Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

CHẤT LưỢNG CUỘC SỐNG của BỆNH NHÂN SAU điều TRỊ CHẤN THƢƠNG tủy SỐNG và một số yếu tố LIÊN QUAN tại TỈNH sơn LA năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

MAI HỒNG NHUNG

CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
SAU ĐIỀU TRỊ CHẤN THƢƠNG TỦY SỐNG VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI TỈNH SƠN LA NĂM 2018

ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

MAI HỒNG NHUNG

CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
SAU ĐIỀU TRỊ CHẤN THƢƠNG TỦY SỐNG VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI TỈNH SƠN LA NĂM 2018
Chuyên ngành: Quản lý bệnh viện
Mã số: 60.72.07.01


ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đỗ Đào Vũ
2. PGS.TS. Trần Thị Thanh Hương

HÀ NỘI – 2018


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................................. 3
1.1. Định nghĩa tổn thương tủy sống ...........................................................................3
1.2. Tình hình chấn thương tủy sống ..........................................................................3
1.3. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống và các phương pháp
đánh giá.................................................................................................................4
1.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống ................................................................4
1.3.2. Đánh giá chất lượng cuộc sống ..................................................................4
1.3.3. Các phương pháp đánh giá chất lượng cuộc sống trong bệnh chấn thương
tủy sống ..........................................................................................................5
1.3.4. Các bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân chấn thương
tủy sống ..........................................................................................................6
1.5. Các phương pháp và dịch vụ điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng cho bệnh
nhân tổn thương tủy sống .....................................................................................9
1.5.1. Điều trị loét do đè ép ..................................................................................9
1.5.2. Chăm sóc đường hô hấp .............................................................................9
1.5.3. Chăm sóc đường tiết niệu ...........................................................................9
1.5.4. Chăm sóc đường ruột..................................................................................9
1.5.5. Điều trị cơn rối loạn thần kinh giao cảm phản xạ ....................................10
1.5.6. Điều trị đau do nguyên nhân thần kinh ....................................................10

1.5.7. Điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu............................................................. 11
1.5.8. Điều trị co cứng ........................................................................................ 11
1.5.9. Tập mạnh cơ, di chuyển bằng dụng cụ trợ giúp và hoạt động trị liệu ...... 11
1.5.10. Điều trị rối loạn chức năng tình dục ....................................................... 11
1.5.11. Tái hội nhập vào cộng đồng và xã hội .................................................... 11
1.6. Các nghiên cứu liên quan ................................................................................... 11
1.6.1. Một số nghiên cứu về bệnh nhân chấn thương tủy sống trên thế giới .... 11
1.6.2. Một số nghiên cứu về bệnh nhân chấn thương tủy sống ở Việt Nam ......16
1.7. Khung lý thuyết ..................................................................................................19


1.8. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu .....................................................................20
1.8.1. Giới thiệu về tỉnh Sơn La .........................................................................21
1.8.2. Giới thiệu về bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Sơn La ........................21
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................... 23
2.1. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................23
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu ..............................................23
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu ................................................23
2.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................23
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................23
2.2.2. Xác định cỡ mẫu, cách chọn mẫu .............................................................23
2.2.3. Thời gian nghiên cứu ................................................................................24
2.2.4. Địa điểm nghiên cứu.................................................................................24
2.2.5. Phương pháp thu thập thông tin ...............................................................24
2.3. Các tiêu chuẩn đánh giá .....................................................................................28
2.3.1. Chất lượng cuộc sống tốt và không tốt .....................................................28
2.3.2. Chuẩn nghèo, hộ cận nghèo .....................................................................28
2.3.3. Thang điểm phân loại của Hiệp hội Tổn thương tủy sống Mỹ.................29
2.4. Xác định biến số, chỉ số nghiên cứu ..................................................................30
2.5. Phân tích số liệu .................................................................................................35

2.5.1. Xử lý số liệu nghiên cứu định lượng ........................................................35
2.5.2. Xử lý số liệu nghiên cứu định tính ...........................................................36
2.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ......................................................................36
2.7. Sai số của nghiên cứu và cách khắc phục ..........................................................36
2.7.1. Sai số có thể gặp phải ...............................................................................36
2.7.2. Biện pháp khắc phục ................................................................................37
Chƣơng 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... 38
3.1. Thông tin chung của bệnh nhân .........................................................................38
3.2. Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân .........................................................39
3.3. Chất lượng sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống .....................................40
3.3.1. Chất lượng sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống theo bảng đánh giá
mức độ độc lập SCIM ..................................................................................40
3.3.2. Chất lượng sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống theo bảng đánh giá


mức độ đau VAS ..........................................................................................41
3.3.3. Chất lượng sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống theo bảng đánh giá
khả năng tham gia công việc gia đình và cộng đồng FAI ............................41
3.3.4. Chất lượng sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống theo bảng đánh giá
mức độ độc lập SCI, mức độ đau VAS và mức độ tham gia công việc gia
đình và cộng đồng FAI .................................................................................42
3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân sau chấn thương
tủy sống...............................................................................................................42
Chƣơng 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN .................................................................................... 49
4.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu ..............................................................49
4.2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau điều trị chấn thương tủy sống tại tỉnh
Sơn La. ................................................................................................................49
4.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của BN sau điều trị CTTS tại
tỉnh Sơn La. ........................................................................................................49
DỰ KIẾN KẾT LUẬN......................................................................................................... 50

DỰ KIẾN KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1.

Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi. ......................................................38

Bảng 3.2.

Thông tin chung của bệnh nhân ............................................................38

Bảng 3.3.

Phân bố bệnh nhân theo mức độ tổn thương .........................................39

Bảng 3.4.

Phân bố bệnh nhân theo vị trí tổn thương .............................................39

Bảng 3.5.

Phân bố bệnh nhân theo nguyên nhân chấn thương ..............................39

Bảng 3.6.

Phân bố bệnh nhân theo khả năng tự chăm sóc bản thân ......................40


Bảng 3.7.

Phân bố bệnh nhân theo chức năng hô hấp và cơ tròn ..........................40

Bảng 3.8.

Phân bố bệnh nhân theo khả năng di chuyển trong phòng và ra bồn cầu .....40

Bảng 3.9.

