Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn triết học mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.84 KB, 18 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Triết học Mác - Lênin hay học thuyết Mác-Lênin là một trong ba bộ phận
cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, được Các Mác, Engels sáng lập vào thế kỷ
thứ XIX, sau đó được Lênin và các nhà macxit khác phát triển thêm. Triết học
Mác- Lê nin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với
những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự
ra đời của triết học Mác-Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư
tưởng loài người, trong lịch sử triết học.
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và
V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong
việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
II. Kết cấu bài Tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm có 3 chương nội dung như sau:
- Chương 1: Điều kiện lịch sử và sự ra đời của triết học Mác – Lênin
- Chương 2: Nội dung và bản chất của triết học Mác - Lênin
- Chương 3: Ưu điểm của triết học Mác – Lênin: khắc phục những hạn chế
trong lịch sử tư tưởng triết học
B. NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm
văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Ở Trung Quốc,
thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết; người Trung Quốc hiểu triết học
1



không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là
trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng
mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người
đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng
Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông
thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh
đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã
là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó
tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm
những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một
chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó
nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói
riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu
sống; song, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể
xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra
được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã
nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,
thành lý luận và triết học ra đời.
2



Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của
thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Đối tượng của triết học
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức,
bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là
nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học làkhoa học của mọi
khoa học, đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại. Thời kỳ này, triết học
đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự
phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần học. Nền triết học tự nhiên
bị thay bằng nền triết học kinh viện. Triết học lúc này phát triển một cách chậm
chạp trong môi trường chật hẹp của đêm trường trung cổ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo một cơ sở tri
thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc
biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất là
các khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập. Sự
phát triển xã hội được thúc đẩy bởi sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, bởi những phát hiện lớn về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu
khác của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho
sự phát triển triết học. Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa
học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan, với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ
(Anh), Điđrô, Henvêtiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... V.I.Lênin đặc biệt đánh giá
cao công lao của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa
3



duy vật trong lịch sử triết học trước Mác. "Trong suốt cả lịch sử hiện đại của châu
Âu và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết
chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ phong kiến trong
các thiết chế và tư tưởng, chỉ có chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để,
trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín,
với thói đạo đức giả, v.v.". Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong
các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc
của triết học cổ điển Đức.
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng
bước làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò "khoa học của các
khoa học". Triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó.
Hêghen tự coi triết học của mình là một hệ thống phổ biến của sự nhận thức, trong
đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu
thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan
niệm "khoa học của các khoa học", triết học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu
của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường
duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với
mọi khoa học cụ thể. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một
hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng
cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết
học. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Chính vì tính đặc thù như
vậy của đối tượng triết học mà vấn đề tư cách khoa học của triết học và đối tượng
của nó đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. Nhiều học thuyết
triết học hiện đại ở phương Tây muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học,
4



xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình như mô tả những hiện tượng tinh
thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản...
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những
vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con
người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập, khẳng định vị
thế của mình và đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ của nó ở các nước Tây Âu, đặc
biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra được những
thành tựu to lớn về nhiều mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự
tạo ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ
nghĩa. Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã
hội) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ
thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp công nhân tại nhiều
nước tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê tại
các nước Anh, Pháp và Đức. Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh
nhu cầu cần có một lý luận cách mạng và khoa học của nó. Bên cạnh đó sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn, lý luận, chính trị, xã
hội…đòi hỏi các nhà lý luận phải trả lời, nghĩa là nó kích thích cho các trào lưu tư
tưởng triết học ra đời trong đó có triết học Mác – Lênin. Ngoài ra, chính sự phát
triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng phát
triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đáu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị,
điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt Liông (Pháp – 1831), khởi nghĩa
của thợ dệt ở Xilêdi (Đức – 1844), Phong trào Hiến chương ở Anh (1836 – 1847).
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách
mạng dẫn đường, trong khi đó có rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm
5



cách len lỏi vào phong trào công nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết
học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng
với cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất
thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu cầu này.
1.2. Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử
mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực
tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội
không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L.
Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp
luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong
phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông
cũng khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan
duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của
Phoiơbắc. Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là:
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới
này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật
chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời,
phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
- Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những
đại biểu lớn của nó (A. Xmít và Đ. Ricácđô), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa
những quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: quan điểm duy
vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao
động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong
học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các
6



nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học
thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
- Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với
những đại biểu lớn của nó là H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen, c. Mác và Ph.
Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các
nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông
cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất
không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó các ông xây dựng nên một lý luận mói
- lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước
phát triển mới, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó.
Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng
lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính
thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu
khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm
mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan
điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên.
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich
Lomonosov (8/11/1711 – 4/4/1765) và Antoine Lavoisier (26/8/1743 – 8/5/1794).
- Thuyết tế bào của Theodor Schwann (sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức; mất ngày
11/1/1882, Köln, Đức) và Matthias Schleiden (1804-1881). Chứng minh sự thống
nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
- Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin (12/2/1809 – 19/4/1882) là học
thuyết cho rằng sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là
chọn lọc tự nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh
vật với giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự
nhiên. Bác bỏ quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.

