễ tỉnh giấc, tỉnh rồi khó ngủ lại,

trường hợp nặng thì mất ngủ cả đêm [5],[9],[27].
Nguyên nhân mất ngủ khá phức tạp, theo Y học cổ truyền, chứng mất
ngủ do huyết hư, hoặc do thận âm suy kém, hoặc do hoả của can đởm bốc
hoặc do vị khí không điều hoà hoặc do sau khi ốm bị suy nhược không ngủ
được. Theo sách Cảnh nhạc toàn thư: “Ngủ là gốc ở phần âm mà thần làm
chủ, thần yên thì ngủ được, thần không yên thì ngủ không được”. Thần sở dĩ
không yên thì một là do tà khí nhiễu động, hai là do tinh khí không đủ, chữ
“tà” nói ở đây chủ yếu là chỉ vào đờm, hoả, ăn uống, chữ “vô tà” là chỉ vào
tức giận, sợ hãi, lo nghĩ, những cái đó đều là nguyên nhân gây thành chứng
không ngủ. Thiên này đem chứng không ngủ tóm tắt thành năm nguyên nhân


22

chính là: Tâm Tỳ hư, Tâm Thận bất giao, Khí của Tâm và Đởm hư, Vị không
điều hoà [8],[34],[35],[36].
Chứng mất ngủ do nhiều nguyên nhân gây ra, nhưng liên quan tới tâm,
tỳ, can, thận, và âm huyết không đủ đều vì dương thịnh, âm suy, âm dương
không giao nhau. Giận dữ lo nghĩ ưu uất, lao động mệt nhọc hại đến các
tạng, tinh huyết hao tổn ở trong ảnh hưởng đến nhau, thường ảnh hưởng đến
mất ngủ kéo dài, cho nên bệnh mất ngủ phần nhiều do hư. Hay gặp các
chứng hư sau:
-

Tâm Tỳ hư: là tên gọi chung chỉ những chứng trạng do Tâm huyết hao tổn,
Tỳ khí bị tổn hại dẫn đến Tâm thần mất nuôi dưỡng, Tỳ khí hư yếu không làm
được chức năng thống huyết, Tâm là nơi chứa Thần, thống nhiếp huyết mạch,
Tỳ là nơi chứa ý sinh ra huyết, phàm chứng mất ngủ là do âm huyết hư kém,
thần, hồn và ý đều bị hư tổn [34]. Trương cảnh nhạc nói: Mệt nhọc nghĩ quá
độ thì tất nhiên làm huyết dịch bi hao tổn, tâm thần không ổn định cho nên

mất ngủ”. Bệnh bất mị - xuất hiện trong chứng Tâm Tỳ hư có đặc điểm là mê
nhiều dễ thức giấc, giấc ngủ không yên, Bệnh phần nhiều do tư lự, mệt nhọc
tổn hại đến Tâm Tỳ, âm huyết ngấm ngầm bị suy hao, thần không nơi ở. Tỳ bị
tổn thương mất khả năng sinh hoá chất tinh vi, huyết hư khó hồi phục, tâm
thần mất sự nuôi dưỡng mà thành mất ngủ
Triệu chứng: do lao động hoặc suy nghĩ quá mức, không ngủ, sắc mặt
không tươi, người mệt, tinh thần uể oải, ăn uống không ngon, hay quên. Mạch
tế sác. Tâm tỳ hư pháp điều trị là bổ ích tâm tỳ [5],[9].

- Tâm thận bất giao: Tâm với thận trong tình huống bình thường, chủ yếu là
có mối quan hệ trên và dưới cùng giao nhau, thuỷ với hoả cùng giúp đỡ
nhau. Nếu do bẩm phú bất túc, hoặc hư lao ốm lâu, hoặc phòng thất quá
đáng v.v. khiến cho Thận thuỷ hư suy ở dưới không thể giúp cho Tâm hoả ở
trên. Tâm hoả vượng ở trên không thể giao với Thận ở dưới, hoặc do mệt


23

nhọc tinh thần quá độ, ngũ chí quá cực đến nỗi Tâm âm bị hao tổn ngấm
ngầm, Tâm dương quá thịnh, Tâm hoả không thể giao với Thận ở dưới, Tâm
hoả không giáng xuống, Thận thuỷ không thăng lên tạo thành tình thế thuỷ
hoả của Tâm Thận không giúp đỡ nhau sẽ hình thành bệnh biến. Biểu hiện
lâm sàng chủ yếu là hư phiền không ngủ, hay mê, ngũ tâm phiền nhiệt,
miệng khô ít tân dịch, lại kiêm cả chứng trạng váng đầu, ù tai, hồi hộp, lưỡi
đỏ, mạch tế sác. Pháp điều trị là tư âm giáng hỏa [9].
- Tâm đởm khí hư: Đởm trọc nội nhiễu làm nhiễu tâm khiếu nên tâm
thần không yên gây mất ngủ hay mê, dễ bị kinh sợ mà gây hồi hộp. Khí hư gây
nên hụt hơi, mệt mỏi, uể oải, tiểu tiện trong, mà số lượng nhiều, chất lưỡi nhợt,
mạch huyền vi. Pháp điều trị là ích khí trấn kinh, an thần định trí [5],[9].
- Can uất hóa hỏa: Cáu giận làm tổn thương can, can uất hóa hỏa, hỏa