Phân bố bệnh nhân theo khả năng di chuyển trong nhà và bên ngoài...41

Bảng 3.10. Phân bố mức độ đau của bệnh nhân theo thang điểm VAS ...................41
Bảng 3.11. Phân bố mức độ tham gia công việc gia đình và cộng đồng theo FAI ..41
Bảng 3.12. Phân bố chất lượng cuộc sống bệnh nhân chấn thương tủy sống theo
SCIM, VAS và FAI ................................................................................42
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa tuổi và chất lượng sống của bệnh nhân ..................42
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa giới và chất lượng sống của bệnh nhân..................42
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa thực trạng nghề nghiệp hiện tại và chất lượng sống
của bệnh nhân ........................................................................................43
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa trình độ học vấn và chất lượng sống của bệnh nhân ....43
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa điều kiện kinh tế và chất lượng sống của bệnh nhân ....43
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân và chất lượng sống của bệnh nhân .........43
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa việcđiều trịPHCNsau chấn thương và chất lượng
sống của bệnh nhân ...............................................................................44
Bảng 3.20. Mối liên quan giữa mức độ tổn thương và chất lượng sống của bệnh nhân ......44
Bảng 3.21. Mối liên quan giữa vị trí tổn thương và chất lượng sống của bệnh nhân ......44
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa môi trường sống và chất lượng sống của bệnh nhân........44
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa khoảng cách từ nhà đến trung tâm phục hồi chức

năng cho BN sau CTTS và chất lượng sống của bệnh nhân .................45
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa sự quan tâm chăm sóc của người thân và chất lượng
sống của bệnh nhân ...............................................................................45


Bảng 3.25. Mối liên quan giữaviệc hướng dẫn phương pháp kiểm soát tiểu tiện và
chất lượng sống của bệnh nhân .............................................................45
Bảng 3.26. Mối liên quan giữa việc hướng dẫn kiểm soát đại tiện và chất lượng
sống của bệnh nhân ...............................................................................46
Bảng 3.27. Mối liên quan giữa tình trạng loét tỳ đè và chất lượng sống của bệnh nhân........ 46
Bảng 3.28. Mô hình hồi quy logistic đa biến phân tích các yếu tố liên quan đến chất
lượng cuộc sốngcủa BN sau điều trị CTTS ...........................................47


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASIA

American Spinal Cord Injury Association

BN

Bệnh nhân

CLCS

Chất lượng cuộc sống

CS


Cộng sự

CTTS

Chấn thương tủy sống

FAI

Frenchay Activities Index

NN

Nguyên nhân

PHCN

Phục hồi chức năng

PVS

Phỏng vấn sâu

SCIM

Spinal Cord Independence Measure

TNGT

Tai nạn giao thông


TNLĐ

Tai nạn lao động

TTTS

Tổn thương tủy sống

VAS

Visual Analogue Scale


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương tủy sống tác động đến hàng nghìn người mỗi năm, gây ảnh
hưởng lớn tới sức khỏe, làm mất chức năng vận động, rối loạn cảm giác và các cơ
quan khác như bàng quang, đường ruột, hô hấp, tim mạch và loét do tỳ đè dẫn đến
giảm CLCS [1]. Nghiêm trọng hơn, CTTS làm người bệnh mất cơ hội việc làm, mất
khả năng độc lập trong cuộc sống và thay đổi tâm lý sức khỏe nặng nề [2]. Theo số
liệu điều tra dịch tễ học cho thấy hàng năm trên thế giới tỷ lệ CTTS thay đổi theo
vùng và có xu hướng gia tăng, đặc biệt ở các nước có mật độ giao thông đông đúc,
ngay cả ở các nước phát triển, với 80% nạn nhân là nam giới, đang trong độ tuổi lao
động [3]. Điều này cho thấy CTTS không những ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế, xã hội của mỗi quốc gia, mà còn ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống của
chính người bệnh.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 1997 thì chất lượng cuộc sống là những cảm
nhận của các cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa, các hệ thống giá trị
mà họ đang sống và liên quan đến các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối

quan tâm của họ [4]. Chất lượng cuộc sống của BN sau CTTS phụ thuộc nhiều vào
việc chăm sóc, phục hồi chức năng, định hướng nghề nghiệp và tái hòa nhập cộng
đồng. Ngày nay, có nhiều Trung tâm PHCN cho BN CTTS ra đời ở các nước phát
triển. Điều này giúp cho BN có nhiều cơ hội được PHCN, giảm các thương tật thứ
cấp, độc lập trong sinh hoạt và hội nhập xã hội, từng bước cải thiện chất lượng cuộc
sống. Các nghiên cứu điều trị, phục hồi chức năng sau CTTS đã được nhiều tác giả
trong và ngoài nước nói đến trong thập niên gần đây dựa trên sự ra đời của một số
phương pháp, kỹ thuật mới và sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Các tác giả
Wyndael, Town, Đỗ Đào Vũ, Cầm Bá Thức, Nguyễn Phương Sinh... đã tiến hành
nghiên cứu hiệu quả PHCN vận động, cảm giác, rối loạn chức năng bàng quang, rối
loạn chức năng tim mạch và hô hấp …trong điều trị phục hồi chức năng tại các cơ
sở y tế khác nhau [5],[6],[7],[8],[9]. Tuy nhiên, cho đến nay có rất ít nghiên cứu về
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau điều trị CTTS, đặc biệt ở giai đoạn tái hòa
nhập cộng đồng.


2

Việc đánh giá CLCS của BN sau điều trị CTTS giai đoạn tái hòa nhập cộng
đồng không những đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tác động của bệnh
tật tới tình trạng sức khỏe thể chất, khả năng hoạt động, đời sống tâm lý, tinh thần
của người bệnh, khả năng tái hòa nhập cộng đồng và các yếu tố ảnh hưởng, mà còn
cung cấp các thông tin, bằng chứng khoa học thiết thực giúp cho các nhà hoạch định
chính sách xã hội cùng với các nhà chuyên môn xây dựng, phát triển các tài liệu đào
tạo, hướng dẫn về chăm sóc, điều trị và phục hồi chức năng cho nhóm đối tượng
bệnh nhân này tại cộng đồng, đồng thời đưa ra các chiến lược nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân sau điều trị chấn thương tủy sống và một số yếu tố liên

quan tại Tỉnh Sơn La năm 2018” với hai mục tiêu:
1. Mô tả chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau điều trị chấn thương
tủy sống tại Tỉnh Sơn La năm 2018.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân sau điều trị chấn thương tủy sống tại Tỉnh Sơn La năm 2018.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa tổn thƣơng tủy sống
Chấn thương tủy sống là tình trạng bệnh lý gây liệt hoặc giảm vận động tứ
chi hoặc hai chân kèm theo các rối loạn khác như: cảm giác, hô hấp, tim mạch, bàng
quang, đường ruột, loét do tì đè v.v... do nguyên nhân chấn thương hoặc do các bệnh
lý khác của tủy sống, thường để lại nhiều di chứng nặng nề và dẫn tới tàn tật nếu
không được điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng tốt [10].
1.2. Tình hình chấn thƣơng tủy sống
Theo thống kê trên thế giới, hàng năm tỷ lệ CTTS có xu hướng ngày càng gia
tăng. Năm 2004, Sinha D cho biết tỷ lệ CTTS ở Ấn độ là 20.000 trường hợp/năm,
trong đó 80% BN trong độ tuổi lao động [11].Theo Trung tâm thống kê CTTS quốc
gia Hoa Kỳ, số BN CTTS ở Hoa Kỳ trung bình là 11.000 trường hợp/năm hay
khoảng 40 trường hợp mới/triệu dân không bao gồm những người chết tại chỗ do tai
nạn. Tuổi trung bình là 32,1; nam gấp 4 lần nữ, gần 60% BN tuổi từ 16 đến 59 đang
có việc làm tại thời điểm bị chấn thương [12]. Theo Gwynedd E và cộng sự, Canađa
có tỷ lệ chấn thương tủy sống là 42,4 người/triệu dân, tập trung từ độ tuổi 15 đến
64, tai nạn giao thông chiếm 35% [13]. Theo số liệu năm 2011, Schoenfeld và cộng
sự cho biết tỷ lệ CTTS trong quân đội Hoa Kỳ là 429 trường hợp/triệu quân nhân
[3]. Ở Bắc Mỹ, tỷ lệ chấn thương tủy sống khoảng 12.000 trường hợp mới/năm, ước
chừng dao động từ 300.000 đến 1.275.000 trường hợp [14]. Nghiên cứu của Krebs