7


Ý nghĩa của các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học
Mác: Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác
nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới,
vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
1.4. Những nhân tố chủ quan
Ngoài những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận,
thì sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu
nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người
của các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu
khoa học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng
kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận của
giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội. Cùng với
sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người hết
mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất
yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của
giai cấp công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề
cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
Chương 2
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và
V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong
việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
8



Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ
giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học
Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của
phương pháp luận.
- Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với
nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là
phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận
khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên
cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
- Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới
quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc
khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện
chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý
luận vào hoạt động thực tiễn.
- Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học MácLênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ
thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học
Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng sự
phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong
kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết
học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà
khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát
triển của khoa học và bản thân triết học.
9



Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng
trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung
và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô
cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết
sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập
trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện
mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi
cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri
thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri
thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu
tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại
hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính
giáo điều.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh
cả hai thái cực sai lầm:
- Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng,
thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;
- Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng
một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà
không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp
váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả
10



vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học
Mác - Lênin nói riêng.
Chương 3
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN KHẮC PHỤC NHỮNG
HẠN CHẾ TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa
nhận là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa
triết học nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ
“giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết
học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất.
Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
* Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp
tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của
nhân dân lao động và sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác
với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ
trình độ tự phát lên tự giác.
* Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống
nhất tính khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất
hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít mang tính
cách mạng sâu sắc nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học mácxít chính là ở
sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng,
với quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận “trở thành lực lượng vật chất”.
Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát
các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật
và, ngược lại, phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những
thành tựu của khoa học hiện đại.
11



Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự trong tiến trình
phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại. Cái mới về chất của triết học Mác, nói
một cách vắn tắt, là ở chỗ, với tư cách “một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó
cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận
thức vĩ đại"(1). Và, thực tiễn cũng cho thấy rằng, để luận giải đúng thực chất các sự
kiện lịch sử trọng yếu đang tham gia quy định diện mạo của thế giới ngày nay, triết
học Mác vẫn thực sự là một công cụ nhận thức sắc bén, mang tầm thời đại.
Như chúng ta đã biết, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai
phát kiến vĩ đại của C.Mác. Ở đó, khác về nguyên tắc và đối lập với các quan niệm
truyền thống, bằng việc áp dụng và mở rộng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh
vực xã hội, C.Mác đã phát hiện ra tiền đề đầu tiên, chân chính của lịch sử nhân loại
là những con người hiện thực, mà đặc trưng quyết định là việc con người sản xuất
xã hội ra đời sống vật chất của chính mình. Và, khi vận dụng một một cách đúng
đắn phép biện chứng duy vật vào phân tích quá trình sản xuất vật chất ấy, C.Mác đã
chỉ ra ra rằng, nguồn gốc sâu xa, suy đến cùng của mọi hiện tượng xã hội - lịch sử
(như đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội,...) và do vậy, cũng là động lực cơ bản
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội chính là cái mâu thuẫn vẫn luôn nảy
sinh và đòi hỏi phải được giải quyết giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Cuối cùng, khi áp dụng những thành quả nghiên cứu trên đây vào phân tích một xã
hội cụ thể, nhưng rất điển hình là xã hội tư bản, theo phương pháp "đem quy những
quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất
vào trình độ của những lực lượng sản xuất", C.Mác đã đi đến một tư tưởng thiên tài
– tư tưởng khẳng định "sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên". Theo lôgíc nội tại của tư tưởng thiên tài này, chúng ta
không thể không đi đến một nguyên lý có tính chất vạch thời đại là, trong khi phát
triển đầy đủ nhất những đặc trưng bản chất của mình, chủ nghĩa tư bản cũng đồng
thời tạo ra những tiền đề cho sự diệt vong tất yếu của nó, cho sự thay thế nó bằng
chủ nghĩa xã hội.
12