thăng bốc lên trên gây loạn tâm thần gây rối loạn giấc ngủ và dễ cáu giận. Can
khí uất kết gây nên dau tức sườn. Can khí phạm vị gây nên không muốn ăn.
Can uất hóa hỏa nên càng càng khắc chế tỳ vị mạnh hơn làm cho vị nhiệt gây
khát nước. hỏa nhiệt nhiễu loạn lên trên gây miệng đắng mắt đỏ ù tai, tiểu tiện
ít màu sẫm, chất luỡi hồng rêu lưỡi vàng. Mạch huyền sác. Pháp điều trị là
thanh can tả hỏa để an thần [5],[9].
Tóm lại nguyên nhân gây mất ngủ do Tâm, Tỳ, Can, Thận, gây ra. Vì
Tâm thống huyết, Tỳ sinh huyết, Can tàng huyết, nếu lo nghĩ buồn rầu quá
mức huyết dịch của ba tạng Tâm, Tỳ, Can đều gây mất ngủ. Thận tàng tinh,
tinh tàng trí, do Thận âm suy yếu hoặc vì sợ hãi tổn thương đến thận, tinh
kém thì tình trí không ổn định đều có thể gây mất ngủ. Khi chữa bệnh ngoài
việc dùng thuốc còn phải chú ý đến nhân tố tình trí người bệnh. Khuyên
người bệnh không để tinh thần kích động hạn chế chất kích thích, luyện khí
công dưỡng sinh, những điều đó là phương pháp hữu hiệu phòng ngừa mất
ngủ [5],[9],[27].


24

1.4. Điều trị mất ngủ
Các phương pháp như điều trị bằng thuốc, can thiệp hành vi và thay đổi
lối sống có thể góp phần điều trị mất ngủ.
1.4.1. Can thiệp không dùng thuốc
Vệ sinh giấc ngủ: là phương pháp giáo dục được thiết kế cho những
người mất ngủ cũng như cho cộng đồng, bao gồm các hướng dẫn để làm
thế nào có được nhịp thức ngủ lành mạnh, cố gắng duy trì đều thời gian
ngủ và thức.
Liệu pháp kiểm soát kích thích: để cải thiện giấc ngủ, người ta thường
thay đổi môi trường phòng ngủ như đặt giường ngủ nơi thoáng mát, yên tĩnh
và làm các động lực thư giãn trước khi ngủ, giữ môi trường thoáng mát, yên

tĩnh trước khi ngủ. Tránh bất kì mọi hoạt động kích thích và tăng độ tỉnh táo
trước khi đi ngủ như xem tivi, đọc các sách có tác dụng hưng phấn. Nếu bệnh
nhân không thể ngủ được sau 20 phút họ nên rời khỏi giường, ra khỏi phòng
ngủ và chỉ quay lại phòng khi cảm thấy đủ mệt để buồn ngủ trở lại, việc này
có thể lặp đi lặp lại cho đến khi bệnh nhân ngủ được.
Liệu pháp hạn chế giấc ngủ, tăng xu hướng ngủ và dễ đi vào giấc ngủ:
để hạn chế thời gian thức tỉnh trên giường và tăng hiệu quả của giấc ngủ, bệnh
nhân không nên đi ngủ quá sớm.
Liệu pháp hành vi - nhận thức: nội dung giáo dục là khuyến khích
bệnh nhân xác định rõ yếu tố nào là yếu tố thuận lợi, khởi phát của mất
ngủ. Từ đó giải quyết các suy nghĩ thích nghi kém hoặc sự tin tưởng không
đúng về mất ngủ.
Rèn luyện thư giãn: bệnh nhân nên thực hiện thư giãn cơ bắp hàng
ngày, tập các bài thư giãn vào buổi tối, không nên làm việc căng thẳng trong
khoảng 60 phút trước khi đi ngủ.
Ngừng hoặc giảm sử dụng rượu cà phê, thuốc lá và các chất khác cản
trở giấc ngủ.


25

Xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu, dưỡng sinh… có tác dụng tốt trong
điều trị mất ngủ.
Mười lời khuyên dành cho bệnh nhân (phụ lục 4).
1.4.2. Điều trị bằng thuốc
Các phương pháp điều trị theo Y học hiện đại
* Sử dụng các loại thuốc có thời gian bán huỷ ngắn, tác dụng nhanh và ít
tác dụng phụ: Cho những người mất ngủ tạm thời, những người khó đi vào
giấc ngủ và đặc biệt cho những người có tuổi để tránh hiện tượng loạng
choạng vào sáng hôm sau. Những loại này tạo ra giấc ngủ nhanh sâu, tạo cảm

giác dễ chịu thoải mái khi ngủ dậy. Nhưng nhược điểm lớn nhất là chúng gây
hiện tượng tăng triệu chứng mất ngủ và đòi hỏi tăng liều ở ngày kế tiếp [49].
* Sử dụng các loại thuốc có thời gian bán huỷ vừa và chậm: Các thuốc
này có ưu điểm tác dụng ổn định và ít làm tăng sự mất ngủ. Nhược điểm của
những loại thuốc này là rất dễ bị lạm dụng và dễ gây nghiện, ở người có tuổi
phải lưu ý sự say thuốc, loạng choạng khi thức dậy và tác dụng phụ kéo dài
khô miệng sau giấc ngủ [38].
* Các thuốc giải lo âu Benzodiazepines, khi sử dụng khởi đầu bằng liều
thấp và chỉ dùng trong thời gian ngắn, không nên sử dụng kéo dài vì sẽ gây lệ
thuộc thuốc.
* Có thể sử dụng các thuốc gây ngủ, thuốc giải lo âu, thuốc chống trầm cảm
trong điều trị mất ngủ, vì mất ngủ liên quan mật thiết với lo âu và trầm cảm.
* Giáo dục phòng bệnh:
- Làm việc có điều độ không thức đêm quá nhiều trong một thời gian lâu
dễ thành thói quen rồi thành bệnh.
- Các biện pháp tâm lý chủ yếu là giáo dục người bệnh chú ý vệ sinh giấc
ngủ tốt.


×