và Pannek [15] cho biết CTTS do tai nạn giao thông, ngã cao luôn chiếm vị trí hàng
đầu, rồi đến tai nạn thể thao, tai nạn lao động; Akkoc [16] cho biết tai nạn giao
thông chiếm 39,3%, ngã cao 36,1% và nhảy cầu 7,9%. Theo Cầm Bá Thức [8] (tai
nạn giao thông chiếm tỷ lệ cao nhất) và Đỗ Đào Vũ [7] (tai nạn giao thông là
nguyên nhân gây chấn thương cột sống cổ cao nhất 44,4%, rồi đến tai nạn lao động
33,3% và tai nạn sinh hoạt 22,2%). Ở Việt Nam tuy chưa có nghiên cứu thống kê
đầy đủ và đại diện cho cả nước về tỷ lệ CTTS do các nguyên nhân khác nhau.


4

Nhưng trong những năm gần đây, tỷ lệ này ngày một tăng, đặc biệt tại các trung tâm
đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn do tai nạn giao thông, ngã
cao và tai nạn lao động, chỉ riêng BV Chấn thương Chỉnh hình và Chợ Rẫy có
khoảng 1.500 ca mỗi năm, trong đó lứa tuổi phổ biến từ 20 – 30, độ tuổi cống hiến
nhiều nhất cho gia đình và xã hội. Hậu quả làm gia tăng chi phí điều trị cho ngành y
tế, người bệnh mất việc làm, sức khỏe suy giảm, cuộc sống bị thay đổi và giảm chất
lượng cuộc sống [17]. Tại bệnh viện Bạch Mai, theo khảo sát cho thấy năm 2008 có
khoảng 200 BN CTTS đến điều trị tại đơn vị tổn thương tủy sống. Số lượng BN
tăng đều những năm sau đó và hiện có đến hơn 1000 BN đã được điều trị tại Trung
tâm PHCN [9].
1.3. Chất lƣợng cuộc sống của bệnh nhân chấn thƣơng tủy sống và các phƣơng
pháp đánh giá
1.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống
Mặc dù khái niệm chất lượng cuộc sống đã được sử dụng nhiều, tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất toàn cầu cho khái niệm này
[18]. Theo Nhóm nghiên cứu về chất lượng cuộc sống thuộc Tổ chức Y tế Thế giới
(WHOQOL - Group - World Health Organization Quality of Life) năm 1997 thì
chất lượng cuộc sống là những cảm nhận của các cá nhân về cuộc sống của họ trong
bối cảnh văn hóa, các hệ thống giá trị mà họ đang sống và liên quan đến các mục

đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ [4].
1.3.2. Đánh giá chất lượng cuộc sống
Đánh giá chất lượng cuộc sống của BN CTTS rất cần thiết, nhằm phản ánh
tác động của bệnh đến cuộc sống của bệnh nhân. Đối chiếu với định nghĩa về sức
khỏe của Tổ chức Y tế thế giới, chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe nói
chung được coi là cấu trúc nhiều chiều bao gồm sức khỏe thể lực, sức khỏe tâm
trí, chức năng xã hội và toàn trạng nói chung. Nhiều bộ công cụ khác nhau đã
được xây dựng để đánh giá chất lượng cuộc sống và được phân loại là đánh giá
theo bệnh đặc thù (Disease specific QOL measures) hoặc đánh giá chung (Generic
measures).


5

* Đánh giá chất lƣợng cuộc sống chung
Các bộ câu hỏi đánh giá chung có thể là những bộ công cụ mô tả về sức khỏe
hoặc là các đánh giá phụ trợ. Các bộ công cụ mô tả về sức khỏe như bộ đánh giá kết
quả đầu ra về sức khỏe rút gọn 36 câu hỏi (Short Form– 36/SF-36), đánh giá kết quả
đầu ra về sức khỏe rút gọn 12 câu hỏi (Short Form–12/SF-12). Những bộ công cụ
này có thể sử dụng để đánh giá ở bệnh nhân chấn thương tủy sống giai đoạn tại
cộng đồng, có thể giúp ích trong việc đưa ra các quyết định định hướng về y tế. Tuy
nhiên, các đánh giá chung thường không đi sâu vào ảnh hưởng của bệnh, nên không
thể hiện rõ sự thay đổi theo diễn biến của bệnh.
* Đánh giá chất lƣợng cuộc sống theo bệnh đặc thù
Đánh giá chất lượng cuộc sống theo bệnh đặc thù tập trung chủ yếu vào các
mặt chính liên quan đến bệnh đặc thù vì thế có thể đánh giá chính xác hơn tác động
của bệnh tới chất lượng cuộc sống, cũng như phản ánh rõ hơn hiệu quả can thiệp.
Việc đánh giá chất lượng cuộc sống ở BN chấn thương tủy sống là cần thiết,
thông qua việc đánh giá chất lượng cuộc sống, BN được điều trị, can thiệp và hỗ trợ
thay đổi môi trường xã hội giúp tạo ra sự khác biệt quan trọng trong cuộc sống.

Những đánh giá này còn giúp các nhà nghiên cứu đưa ra kết luận rõ ràng, những
nhà quản lý chính sách có thể tìm ra những biện pháp can thiệp mới giúp duy trì
hoặc tăng cường chất lượng cuộc sống cho họ.
Nghiên cứu của Westgren và cộng sự tiến hành xem xét điều gì là quan trọng
đối với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống để giúp thay đổi
hoàn cảnh sống của bệnh nhân và kết quả cho thấy sự an toàn và độc lập, không đau
đớn có thể chiếm vị trí quan trọng nhất [19].
Coura AS và cộng sự cũng cho thấy các yếu tố ảnh hưởng nhiều đến CLCS
của BN sau CTTS là năng lực làm việc, các hoạt động hàng ngày, môi trường gia
đình và tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí [20].
1.3.3. Các phương pháp đánh giá chất lượng cuộc sống trong bệnh chấn thương
tủy sống
Có nhiều phương pháp để đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân như
bệnh nhân tự đánh giá, đánh giá thay thế qua người thân chăm sóc hay quan sát trực