Đó chính là thực chất quan niệm duy vật biện chứng của C.Mác về lịch sử.
Quan niệm này đã được V.I.Lênin hiện thực hoá một cách sáng tạo bởi Cách mạng
Tháng Mười và qua đó, mở ra cả một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Lịch sử nhân loại đã ghi nhận rằng, hơn 70 năm tồn tại và phát triển với tư
cách một hệ thống, chủ nghĩa xã hội đã tỏ rõ là một chế độ xã hội tốt đẹp nhất mà
loài người từng biết đến, góp phần to lớn và nhiều khi có ý nghĩa quyết định vào
việc hiện thực hoá các mục tiêu cơ bản của thời đại. Chính vì thế, sự sụp đổ của nó
đã trở thành một sự kiện bi thảm nhất của thế kỷ XX, một thất bại to lớn và cay
đắng của nhân loại tiến bộ. Trong bối cảnh ấy, không ít người trong số chúng ta đã
bắt đầu tỏ ra hoài nghi về tính hiện thực của học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, chúng ta cần phải có một quan niệm đúng đắn về những sự biến vẫn
thường diễn ra trong tiến trình lịch sử. Bởi phép biện chứng của lịch sử đã chỉ ra
rằng, với tư cách là kết quả của quá trình tìm tòi và thử nghiệm các mô hình, với
tính chất của cuộc đấu tranh nhằm chuyển hoá giữa cái cũ thành cái mới, một cuộc
chiến đấu một mất một còn giữa cách mạng và phản cách mạng, sự ra đời của chế
độ mới không bao giờ là một quá trình suôn sẻ, trơn tru. Do phụ thuộc một cách
tổng hoà, cùng một lúc vào nhiều nhân tố, cả khách quan lẫn chủ quan, nhiều khi
chế độ mới phải tạm thời lùi bước, thậm chí thất bại. Lịch sử các cuộc cách mạng
tư sản, mà điển hình là Cách mạng tư sản Pháp, đã diễn ra đúng như vậy. Phải trải
qua gần 60 năm (1789 – 1848) với vô số biến cố thăng trầm, được dựng lên rồi lại
đổ, nền Cộng hòa tư sản Pháp mới được xác lập hoàn toàn trên mảnh đất hiện thực
của nó. Một cuộc cách mạng mà mục tiêu của nó chỉ là nhằm thay đổi một chế độ
bóc lột này bằng một chế độ bóc lột khác mà đã là như vậy, thì một cuộc cách mạng
với mục tiêu cao cả như cách mạng xã hội chủ nghĩa lại càng có thể như vậy và còn
hơn thế nữa.
Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, C. Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Lần đầu tiên,

13


các quy luật phát triển của xã hội loài người được giải thích một cách khoa học,
khách quan, xuất phát từ các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã
hội. Triết học Mác không hề hạ thấp mà nhấn mạnh sự tác động trở lại của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất; của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng; của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội; của chính trị đối với kinh tế,... Hơn
nữa, triết học Mác luôn quan niệm: vấn đề không chỉ là giải thích thế giới mà quan
trọng hơn là cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn, phục vụ con người. Kế thừa
những người đi trước song vượt lên khỏi tư duy của chủ nghĩa “duy vật tầm
thường” và chủ nghĩa “duy kinh tế”, C. Mác đã sáng tạo ra học thuyết khoa học
biện chứng về phát triển.
Học thuyết Mác là vũ khí lý luận và tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh
chống áp bức, bóc lột và bất công. Với việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư,
C. Mác đã vạch trần bản chất, hình thức biểu hiện và cách thức mà nhà tư bản bóc
lột người công nhân và nhân dân lao động. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất
có khả năng liên minh, đoàn kết với các giai tầng khác để thực hiện sứ mệnh lịch sử
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng một chế độ xã hội không còn người
bóc lột người. Muốn vậy, trước hết, giai cấp công nhân phải tự mình đứng lên giải
phóng chính mình. Với lập luận đó ở thời đại của ông, C. Mác đã tạo ra một cuộc
cách mạng trong lịch sử tư tưởng của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng trở thành thực sự khoa học; hình thành ở chủ nghĩa Mác lý luận về sự
giải phóng: giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại. Sự
giải phóng đó chỉ có thể tìm thấy ở chủ nghĩa xã hội, như trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản đã chỉ ra, một xã hội mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Ngày nay, khi nhân loại
đang hướng về những mục tiêu phát triển bao trùm và bền vững, phát triển toàn
diện con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm càng chứng tỏ rằng, lý
luận của chủ nghĩa Mác để giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đúng, lý

tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn; đồng thời càng
14


khẳng định một trong những giá trị vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác là tư tưởng nhân
văn vì con người, mà trước hết là vì những người lao động.
Tính lịch sử - cụ thể luôn là điểm then chốt trong phương pháp tiếp cận của
học thuyết Mác. Bởi theo ông, lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ đó; lý
luận phải xuất phát từ thực tiễn, được tổng kết, khái quát từ thực tiễn. Bản thân C.
Mác và Ph. Ăng-ghen cũng thường xuyên bổ sung, hoàn thiện lý luận của mình
bằng thực tiễn hoạt động cách mạng. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời năm
1848 là kết quả của sự kết hợp giữa nghiên cứu khoa học với việc tổng kết thực tiễn
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX. Trong Lời
tựa viết cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Đức vào năm
1872, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nhấn mạnh, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc
áp dụng các nguyên lý trong Tuyên ngôn cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử
đương thời. Đó chính là thái độ mẫu mực, cách ứng xử khoa học nhất đối với việc
vận dụng và phát triển lý luận trong thực tiễn.
Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, công lao to lớn và đầu tiên là
ông đã xây dựng một thế giới quan và phương pháp luận mới, khoa học và cách
mạng, đem lại cho nhân loại tiến bộ và nhất là cho giai cấp công nhân một công cụ
vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn
bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, các quy luật phát triển
của xã hội loài người được phát hiện, tích hợp và trình bày trong một hệ thống các
quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, chứ không phải ngược lại; kinh tế, xét đến cùng, quyết định chính trị; sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nhờ
vậy, lần đầu tiên nhân loại có một học thuyết phát triển tương đối hoàn chỉnh.

C.Mác chỉ ra rằng, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất
xã hội; phương thức sản xuất vật chất quyết định các lĩnh vực khác của đời sống xã
15


hội và chính quần chúng nhân dân mới là những người sáng tạo chân chính ra lịch
sử. Chính thực tiễn của chủ nghĩa tư bản châu Âu đương thời đã được C.Mác mổ
xẻ, phân tích, giải phẫu và minh chứng sâu sắc cho các quan điểm lý luận của mình.
Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào
nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã vạch ra những quy
luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, nhìn nhận chủ nghĩa tư bản trong cả quá
trình phát sinh, phát triển và diệt vong của nó. Một trong hai phát kiến vĩ đại của
Mác là việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư được ví như “hòn đá tảng” trong
toàn bộ học thuyết của Mác. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật cơ bản, phổ biến
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với tính tư nhân tư bản chủ nghĩa của việc chiếm hữu tư
liệu sản xuất. Để tồn tại và vượt qua các cuộc khủng hoảng, các cú sốc trong sự
phát triển, chủ nghĩa tư bản luôn phải tự điều chỉnh để điều hòa mâu thuẫn này.
Điều đó cho thấy, phát kiến vĩ đại của Mác luôn đúng, ngay cả khi chủ nghĩa tư bản
hiện đại bước vào thời đại toàn cầu hóa và chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết
giá trị thặng dư, C.Mác đã đặt nền móng vững chắc cho việc hiện thực hóa tư tưởng
về chủ nghĩa xã hội khoa học - học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công
nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột và tha
hóa. V.I.Lê-nin đã nhận định rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là soi sáng vai
trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.
Nhờ có thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học,

C.Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể đấu
tranh xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng thành công xã hội mới, đó là giai cấp vô
sản. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ cho giai cấp vô sản hiểu rõ rằng, trước hết họ
16


phải tự mình vùng lên giải phóng khỏi ách thống trị của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết xung quanh mình tất cả
những người lao động. Đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế
giới thì học thuyết của Mác là vũ khí lý luận, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc
đấu tranh chống áp bức, bóc lột cũng như trong sự nghiệp xây dựng xã hội tương
lai tươi đẹp.
C. KẾT LUẬN
Triết học Mác-Lênin ra đời và hoàn chỉnh đã góp phần quan trọng trong nhận
thức và đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp vô sản. Các Mác đã phát
biểu rằng: Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai
cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình.
Tinh thần cách mạng của triết học Mác-Lênin được Các Mác phát biểu
rằng: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề
là cải tạo thế giới.
Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng làm
cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa
học; nhờ đó mà triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn về hiện
thực. Triết học Mác - Lênin đoạn tuyệt với quan niệm xem triết học là “khoa học
của các khoa học” như tham vọng của các trường phái triết học tự nhiên trước kia,
mà xem sự gắn bó với khoa học cụ thể là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển
của triết học. Triết học Mác - Lênin với thế giới quan duy vật và phương pháp luận
khoa học của mình có ý nghĩa định hướng chung cho sự phát triển của khoa học và
càng trở nên đặc biệt quan trọng trong thời đại khoa học - công nghệ hiện nay.
Trong thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, các trào lưu cách mạng xã hội

đã và đang tạo nên sự biến đổi sâu sắc và hết sức năng động trên mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Sự thực hiện những nhiệm vụ to lớn nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội do
thời đại đặt ra đòi hỏi con người phải có thế giới quan khoa học vững chắc và năng
lực tư duy sáng tạo. Việc nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác
17


trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và tư duy sáng tạo của mình.
Đó còn là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và
của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói riêng.

18



×