6

tiếp các hành vi và hoạt động liên quan đến chất lượng cuộc sống. Với bệnh nhân
chấn thương tủy sống sử dụng phương pháp bệnh nhân tự đánh giá sẽ giúp bệnh
nhân dễ dàng lựa chọn câu trả lời, ít bị ảnh hưởng bởi các mong muốn, niềm tin của
người khác hoặc không thể chắc chắn rằng các hành vi quan sát được có phải là
điều bệnh nhân cho là quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của họ hay không
hay những sai lệch từ phía người quan sát.
Phương pháp bệnh nhân tự đánh giá: yêu cầu bệnh nhân trực tiếp đánh giá
chất lượng cuộc sống bằng những cảm nhận của mình trong bối cảnh của người được
hưởng lợi từ việc điều trị hoặc bị mất nhiều nhất sau chấn thương. Các bộ công cụ
được thiết kế đơn giản, dễ dàng để bệnh nhân có thể tham gia. Xây dựng các hướng
dẫn rõ ràng, đào tạo kỹ càng cho các điều tra viên phỏng vấn trực tiếp và sử dụng gợi
ý trực quan (ví dụ như thang đo mức độ, thẻ màu) để giúp bệnh nhân dễ dàng lựa

chọn câu trả lời. Ngoài ra, điều tra viên có thể đánh giá sự hiểu của bệnh nhân bằng
cách hỏi các câu hỏi làm rõ khi câu trả lời không rõ ràng hoặc không tin cậy.
1.3.4. Các bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân chấn thương
tủy sống
Có rất nhiều các bộ công cụ đánh giá CLCS ở bệnh nhân CTTS và nó có thể
rất khác nhau về các lĩnh vực đánh giá. Smith và cộng sự (2015) sử dụng công cụ
đánh giá CLCS ở bệnh nhân CTTS thông qua FIQL (fecal incontinence quality of
life) để xác định mức độ của rò rỉ phân ngoài ý muốn ảnh hưởng đến CLCS của
bệnh nhân CTTS [21]. Bochkezanian và cộng sự (2015) đánh giá CLCS ở bệnh
nhân CTTS thông qua mức độ độc lập [22]. Daniel M và cộng sự (2015) đã đánh
giá các khía cạnh trong CLCS của bệnh nhân CTTS bao gồm hoạt động giải trí,
quan hệ xã hội, hạnh phúc, công việc có ý nghĩa, đời sống tình dục và chất lượng
sống nói chung [23]. David S và cộng sự (2015) đã sử dụng bộ công cụ SCI-QoL
(Spinal cord injury-Quality of Life) để đánh giá CLCS của bệnh nhân CTTS thông
qua tình trạng sức khỏe [24].
Các tiêu chí của bộ công cụ đánh giá CLCS cho bệnh nhân CTTS được lựa
chọn để phản ánh các lĩnh vực làm ảnh hưởng đến CLCS của bệnh nhân. Có nhiều


7

công cụ đánh giá khách quan CLCS, tuy nhiên với bệnh nhân CTTS chưa có một bộ
công cụ nào đánh giá đầy đủ các khía cạnh ảnh hưởng đến CLCS của bệnh nhân.
Đối với bệnh nhân đang sinh sống tại cộng đồng, chúng tôi tập trung đánh giá ba
khía cạnh chính làm ảnh hưởng nhiều nhất đến CLCS của bệnh nhân là khả năng
độc lập trong sinh hoạt, mức độ đau và khả năng tham gia công việc gia đình, cộng
đồng. Tương ứng với từng khía cạnh trên chúng tôi sử dụng các bộ công cụ phù hợp
để thu thập thông tin bệnh nhân thông qua các thang điểm SCIM, VAS và FAI. Các
bộ công cụ này đã được hiệp hội tổn thương tủy sống thế giới khuyến cáo sử dụng
cho đánh giá trên bệnh nhân CTTS trên toàn thế giới. Các thang điểm này đã được

dịch sang nhiều thứ tiếng và áp dụng rộng rãi ở các nước và là bộ công cụ được sử
dụng phổ biến nhất trên thế giới để đánh giá khả năng độc lập của bệnh nhân CTTS
như Hy Lạp [25], Tây Ban Nha [26], Thụy Điển [27], Hoa Kỳ [28], Thổ Nhĩ Kỳ
[29], được chứng minh có độ tin cậy cao và đã được sử dụng trong rất nhiều nghiên
cứu. Ở Việt Nam, bộ công cụ SCIM đã được dịch ra phiên bản tiếng việt, được thử
nghiệm, chỉnh sửa để phù hợp với văn phong tiếng Việt cho dễ hiểu hơn và đã được
sử dụng thường quy để đánh giá khả năng độc lập của bệnh nhân sau CTTS tại
Trung tâm PHCN bệnh viện Bạch Mai từ năm 2008 và đưa vào quy trình kỹ thuật
của chuyên ngành. Thang điểm đánh giá mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS, và
thang điểm đánh giá khả năng tham gia công việc gia đình và cộng đồng FAI đã được sử
dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực chuyên khoa y học có độ tin cậy và có tính giá
trị cao [8],[30],[31],[32],[33],[34]. Như vậy, thang công cụ SCIM, VAS và FAI đáp
ứng được những mục tiêu nghiên cứu của đề tài đánh giá những khía cạnh lớn làm
ảnh hưởng đến CLCS của BN khi sinh sống tại cộng đồng.
1.4. Giới thiệu về bộ công cụ đánh giá chất lƣợng sống của bệnh nhân sau chấn
thƣơng tủy sống
* Bộ công cụ đánh giá sự độc lập sau tổn thương tủy sống SCIM (Spinal Cord
Independence Measure)
Bệnh nhân sau CTTS và các chuyên gia về tủy sống đã cùng nhau xem xét
các tiêu chí này để đảm bảo giá trị và tính chính xác. Thang điểm SCIM gồm 16 câu


8

hỏi đánh giá các lĩnh vực: khả năng tự chăm sóc, chức năng hô hấp và kiểm soát cơ
tròn, khả năng di chuyển trong phòng và nhà vệ sinh, khả năng di chuyển ở trong
nhà và bên ngoài (chi tiết xin xem trong phần phụ lục 2).
Câu trả lời dựa trên 2 mức độ của thang điểm (1 = không tốt (0-60 điểm),
2 = tốt (61-100 điểm). Tổng điểm SCIM nằm trong khoảng từ 0 đến 100 với điểm
số cao hơn tương ứng với chất lượng cuộc sống tốt hơn.

Thang điểm SCIM đánh giá 4 lĩnh vực từ khả năng tự chăm sóc đến khả
năng di chuyển trong nhà vệ sinh, bồn tắm hay di chuyển ra khỏi nhà. Đây là bảng
công cụ phản ánh khá toàn diện những yếu tố liên quan đến khả năng độc lập của
BN sau CTTS. Hơn nữa với cấu trúc khá đơn giản, dễ hiểu sẽ giúp cho việc sử dụng
đánh giá chính xác hơn các chức năng của BN. Chính với những ưu điểm vậy, Hiệp
hội tổn thương tủy sống đã áp dụng và khuyến cáo sử dụng cho việc đánh giá sự
độc lập của BN sau CTTS. Thang điểm SCIM hoàn toàn đáp ứng được tính chính
xác, khánh quan và đầy đủ thông tin của nhà nghiên cứu.
* Bộ công cụ đánh giá mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS (Visual Analogue Scale)
Bộ công cụ đánh giá mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS là bộ công cụ
được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới để đo lường mức độ đau của BN. Bộ công
cụ VAS được chứng minh có độ tin cậy cao và đã được sử dụng trong rất nhiều
nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Tương ứng với mức điểm càng cao thì CLCS
càng kém (chi tiết xin xem trong phần phụ lục 2).
* Bộ công cụ đánh giá khả năng tham gia công việc gia đình và cộng đồng (Frenchay
Activities Index)
Bộ công cụ đánh giá khả năng tham gia công việc gia đình và cộng đồng
(FAI) là bộ công cụ được sử dụng phổ biến để đo lường mức độ tham gia của bệnh
nhân vào công việc gia đình và cộng đồng. Bộ công cụ FAI được chứng minh có độ
tin cậy cao và đã được sử dụng trong trong các nghiên cứu gần đây trên đối tượng
bệnh nhân CTTS [8]. Tương ứng với mức điểm càng cao thì khả năng tham gia
càng tốt (chi tiết xin xem trong phần phụ lục 2).


9

1.5. Các phƣơng pháp và dịch vụ điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng cho
bệnh nhân tổn thƣơng tủy sống
1.5.1. Điều trị loét do đè ép
Phải loại bỏ lực đè ép lên vết loét, vết loét sẽ không bao giờ liền nếu như lực

ép chưa được loại bỏ. Các yếu tố trong điều trị bao gồm rửa vết thương, cắt bỏ tổ
chức hoại tử, băng bó, phẫu thuật, dinh dưỡng và kiểm soát các vùng tỳ đè [9],[35].
Rửa vết thương bằng cách làm sạch vết loét mỗi lần thay băng, lau chùi nhẹ
nhàng, chấm nhẹ để làm sạch bằng gạc hoặc vải mềm mà không gây tổn thương vết
loét, sử dụng nước muối sinh lý để rửa, không sử dụng thuốc khử trùng. Loại bỏ tổ
chức hoại tử các vết loét đè ép phải sử dụng phương pháp thích hợp theo tình trạng
vết loét, thể trạng BN và mục tiêu điều trị.
1.5.2. Chăm sóc đường hô hấp
Rung kết hợp dẫn lưu tư thế, tập ho để giải phóng đờm dãi ra ngoài; tập thở
nhằm tăng cường khả năng hô hấp, trao đổi khí, phòng biến chứng viêm phổi, xẹp
phổi và suy hô hấp [36], [37].
1.5.3. Chăm sóc đường tiết niệu
Mục tiêu của chăm sóc đường tiết niệu là đi tiểu chừng 3-4 giờ/lần, duy trì
kiểm soát nước tiểu, khi đi ngủ nước tiểu không rò rỉ ra, tránh nhiễm trùng đường
tiết niệu tái phát. Tối thiểu phải đạt được là giảm sự ảnh hưởng đến hoạt động xã
hội, hướng nghiệp và học nghề của bệnh nhân [38],[39],[40].
Điều trị không bằng thuốc là các động tác giúp BN đi tiểu được như kích
thích bàng quang, kéo dãn hậu môn hoặc là đặt thông tiểu và giúp BN kiểm soát
cũng như gom nước tiểu được hàng ngày. Còn đối với điều trị bằng thuốc thì nhóm
có tác dụng tốt nhất là nhóm ức chế tống nước tiểu. Sau cùng mới nghĩ tới phẫu
thuật đó là những trường hợp bàng quang tăng hoạt dẫn tới giảm đàn hồi và giảm
dung tích bàng quang, không đáp ứng với các thuốc kháng cholinergic.
1.5.4. Chăm sóc đường ruột
Chăm sóc đường ruột có thể đòi hỏi phải sử dụng hai phương pháp kích thích
trực tràng, kích thích cơ học và kích thích hóa học. Hai kích thích này có thể sử
dụng riêng rẽ hoặc kết hợp cả hai phương pháp [35],[38].


10


Tập luyện đường ruột là sự bài tiết ở đường ruột thông qua phản xạ có điều
kiện [9]. Kích thích cơ học có thể duy trì đơn độc hay phối hợp với các kích thích
hóa học trong chăm sóc đường ruột. Có 2 phương pháp đó là kích thích bằng ngón
tay và móc phân. Có rất nhiều các thuốc được dùng nhằm giúp cho phân cứng tạo
thành khuôn hoặc phân mềm ra khi mà phân vẫn còn cứng khó cho việc đại tiện.
Hoặc là các thuốc tăng nhu động đại tràng, thuốc xổ đều nhằm giúp BN có thể đi
đại tiện được dễ dàng. Việc thụt tháo phân bằng một lượng dịch lớn không thường
xuyên trong điều trị đường ruột thần kinh có thể sử dụng khi các phương pháp khác
không hiệu quả hoặc có nguy cơ tăng phản xạ thực vật.
1.5.5. Điều trị cơn rối loạn thần kinh giao cảm phản xạ
Nhanh chóng hạ huyết áp bằng cách dựng bệnh nhân ngồi thả hai chân xuống
giường, nếu huyết áp không hạ mới chuyển sang dùng thuốc hạ áp.
Tìm nguyên nhân gây cơn rối loạn phản xạ thực vật để loại bỏ, thông thường
có thể gặp theo thư tự là: đường tiết niệu, hệ thống dạ dày ruột, các hệ thống khác
như kích thích đau từ da, do sinh hoạt tình dục… Khi tình trạng BN đã ổn định
nhanh chóng trao đổi với người nhà BN về nguyên nhân gây ra và các vấn đề cần
phòng ngừa như điều chỉnh kế hoạch điều trị, thảo luận về rối loạn phản xạ thực vật,
hướng dẫn cách phòng [41].
1.5.6. Điều trị đau do nguyên nhân thần kinh
Đau là một cảm giác khó chịu, xuất hiện cùng lúc với sự tổn thương của các
mô tế bào. Đau là kinh nghiệm được lượng giá bởi nhận thức chủ quan tùy theo
từng người, từng cảm giác về mỗi loại đau, là dấu hiệu của bệnh tật và phải tìm ra
nguyên nhân để chữa [42]. Một số trường hợp đau xảy ra trong bệnh cảnh di chứng
tổn thương hay cắt đoạn thần kinh ngoại vi (như trong hiện tượng chi ma, zona, đau
dây V, cắt đoạn thần kinh, liệt hai chân...).
Việc điều trị đúng tình trạng đau này còn phụ thuộc vào nhận thức thực tế và
sự tôn trọng phức hợp thể chất và tâm thần ảnh hưởng đến tác động của đau đối với
cuộc sống của bệnh nhân [40].



11

1.5.7. Điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu
Tập vận động sớm, sử dụng các dụng cụ tạo áp lực và các thuốc chống đông
dự phòng cho những bệnh nhân có nguy cơ cao. Khi có huyết khối tĩnh mạch sâu
cần điều trị theo bác sỹ chuyên khoa tim mạch [43].
1.5.8. Điều trị co cứng
Co cứng ở BN cũng có những lợi ích đáng kể như giảm được tình trạng
loãng xương và hạ huyết áp tư thế, tuy nhiên cũng có những bất lợi như khi co rút
gây tư thế xấu hoặc khó khăn khi vệ sinh cá nhân. Việc điều trị co cứng có thể bằng
các thuốc giãn cơ và tiêm phong bế điểm vận động bằng phenol hoặc Botulinum
toxin nhóm A [40],[41].
1.5.9. Tập mạnh cơ, di chuyển bằng dụng cụ trợ giúp và hoạt động trị liệu
Việc sử dụng thành thạo nạng nẹp, thanh song song, khung tập đi, xe lăn địa
hình giúp bệnh nhân độc lập trong sinh hoạt như ăn uống, mặc quần áo, vệ sinh cá
nhân như đánh răng, rửa mặt, tắm rửa…[44],[45],[36].
1.5.10. Điều trị rối loạn chức năng tình dục
Bao gồm điều trị rối loạn cương, xuất tinh ở nam giới. Ở nữ giới cho dù khả
năng mang thai thường không bị ảnh hưởng nhưng nó cũng mang lại nhiều khó
khăn cho BN, việc tự chăm sóc phải được tăng cường, đề phòng các biến chứng
nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm tĩnh mạch khối, đẻ non…[40],[41].
1.5.11. Tái hội nhập vào cộng đồng và xã hội
Đây là giai đoạn quan trọng giúp giải quyết vấn đề tâm lý cho BN, mặt khác
làm giảm bớt sự phụ thuộc và gia đình, xã hội. Hướng nghiệp cho BN để khi về với
gia đình, cộng đồng họ tìm được việc làm thích hợp để tự nuôi sống bản thân.
1.6. Các nghiên cứu liên quan
1.6.1. Một số nghiên cứu về bệnh nhân chấn thương tủy sống trên thế giới
1.6.1.1. Một số nghiên cứu liên quan đến thực trạng chất lượng sống của bệnh nhân
sau chấn thương tủy sống
- PH Smith và RM Decter (2015) sử dụng bộ công cụ đánh giá CLCS của

bệnh nhân sau CTTS (FIQL) để xác định mức độ rò rỉ phân ngoài ý muốn ảnh
hưởng đến CLCS của bệnh nhân. Điểm CLCS (FIQL) được thể hiện ở 4 lĩnh vực:


12

cách sống, cách ứng phó, sự buồn chán/tự nhận thức hay sự xấu hổ. Bộ câu hỏi
được phát trước và sau phẫu thuật. Sử dụng T-test để so sánh trước và sau phẫu
thuật. Kết quả cho thấy từ 2003-2010, nghiên cứu được thực hiện trên 17 bệnh nhân
CTTS, bao gồm 10 bệnh nhân liệt 2 chân và 7 BN liệt tứ chi có thời gian trung bình
là 33 năm sau phẫu thuật. Có tới 85% bệnh nhân CTTS trải qua các mức độ của
phân bón nặng, việc điều trị ban đầu của táo bón liên quan đến thần kinh ruột rối
loạn chức năng nói chung bao gồm sự kết hợp của phương pháp điều trị răng miệng,
thuốc đạn và dung dịch thụt tháo, phương pháp điều trị như vậy có lợi ích của việc
không xâm lấn. Các ACE (Antegrade continence enema) cho phép bệnh nhân quản
lý hiệu quả việc kiểm soát phân, các (ACE) cung cấp cải thiện đáng kể ở bệnh nhân.
(FIQL) là bộ công cụ đáng tin cậy và hợp lệ để đo CLCS liên quan đến không kiểm
soát phân. Hơn nữa, khi phân tích tính cho thấy mối tương quan của (FIQL) phù
hợp với bộ công cụ đánh giá CLCS toàn cầu SF-36, và nó đã được sử dụng rộng rãi
trong các nghiên cứu về CLCS ở bệnh nhân chấn thương tủy sống [21].
- V. Bochkezanian, J Raymond, de Oliveira và cộng sự (2015) dùng kết hợp
bài tập aerobic và những bài tập tăng sức mạnh theo vòng tròn đối với BN CTTS.
Tập thể dục là một hoạt động phổ biến rộng rãi với các bài tập như: aerobic thấp,
giảm sức mạnh cơ bắp và sức chịu đựng. Các bài tập thể dục Aerobic giảm đối với
những BN bị CTTS do bị suy yếu của máu động mạch. Chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân sau CTTS được đánh giá thông qua khả năng độc lập với việc sử dụng
thang PEDro (Physiotherapy Evidence Database); nghiên cứu thực nghiệm bởi hai
nhà nghiên cứu khác nhau. Kết quả: Nghiên cứu phân tích 7981 BN, trong đó 9 thử
nghiệm đạt tiêu chuẩn lựa chọn. Từ 9 thử nghiệm trên, 7 cho kết quả của việc tập
aerobic, và 2 trong số đó cho thấy sự cải thiện có ý nghĩa thống kê. 5 nghiên cứu

cho kết quả tăng sức mạnh cơ, 4 trong số đó có kết quả có ý nghĩa thống kê. 2
nghiên cứu khác xem xét chất lượng cuộc sống và 1 trong 2 nghiên cứu cho thấy sự
khác nhau có ý nghĩa giữa các nhóm. Có nhiều tác giả đã đánh giá và phân tích thể
dục thể chất đối với BN bị CTTS, bao gồm tập thể dục aerobic hoặc sức mạnh cơ
bắp được đánh giá riêng biệt, nhưng chưa có ai điều tra được sự kết hợp của những


13

bài tập. Ở đây tác giả đã chỉ ra rằng khi có sự can thiệp tập thể dục kết hợp BN sẽ
có sự suy yếu về thể chất do đó nó ảnh hưởng đến khả năng tập thể dục, dẫn đến
CLCS ở những BN CTTS giảm theo [22].
- D. M. Cushman, K. Thomas, D. Mukherjee (2015) đã sử dụng bảng câu hỏi
điều tra của các bác sĩ PM&R (Physical Medicine and Rehabilitation) và EM
(Emergency Medicine). Người tham gia nghiên cứu là các bác sĩ có chứng chỉ thuộc
Hiệp hội PHCN Mỹ và giảng viên tại các trường đại học Y khoa của Mỹ và Canada.
Nghiên cứu nhằm đánh giá các khía cạnh trong CLCS của bệnh nhân CTTS bao
gồm hoạt động giải trí, quan hệ xã hội, hạnh phúc, công việc có ý nghĩa, đời sống
tình dục và chất lượng sống nói chung. Kết quả cho thấy trong tổng số 91 bác sĩ cấp
cứu và 89 bác sĩ PHCN được hỏi, thì số lượng bác sĩ PHCN nhiều hơn so với bác sĩ
cấp cứu cho rằng bệnh nhân sẽ có CLCS tốt hơn không kể đến mức độ chấn thương
hay khía cạnh cuộc sống nào được nói đến (p < 0.01). Bác sĩ nữ, không kể đến
chuyên ngành, chọn mức thấp hơn cho câu hỏi liệu bệnh nhân có muốn kết thúc
cuộc sống nếu bị CTTS không (p = 0.03). Cả hai nhóm bác sĩ đều có xu hướng
không đồng ý với nhận định mức độ chấn thương thấp hơn thì cho chất lượng cuộc
sống cao hơn. Thái độ của bác sĩ có thể có một tác động đáng kể về y tế chăm sóc,
và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các bác sĩ đánh giá thấp chất lượng cuộc sống
đối với của người sống khuyết tật [23].
- Kelly E. Ravenek, Michael J. (2012) cho ra một nghiên cứu tổng hợp sử
dụng dữ liệu từ PubMed và CINAHL để đánh giá các nghiên cứu sử dụng công cụ

đo CLCS và đánh giá hiệu quả của hoạt động thể chất hay sử dụng hoạt động thể
chất để xác định mối liên hệ giữa hoạt động thể chất và CLCS. Kết quả cho thấy 13
bài báo đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. Trong số đó, 9 công cụ đo CLCS được sử
dụng: 2 thước đo khách quan là (SF-36) và QWB (Quality of Well-being) và 7
thước đo chủ quan tự đánh giá CLCS PqoL (Perceived Quality of Life), Thang điểm
thỏa mãn cuộc sống SWLS (Satisfaction with Life Scale), Chỉ số CLCS của BN
CTTS - phiên bản III, Thang thỏa mãn cuộc sống LISAT (Life Satisfaction), Phản
hồi chất lượng cuộc sống, Hồ sơ chất lượng cuộc sống: Phiên bản cho người khuyết


14

tật thể chất và giác quan QOLP-PSD (Quality of Life Profile - Physical and Sensory
Disabilities Version) và CLCS theo đánh giá chủ quan SQOL (Subjective Quality of
Life). Bảng tự đánh giá CLCS (PQoL) là công cụ được dùng phổ biến nhất trong 4
nghiên cứu và được sử dụng ở 2 trong 3 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng. 12
trên 13 nghiên cứu đánh giá tích cực ảnh hưởng hoạt động thể chất với CLCS [46].
- Nghiên cứu phân tích các công cụ cho thông tin về chất lượng cuộc sống
liên quan đến sức khỏe HRQoL (Health-related quality-of-life), bao gồm Bản điều
tra ngắn (SF-36), Bản điều tra ngắn 36 dành cho cựu chiến binh (SF-36V), Bản điều
tra ngắn 12 (SF-12), Bản điều tra ngắn 6 dành cho người khuyết tật (SF-6D), Hồ sơ
ảnh hưởng của bệnh thật (SIP-68), Bảng tự đánh giá chất lượng cuộc sống (QWBSA), Qualiveen và Công cụ bệnh nhân tự đánh giá ảnh hưởng của co cứng
(PRISM). Trong số 22 bài báo với 8 công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống liên
quan đến sức khỏe của bệnh nhân CTTS cho thấy bệnh nhân CTTS có chất lượng
cuộc sống kém hơn nhiều so với dân số nói chung, đặc biệt là về thể chất [47].
1.6.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân sau chấn
thương tủy sống
- Y Akkoc, M Ersoz và N Yıldız (2013) nghiên cứu các BN CTTS ít nhất 6
tháng sau chấn thương (n = 195, 74.4% nam). Các bệnh nhân trên được chia vào 5
nhóm: tiểu tiện bình thường, tiểu tiện có hỗ trợ, bệnh nhân tự thông tiểu ngắt quãng,

thông tiểu ngắt quãng do người khác trợ giúp và thông tiểu lưu. Bảng điều tra câu
hỏi King được sử dụng để đánh giá CLCS của bệnh nhân sau CTTS. Kết quả là các
nhóm bệnh nhân quản lý bàng quang giống nhau về tuổi, thời gian sau chấn thương,
trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân và nghề nghiệp. Không có sự khác biệt nào về
sức khỏe nói chung, mối quan hệ cá nhân, điểm giấc ngủ/năng lượng. Trong khi
nhóm tiểu tiện bình thường có điểm số thấp nhất (nghĩa là có CLCS cao nhất),
nhóm có người giúp đặt thông tiểu có CLCS tồi nhất. Vậy yếu tố BN khi có sự can
thiệp để có thể tiệu tiện và tiện cho việc chăm sóc và theo dõi có là yếu tố ảnh
hưởng đến CLCS của bệnh nhân sau CTTS [48].
- Trong nghiên cứu tổng hợp y văn của Van Leeuwen, S Kraaijeveld, E
Lindeman và cộng sự (2012), một số hệ thống dữ liệu trực tuyến đã tham khảo


15

PubMed, Embase và PsychInfo. Tiêu chuẩn lựa chọn các bài báo là các bài báo phải
phân tích định lượng mối quan hệ giữa các biến độc lập liên quan đến chất lượng
sống và các yếu tố tâm lý như các biến phụ thuộc. Nghiên cứu tổng hợp này chỉ
xem xét các thử nghiệm lâm sàng bằng tiếng Anh. Chất lượng phương pháp nghiên
cứu cũng được đánh giá. Kết quả cho thấy có 48 nghiên cứu đáp ứng đủ tiêu chuẩn
lựa chọn. Không có bằng chứng nào được tìm thấy về mối liên quan giữa phương
pháp giải quyết vấn đề và chất lượng sống. Những tác động tiêu cực và nhận thức
sau chấn thương liên quan đến chất lượng sống thấp hơn. Chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân sau CTTS được cho là liên quan đến mức độ kiểm soát cuộc sống, nhận
thức giá trị bản thân, mục đích sống và hy vọng [49].
- E Ataoglu, T Tiftik, M Kara, và cộng sự (2013) nghiên cứu tổng cộng 140
BN CTTS (104 nam và 36 nữ) đã được điều trị nội trú PHCN. Một bảng câu hỏi
gồm nhiều biến số về y tế đã được phát. Điểm số tự chủ vận động được dùng để
đánh giá hoạt động hàng ngày, Bảng hỏi kết quả y tế dạng ngắn 36 mục (SF-36) để
đánh giá CLCS của bệnh nhân sau CTTS và Bảng liệt kê tình trạng buồn chán BDI

(Beck Depression Inventory). BN sau đó được chia thành nhóm đau mãn tính
(Nhóm 1) và nhóm không bị đau (Nhóm 2); hai nhóm sẽ được so sánh dựa trên các
biến về kinh tế xã hội và y tế. Kết quả cho thấy nguyên nhân phổ biến nhất ảnh
hưởng đến CLCS của bệnh nhân sau CTTS là ngã (35.0%) và tai nạn xe cộ (34.2%),
78% BN bị đau mãn tính. Bệnh nhân có việc làm trước khi bị thương và BN tổn
thương hoàn toàn có điểm xếp hạng thấp hơn (p < 0,05). Nhóm 1 có điểm đau thể
chất và hoạt động xã hội thấp hơn nhóm 2 (p < 0,05) Bệnh nhân CTTS bị đau mãn
tính có tỉ lệ buồn chán và điểm (BDI) cao hơn tương quan với một vài những lĩnh
vực trong bảng SF-36 [50].
- Trong nghiên cứu của N. A. Erosa1, J.W. Berry, T.R. Elliott (2014), một
khung lý thuyết được kiểm tra về ảnh hưởng của khuyết tật chức năng, sự hài lòng
trong cuộc sống gia đình và tình trạng đau khi tham gia hoạt động đối với chất
lượng sống. Kết quả cho thấy khuyết tật chức năng lớn và tình trạng đau làm giảm
sự tham gia hoạt động, sự tham gia hoạt động có giá trị tiên đoán với CLCS đối


16

với bệnh nhân sau CTTS và yếu tố hài lòng trong cuộc sống gia đình có ảnh
hưởng gián tiếp tới CLCS của bệnh nhân sau CTTS [51].
- WB Mortenson, L Noreau và WC Miller (2010) nghiên cứu một nhóm bệnh
nhân CTTS. Số liệu được thu thập thông qua chỉ số chất lượng sống QLI (Quality of
Life Index) 197 BN được điều tra, nhưng do bỏ nghiên cứu hay không tham gia đầy
đủ, chỉ còn lại 93 trường hợp. Chất lượng sống được điều tra tại thời điểm 3 và 15
tháng sau khi hết điều trị PHCN. Kết quả là điểm trung bình CLCS không khác
nhau ở thời điểm 3 và 15 tháng (p < 0,85). Chỉ số chính dự đoán CLCS ở thời điểm
3 tháng là tình trạng sức khỏe và trạng thái tâm lý. Chỉ số chính dự đoán CLCS ở
thời điểm 15 tháng là mức độ chất lượng sống ở thời điểm 3 tháng, tình trạng sức
khỏe và sự hỗ trợ của gia đình. Ở cả 2 thời điểm trên, những yếu tố cá nhân giải
thích được gần hết được CLCS của bệnh nhân sau CTTS, trong khi đó sự tham gia

hoạt động và yếu tố môi trường có vai trò ít quan trọng [52].
1.6.2. Một số nghiên cứu về bệnh nhân chấn thương tủy sống ở Việt Nam
- Đỗ Đào Vũ (2006) Tiến hành nghiên cứu đánh giá kết quả phục hồi chức
năng vận động cảm giác theo ASIA ở bệnh nhân chấn thương cột sống cổ và một số
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả PHCN. Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên có đối chứng; Kết quả cho thấy: có sự cải thiện bậc cơ theo ASIA
sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng lần lượt là 39%, 72% và 72%. Khả năng di chuyển
tốt và khá là 16,67% và 44,44%, còn lại 38,89% di chuyển kém so với nhóm chứng
di chuyển kém là 50%. Kết quả cũng cho thấy nhóm BN trẻ tuổi phục hồi chức
năng tốt hơn BN lớn tuổi, sơ cứu ban đầu đúng tỷ lệ phục hồi chức năng tốt hơn sơ
cứu sai, tổn thương tủy cổ cao phục hồi kém hơn tổn thương tủy cổ thấp [7].
- Cầm Bá Thức (2008) Nghiên cứu thực trạng bệnh nhân liệt hai chi dưới do
chấn thương tủy sống tại cộng đồng và đề xuất một số giải pháp can thiệp. Nghiên
cứu 80 BN liệt 2 chi dưới do chấn thương tủy sống, sống tại cộng đồng. Kết quả:
liệt tủy hoàn toàn ASIA A là 52,5%; không hoàn toàn ASIA B là 5%; ASIA C là
27,5%; ASIA D là 15%. Khuyết tật rất nặng 12,5%; nặng 72,5%; trung bình 15%.
88,8% không làm được việc gì; 11,2% chỉ làm được việc nhẹ; 77,5% thất nghiệp;


17

12,5% bỏ học; 7,5% phải nghỉ việc; 2,5% đang hưởng lương hưu. Trầm cảm 25%,
lo sợ 35%; căng thẳng 37,5%. Hiệu quả phục hồi chức năng: cải thiện mức độ
khuyết tật theo thang điểm Rankin; cải thiện khả năng tự chăm sóc và di chuyển
theo chỉ số Barthel; cải thiện mức độ tham gia công việc gia đình và cộng đồng theo
chỉ số Frenchay; cải thiện của các biến chứng và thương tật thứ cấp [8].
- Nguyễn Phương Sinh (2012) Nghiên cứu hiệu quả phục hồi chức năng hô
hấp cho bệnh nhân chấn thương cột sống có liệt tuỷ bằng phương pháp tập thở tự
điều khiển, trên 61 bệnh nhân sau chấn thương tủy sống từ mức D6 trở lên. Phương
pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả và thử nghiệm lâm sàng so sánh trước sau. Kết

quả cho thấy có sự cải thiện đáng kể độ giãn nở lồng ngực, các thông số chức năng
hô hấp sau 3 tháng, 6 tháng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) [9].
- Đỗ Đào Vũ (2014) Đánh giá kết quả phục hồi chức năng bàng quang thần
kinh sau chấn thương tủy sống. Phương pháp tiến cứu can thiệp ngẫu nhiên có đối
chứng trên 68 BN có bàng quang thần kinh tăng hoạt do chấn thương tủy sống. Những
bệnh nhân này được hỏi bệnh, khám lâm sàng, cận lâm sàng, thăm dò niệu động học để
chẩn đoán xác định và điều trị bằng hai phương pháp: nhóm nghiên cứu tiêm Botox
200 đơn vị vào thành bàng quang, nhóm chứng uống Driptan 20mg/24 giờ. Bệnh nhân
được theo dõi sau 4 tuần, 12 tuần và 24 tuần tại Trung tâm Phục hồi chức năng Bệnh
viện Bạch Mai. Kết quả nghiên cứu cho thấy Chất lượng sống, mức độ hài lòng của
bệnh nhân có sự cải thiện tại các thời điểm tái khám so với trước điều trị (p < 0,05).
Nhóm nghiên cứu cải thiện tốt hơn hẳn so với nhóm chứng (UDI-6 cải thiện 2-3
điểm; IqoL cải thiện 20 điểm; VAS cải thiện 1-2 điểm) (p < 0,05) [53].
- Đỗ Thị Ngọc Anh (2015) Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân
chấn thương tủy sống giai đoạn tái hòa nhập cộng đồng. Nghiên cứu mô tả cắt
ngang trên 30 BN TTTS tại cộng đồng, kết quả có hơn một nửa số bệnh nhân có
CLCS ở mức thấp chiếm 53,3%; CLCS ở mức cao chiếm 23,3%; mức trung bình
chiếm 16,7%; mức rất thấp chiếm 6,7% và không có BN nào có CLCS ở mức cao.
Có 93,3 % các BN có tình trạng đau/khó chịu các mức độ từ nhẹ đến nặng, chỉ có
6,7% số BN là không đau/khó chịu [54].


×